Khóa luận Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 3

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT 3

CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ 3

1. Khái niệm chứng khoán và chào bán chứng khoán riêng lẻ 3

1.1. Chứng khoán 3

1.1.1. Định nghĩa 3

1.1.2. Đặc điểm 5

1.1.3. Phân loại 6

1.2. Chào bán chứng khoán riêng lẻ 7

1.2.1. Định nghĩa 7

1.2.2. Đặc điểm 8

1.2.3. Phương thức chào bán chứng khoán riêng lẻ 9

1.2.4. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay 11

2. Pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ 12

2.1. Khái niệm 12

2.2. Nội dung pháp luật chào bán chứng khoán riêng lẻ 13

2.2.1. Pháp luật chào bán cổ phiếu riêng lẻ 13

2.2.2. Pháp luật về chào bán trái phiếu riêng lẻ 15

2.3. Mục đích, nguyên tắc quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 17

2.3.1. Mục đích quản lý Nhà nước 17

2.3.2. Nguyên tắc quản lý Nhà nước 17

2.3.3. Nội dung quản lý Nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 18

CHƯƠNG II 20

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN 20

CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA DOANH NGHIỆP 20

VIỆT NAM HIỆN NAY 20

1. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ 20

1.1. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty cổ phần 20

1.1.1. Hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ khi thành lập công ty cổ phần 20

1.1.2. Hoạt động chào bán cổ phiếu khi công ty cổ phần tăng vốn 22

1.2. Chào bán cổ phần riêng lẻ của các công ty Nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ phần 23

1.2.1. Đối tượng và điều kiện cổ phần hoá 24

1.2.2. Hình thức cổ phần hoá 24

1.2.3. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần 25

1.2.4. Xác định giá trị doanh nghiệp 25

1.2.5. Giá bán cổ phần lần đầu 26

1.2.6. Phương thức tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu 27

1.2.7. Phí cổ phần hoá 28

1.3. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của các ngân hàng thương mại cổ phần 28

1.4. Chào bán cổ phần riêng lẻ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần 30

1.4.1. Đối tượng và điều kiện chuyển đổi 31

1.4.2. Hình thức chuyển đổi doanh nghiệp 31

1.4.3. Giá trị doanh nghiệp để chuyển đổi 32

1.4.4. Đối tượng mua cổ phần 32

1.4.5. Những bảo đảm của Nhà nước đối với cổ đông và công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài 33

1.5. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần 34

2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ 34

2.1. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp 34

2.1.1. Đối tượng chào bán trái phiếu riêng lẻ 35

2.1.2. Đối tượng mua trái phiếu doanh nghiệp 35

2.1.3. Điều kiện chào bán trái phiếu 35

2.1.4. Phương thức chào bán trái phiếu riêng lẻ 37

2.1.5. Các quy định về trái phiếu doanh nghiệp 37

2.2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của các tổ chức tín dụng 38

2.2.1. Đối tượng phát hành trái phiếu 38

2.2.2. Phương thức phát hành 39

2.2.3. Điều kiện phát hành trái phiếu 39

2.2.4. Trình tự, thủ tục chào bán trái phiếu riêng lẻ 40

2.3. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty nhà nhà nước 40

3. Quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 41

3.1. Cơ quan quản lý Nhà nước 41

3.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 43

3.2.1. Đối với chủ thể chào bán chứng khoán riêng lẻ 43

3.2.2. Đối với tổ chức trung gian và nhà đầu tư 44

CHƯƠNG III 45

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN RIÊNG LẺ CỦA DOANH NGHIỆP 45

VIỆT NAM HIỆN NAY 45

1. Những căn cứ hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ 45

1.1. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam 45

1.2. Đặc điểm, tình hình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam 45

1.3. Thực trạng pháp luật Việt Nam về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 46

2. Một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ 47

2.1. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 47

2.2. Hoàn thiện pháp luật về chào bán chứng khoán riêng lẻ của những doanh nghiệp chuyển đổi thành loại hình doanh nghiệp khác 48

2.2.1. Đối với các DNNN CPH 48

2.2.2. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần 50

2.3. Ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ cho công ty nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn 52

2.3.1. Đối với hoạt động chào bán trái phiếu riêng lẻ công ty nhà nước 52

2.3.2. Đối với hoạt động chuyển đổi công ty trách nhiệm hữu hạn thành công ty cổ phần 53

2.4. Ban hành điều kiện chào bán trái phiếu riêng lẻ thống nhất cho các tổ chức tín dụng 53

2.5. Sửa đổi, bổ sung một số quy định 54

2.6. Một số biện pháp khác 55

2.6.1. Xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp trong hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ 55

2.6.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, tuyên truyền kiến thức về chứng khoán, TTCK 55

2.6.3. Xây dựng thị trường giao dịch cho các chứng khoán chào bán riêng lẻ 56

KẾT LUẬN 57

TÀI LIỆU THAM KHẢO 58

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 60

 

doc65 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2461 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về hoạt động chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các doanh nghiệp. 1.2.3. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần Tuỳ thuộc vào đối tượng mà số lượng cổ phần được phép mua khác nhau, thể hiện sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Theo Điều 4 Nghị định 187/2004/NĐ-CP, các nhà đầu tư trong nước được mua với số lượng không hạn chế, nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần theo quy định của pháp luật (không quá 49% theo Quyết định 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam). 1.2.4. Xác định giá trị doanh nghiệp Giá trị doanh nghiệp là vấn đề quan trọng được các doanh nghiệp khi chuyển đổi quan tâm. Hoạt động này có ý nghĩa quyết định đến giá bán cổ phần lần đầu. Trước đây, theo Nghị định 28/1996/NĐ-CP ngày 07/05/1996 và Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/06/1998 của Chính phủ, giá trị doanh nghiệp được xác định thường không phản ánh đúng với giá trị thực tế. Giá trị doanh nghiệp có thể là giá thực tế người mua và người bán có thể chấp nhận được hoặc căn cứ vào hiện trạng về tính năng, kĩ thuật, phẩm chất, giá trị của tài sản và tình hình kinh doanh trong 03 năm cuối. Nghị định 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 của Chính phủ đã đưa thêm giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp góp phần xác định giá trị doanh nghiệp khách quan hơn. Nhưng quá trình thực hiện Nghị định này có nhiều bất cập. Ngày 16/11/2004 Chính phủ ban hành Nghị định 187/2004/NĐ-CP quy định cụ thể hơn về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp. Việc xác định giá trị doanh nghiệp được thực hiện theo hai phương pháp, phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu. Trong đó, giá trị thực tế của doanh nghiệp theo phương pháp tài sản là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp này là số liệu của sổ kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm CPH, tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản tại thời điểm CPH, giá thị trường của tài sản tại thời điểm CPH. Giá trị thực tế của doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu chủ yếu dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai dựa trên những báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 05 năm liền trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai (khoảng 03-05 năm sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần) và lãi xuất trái phiếu Chính phủ dài hạn ở thời điểm gân nhất trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được xác định phản ánh đúng giá trị thực tế của doanh nghiệp, hạn chế thất thoát vốn nhà nước. Tuy nhiên, thẩm quyền quyết định giá trị doanh nghiệp là những cơ quan chủ quản của doanh nghiệp ảnh hưởng đến tính minh bạch trong hoạt động này. 1.2.5. Giá bán cổ phần lần đầu Theo quy định tại Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư 126/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/TT-BTC, giá bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp giảm 40% so với giá đấu thành công bình quân thực tế, các nhà đầu tư chiến lược giảm 20% so với giá đấu thành công bình quân thực tế, đối với nhà đầu tư khác thì thực hiện theo giá đấu thành công của từng nhà đầu tư. Những quy định này giúp doanh nghiệp vừa tận dụng được tối đa các nguồn vốn, giảm chi phí giải quyết quyền lợi cho người lao động vừa duy trì quan hệ bạn hàng với những đối tác quan trọng. Tuy nhiên, việc chỉ quy định nhà đầu tư chiến lược do cơ quan quyết định CPH phê duyệt dẫn đến hiện tượng mỗi cơ quan đưa ra những cách thức xác định khác nhau. Ngày 19/12/2006 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 95/2006/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư 126/2004/TT-BTC quy định rõ hơn: người lao động trong doanh nghiệp CPH, các pháp nhân trong cùng Tổng công ty không được xác định là nhà đầu tư chiến lược. Quy định này góp phần hạn chế sự tuỳ tiện trong áp dụng pháp luật của các cơ quan quyết định CPH. Thông tư 95/2006/TT-BTC đã giới hạn tỷ lệ mua tối đa của người lao động trong doanh nghiệp là 100 cổ phần/năm công tác, nhà đầu tư chiến lược được mua tối đa là 20% số cổ phần bán ra. Như vậy sẽ hạn chế được những đối tượng trên sử dụng quyền mua cổ phần với giá ưu đãi để đầu cơ cổ phiếu, lũng đoạn thị trường. 1.2.6. Phương thức tổ chức bán đấu giá cổ phần lần đầu Điều 30 Nghị định 187/2004/NĐ-CP chỉ quy định một hình thức chào bán cổ phần lần đầu thông qua bán đấu giá: đấu giá trực tiếp tại doanh nghiệp nếu khối lượng cổ phần bán ra từ 01 tỷ đồng trở xuống hoặc đấu giá tại tổ chức tài chính trung gian nếu số lượng cổ phần bán ra trên 01 tỷ đồng, nếu khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng sẽ tổ chức đấu giá tại Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Quy định này góp phần khắc phục tình trạng CPH khép kín, gắn CPH với phát triển thị trường vốn và TTCK. Đối với những doanh nghiệp có tên tuổi khi CPH việc chào bán trên thị trường tập trung với lượng vốn huy động trên 10 tỷ đồng không quá khó khăn. Những doanh nghiệp chưa đủ điều kiện về kế toán, kiểm toán, minh bạch hoá thông tin, bán đấu giá trên TTCK có bảo đảm thành công cho đợt chào bán hay không? Hơn nữa, các DNNN hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, có những đặc thù riêng trong khi đó pháp luật chỉ quy định một hình thức duy nhất để chào bán cổ phần là bán đấu giá. Trình tự tổ chức bán đấu giá lần đầu được quy định cụ thể. Trước khi bán đấu giá tối thiểu 20 ngày, cơ quan thực hiện bán đấu giá phải thông báo công khai các thông tin về thời gian, địa điểm, hình thức bán cổ phần, điều kiện tham gia, số lượng cổ phần dự kiến bán trên các phương tiện thông tin đại chúng. Thời hạn thực hiện chào bán cổ phần là 04 tháng kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền phê duyệt phương án CPH. Tuy nhiên, Nghị định 187/2004/NĐ-CP chưa đưa ra cách xác định giá đấu bình quân, xử lý trường hợp cổ phần không phân phối hết... Những bất cập trên đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư 95/2006/TT-BTC ngày 19/12/2006 của Bộ Tài chính. Nếu số lượng cổ phần không bán hết còn lại dưới 50% thì điều chỉnh quy mô vốn điều lệ, tỷ lệ vốn nhà nước tại doanh nghiệp, nếu trên 50% thì xem xét điều chỉnh giá khởi điểm và tổ chức bán đấu giá tiếp số cổ phần còn lại. 1.2.7. Phí cổ phần hoá Chi phí CPH được trừ vào vốn nhà nước tại doanh nghiệp, không vượt quá 10% tổng chi phí CPH (điểm 8 mục B phần V Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP). Quy định này không đảm bảo các chi phí cho các hoạt động liên quan đến CPH. Bộ Tài chính đã điều chỉnh: nếu do Ban chỉ đạo của doanh nghiệp thực hiện, chi phí tối đa không quá 10% tổng chi phí CPH; nếu do tổ chức tài chính trung gian thực hiện tối đa không quá 15%; trường hợp doanh nghiệp thực hiện đấu giá qua TTGDCK, tối đa không quá 20% tổng chi phí CPH (mục 12 Thông tư 95/2006/TT-BTC ngày 19/12/2006). Doanh nghiệp khi tổ chức bán cổ phần không phải “đau đầu” cho “bài toán” chi phí CPH. Với những quy định hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã tạo được cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động chào bán cổ phần của DNNN chuyển đổi thành công ty cổ phần. Có thể những quy định này chưa hoàn thiện nhưng với nỗ lực và quyết tâm, quá trình CPH mà Đảng và nhân dân ta theo đuổi trong thời gian qua sẽ thành công. 1.3. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của các ngân hàng thương mại cổ phần Do được phép thực hiện các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng nên các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) khi thực hiện chào bán chứng khoán riêng lẻ thường chịu sự kiểm soát chặt chẽ hơn. NHTMCP được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần nên khi thực hiện hoạt động chào bán cổ phiếu riêng lẻ trước hết phải tuân theo những quy định của Luật doanh nghiệp. Ngoài ra, chủ thể này phải chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật ngân hàng như: Luật ngân hàng, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác của Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể tại khoản 2 Điều 43 Nghị định 49/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/9/2000 về tổ chức và hoạt động của NHTM đã quy định: Việc phát hành cổ phiếu của NHTMCP được thực hiện theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Ngày 04/9/2001, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ban hành quy chế cổ đông, cổ phần, cổ phiếu và vốn điều lệ của NHTMCP để hướng dẫn quy định trên. Quy chế này thể hiện sự can thiệp sâu sắc của Ngân hàng Nhà nước trong hoạt động chào bán cổ phần để tăng vốn của các chủ thể này. Các NHTMCP chỉ được thay đổi vốn điều lệ sau khi được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận bằng văn bản. Quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN không quy định các điều kiện tăng vốn điều lệ nhưng với yêu cầu nhiều giấy tờ, thủ tục khiến nhiều ngân hàng ngần ngại khi muốn tăng vốn. Hồ sơ đề nghị thay đổi vốn điều lệ bao gồm: Tờ trình của Hội đồng quản trị, Biên bản của Đại hội cổ đông về việc thay đổi cơ cấu vốn điều lệ, phương án thay đổi mức vốn điều lệ, danh sách và tỷ lệ vốn cổ phần của các cổ đông lớn trước và sau khi thay đổi, đơn xin mua cổ phiếu của cổ đông lớn và những văn bản khác có liên quan theo quy định của pháp luật. NHTM thực hiện cùng lúc những hoạt động mang tính rủi ro cao, pháp luật thường quy định cụ thể, chặt chẽ. Nhưng với quá nhiều giấy tờ, đặc biệt là yêu cầu đơn xin mua cổ phần của cổ đông lớn rõ ràng không phù hợp, gây trở ngại cho các ngân hàng khi huy động vốn. Hơn nữa, việc mua hay không mua cổ phiếu là quyền của cổ đông, có nên yêu cầu họ làm đơn “xin” mua cổ phiếu? Thẩm quyền quyết định giá chào bán cổ phần là Hội đồng quản trị. Trường hợp giá chào bán cổ phần cao hơn mệnh giá cổ phần phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua, phần chênh lệch được hạch toán vào quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ. Hiện nay, nhiều NHTM tiến hành chào bán cổ phiếu riêng lẻ để tăng vốn, chỉ cần gửi hồ sơ tối thiểu xin Ngân hàng Nhà nước cấp giấy chứng nhận tăng vốn điều lệ. Hầu hết các NHTMCP đã được cơ cấu lại và lành mạnh hoá tài chính. Cổ phiếu ngân hàng đang có sức hấp dẫn đối với nhà đầu tư với mức lợi nhuận cao nhất là 40%, thấp nhất là 15% trong khi tỷ lệ này ở các ngành công nghiệp khác chỉ là 6-10%. [17, tr.15] Do đó, một mặt phải quản lý chặt chẽ để ngăn ngừa rủi ro đồng thời tạo thuận lợi cho các ngân hàng tăng vốn, nâng cao năng lực cạnh tranh. Quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN được ban hành khi TTCK Việt Nam đi vào hoạt động hơn 01 năm. TTCK khi đó còn khá mới mẻ với công chúng đầu tư. Vì vậy, Quyết định 1122/2001/QĐ-NHNN thể hiện sự thận trọng của Ngân hàng Nhà nước trong việc cho phép các NHTMCP tham gia niêm yết trên TTGDCK. Các NHTMCP muốn chào bán cổ phiếu và niêm trên TTGDCK phải được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Trong điều kiện hiện nay quy định như vậy không còn phù hợp. Nếu các NHTMCP phải chờ sự chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước sẽ không thể cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Hơn nữa, Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới WTO ngày 07/11/2006, việc mở cửa và thực hiện các cam kết quốc tế là điều không tránh khỏi. Trước sức ép từ các thành viên WTO yêu cầu Việt Nam phải mở cửa hơn nữa cho các ngân hàng nước ngoài nhưng chúng ta đã đạt được những cam kết hợp lý. Đó là chỉ những ngân hàng nước ngoài có tổng tài sản trên 10 tỷ USD mới được thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài (từ tháng 4 năm 2007), trên 20 tỷ USD được phép thành lập chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam, bên nước ngoài được phép mua tối đa 30% cổ phần của các NHTM Nhà nước và đến 01/01/2011 được phép hoạt động như ngân hàng trong nước…[12, tr.7]. Các NHTM Việt Nam có lợi thế hơn ngân hàng nước ngoài về thị phần, mạng lưới chi nhánh, sự am hiểu về môi trường kinh doanh và tập quán tiêu dùng của nhân dân... nhưng cần tiến hành đổi mới cơ chế quản lý, nâng cao năng lực tài chính trước thời cơ và thách thức mới. 1.4. Chào bán cổ phần riêng lẻ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chuyển đổi thành công ty cổ phần Với tình hình chính trị xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh, những chính sách ưu đãi đầu tư, cải cách thủ tục hành chính khi thực hiện cấp Giấy phép đầu tư, thẩm định đầu tư... trong những năm qua, Việt Nam luôn được coi là một môi trường đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2006 cả nước đã thu hút được gần 10 tỷ USD vốn đăng ký mới, trong đó có khoảng 800 dự án được cấp mới với tổng vốn đăng ký trên 7,6 tỷ USD và 490 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn tăng thêm là 2,4 tỷ USD. [21] Cùng với quá trình CPH các DNNN hiện nay, chuyển đổi các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xem như một giải pháp tích cực nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài. Ngày 15/4/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 38/20003/NĐ-CP về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho hoạt động này. 1.4.1. Đối tượng và điều kiện chuyển đổi Đối tượng chuyển đổi là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đáp ứng đủ các điều kiện: đã góp đủ số vốn pháp định theo quy định tại Giấy phép đầu tư; đã chính thức hoạt động ít nhất ba năm, trong đó năm cuối cùng trước khi chuyển đổi phải có lãi; có hồ sơ đề nghị chuyển đổi. Quy định trên không yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu tạo điều kiện cho doanh nghiệp chuyển đổi dễ dàng hơn. Tuy nhiên, Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT-BKH-BTC ngày 29/12/2003 hướng dẫn thực hiện Nghị định 38/20003/NĐ-CP đưa ra một số doanh nghiệp chưa được xem xét chuyển đổi. Đó là những doanh nghiệp trong đó các bên có cam kết chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho Nhà nước Việt Nam và bên Việt Nam; doanh nghiệp có doanh thu trước; doanh nghiệp đầu tư theo các hình thức BT, BOT, BTO; doanh nghiệp có quy mô vốn đầu tư quy định tại Giấy phép đầu tư trên 70 triệu đô la Mỹ và dưới 01 triệu đô la Mỹ; doanh nghiệp có số lỗ lũy kế tại thời điểm xin chuyển đổi (sau khi đã dùng lãi của năm tài chính ngay trước năm chuyển đổi để bù đắp) lớn hơn hoặc bằng vốn của chủ sở hữu; doanh nghiệp có số nợ phải thu không còn khả năng thu hồi tại thời điểm xin chuyển đổi lớn hơn vốn của chủ sở hữu. Quy định trên đã hạn chế nhiều doanh nghiệp muốn lập hồ sơ xin chuyển đổi nhưng thuộc diện chưa được xem xét. Có thể hiểu Nhà nước muốn chọn ra những doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động hiệu quả. Nhưng liệt kê những doanh nghiệp tạm thời không thuộc được phép chuyển đổi có phải giải pháp tối ưu? Có thể dẫn đến tình trạng đối xử không bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng không tốt đến tâm lý của nhà đầu tư. 1.4.2. Hình thức chuyển đổi doanh nghiệp Nghị định 38/2003/NĐ-CP và Điều 2 Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT-BKH-BTC đưa ra ba hình thức chuyển đổi áp dụng cho từng đối tượng cụ thể. Quy định này có hạt nhân hợp lý là sự rõ ràng cụ thể, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý trong quá trình chuyển đổi. Tuy nhiên, quy định trên có phần cứng nhắc, giảm sự linh hoạt trong việc lựa chọn phương thức chuyển đổi của doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không chọn được hình thức chuyển đổi phù hợp vì luật đã “chọn” sẵn. Theo quy định trên, doanh nghiệp chỉ có thể: Một là, giữ nguyên giá trị doanh nghiệp và chủ đầu tư, nếu doanh nghiệp có số lượng chủ đầu tư tối thiểu phù hợp theo quy định về công ty cổ phần (tối thiểu là 3) hoặc các chủ đầu tư không chuyển nhuyển nhượng phần vốn góp cho cổ đông mới hoặc không huy động thêm vốn điều lệ. Hai là, chuyển nhượng một phần giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông mới nếu doanh nghiệp cần bổ sung thêm cổ đông hoặc không huy động thêm vốn điều lệ. Ba là, giữ nguyên giá trị doanh nghiệp hoặc chuyển nhượng một phần vốn và phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn đầu tư nếu doanh nghiệp có nhu cầu tăng vốn điều lệ hoặc vừa có nhu cầu tăng thêm vốn vừa có nhu cầu tăng thêm cổ đông. 1.4.3. Giá trị doanh nghiệp để chuyển đổi Là toàn bộ các giá trị ghi trên sổ sách của doanh nghiệp đã được kiểm toán trong vòng 06 tháng trước thời điểm nộp hồ sơ đề nghị chuyển đổi. Đây là cơ sở quyết định giá tối thiểu bán cổ phần và phát hành cổ phiếu của công ty. Doanh nghiệp có thể thuê tổ chức tài chính, công ty tư vấn, công ty kiểm toán trong nước hoặc nước ngoài để xác định giá trị doanh nghiệp. 1.4.4. Đối tượng mua cổ phần Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân Việt Nam, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Những đối tượng này có thể mua cổ phần với số lượng không hạn chế, sau khi chuyển đổi nhà đầu tư nước ngoài có thể sở hữu 100% vốn điều lệ của công ty. Họ không bị khống chế số lượng mua tối đa như khi mua cổ phần của các DNNN CPH. Nhưng theo Quyết định 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 29/9/2005 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài trên TTCK Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia TTCK Việt Nam chỉ được nắm giữ tối đa là 49% tổng số cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch của một tổ chức niêm yết, đăng ký giao dịch trên TTGDCK. Như vậy, có sự mâu thuẫn giữa hai quy định này. Do đó, cần có những sửa đổi, bổ sung, tạo sự thống nhất trong các quy định của pháp luật. Nghị định 38/2003/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn hầu như chưa đề cập đến nghĩa vụ công bố thông tin của doanh nghiệp, nội dung các báo cáo tài chính... mà chỉ quy định đăng báo địa phương hoặc trung ương trong ba số liên tiếp công bố hoạt động của doanh nghiệp. Đây là một thiếu sót cần bổ sung nhằm tăng tính công khai, minh bạch trong hoạt động chuyển đổi doanh nghiệp và hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư khi mua cổ phiếu của chủ thể này. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan có thẩm quyền quyết định, hướng dẫn doanh nghiệp lập hồ sơ đề nghị chuyển đổi, chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các cơ quan có liên quan lựa chọn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng các điều kiện trên. Thủ tướng Chính phủ là người xem xét, quyết định. Trên thực tế quá trình chuyển đổi này diễn ra khá “trầm lắng”. Tính đến ngày 31/12/2005, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Thủ tướng Chính phủ xem xét chấp thuận chuyển đổi cho 14 doanh nghiệp, trong đó có 10 doanh nghiệp được chấp thuận. [7, tr.91-92] Kết quả này còn khiêm tốn nhưng khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong công cuộc đổi mới. Cùng với quá trình CHP DNNN thì việc “cổ phần hoá” các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã và đang có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của TTCK Việt Nam. 1.4.5. Những bảo đảm của Nhà nước đối với cổ đông và công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài Điều 6 Nghị định 38/2003/NĐ-CP và Chương II Luật đầu tư 2005 thể hiện chính sách thu hút đầu tư và bảo đảm đầu tư của Nhà nước ta. Quyền sở hữu và mọi quyền, lợi ích hợp pháp khác đối với tài sản của nhà đầu tư được Nhà nước Việt Nam bảo hộ và không bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính. Nhà đầu tư được chuyển vốn và tài sản ra nước ngoài sau khi thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam... Những quy định này tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư tại Việt Nam. Ngoài ra, Nhà nước ta còn có chính sách khuyến khích việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp thành sở hữu của công ty cổ phần như ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu đáp ứng điều kiện công ty cổ phần mới thành lập được phép tham gia niêm yết tại TTGDCK theo quy định của pháp luật. 1.5. Chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi thành công ty cổ phần Luật doanh nghiệp 1999 và Luật doanh nghiệp 2005 đều quy định công ty trách nhiệm hữu hạn có thể chuyển đổi thành công ty cổ phần. Theo Điều 154 Luật doanh nghiệp 2005 quy định thẩm quyền quyết định việc chuyển đổi công ty là Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung chủ yếu về tên, địa chỉ, trụ sở của công ty trách nhiệm hữu hạn chuyển đổi, tên, địa chỉ của công ty được chuyển đổi, thời hạn và điều kiện chuyển đổi, phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty được chuyển đổi thành tài sản, cổ phần, cổ phiếu của công ty chuyển đổi. Như vậy, khi chuyển đổi từ công ty trách nhiệm hữu hạn sang công ty cổ phần có hoạt động chào bán cổ phần riêng lẻ. Luật doanh nghiệp 2005 đã tạo cơ sở, tiền đề cho việc chuyển đổi của các công ty trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, cần bổ sung điều kiện, phương thức cũng như thủ tục chào bán để hoạt động chuyển đổi các doanh nghiệp trên diễn ra thuận lợi hơn. 2. Chào bán trái phiếu riêng lẻ 2.1. Chào bán trái phiếu riêng lẻ của doanh nghiệp Từ năm 1994, một số DNNN thuộc ngành điện, xi măng đã được Bộ Tài chính cho phép phát hành trái phiếu DNNN. Các doanh nghiệp bắt đầu làm quen với phương thức huy động vốn mới nhưng chủ yếu trong phạm vi hẹp và chưa phổ biến. Nhiều doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu vay vốn qua ngân hàng đã tìm được phương thức huy động vốn linh hoạt và chủ động hơn. Hoạt động này khi đó chịu sự điều chỉnh của Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 18/9/1994 của Chính phủ ban hành quy chế tạm thời về việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu của DNNN. Nhưng Nghị định này tồn tại nhiều bất cập, không phù hợp với thực tế. Ví dụ như quy định về phương thức phát hành trực tiếp tại doanh nghiệp, chủ thể phát hành này chỉ giới hạn cho những DNNN... Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp thực hiện phát hành trái phiếu để huy động vốn vay, nhưng kết quả đạt được chưa cao, chưa thực sự là một kênh huy động vốn tiên tiến cho doanh nghiệp. Ngày 19/5/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý chung cho các doanh nghiệp phát hành trái phiếu riêng lẻ để tăng vốn. 2.1.1. Đối tượng chào bán trái phiếu riêng lẻ Theo Điều 1 Nghị định 52/2006/NĐ- CP ngày 19/05/2006 về phát hành trái phiếu doanh nghiệp: Các công ty cổ phần, công ty nhà nước trong thời gian chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các hoạt động phát hành trái phiếu bổ sung vốn tự có của tổ chức tín dụng thuộc sở hữu nhà nước là những chủ thể được phát hành trái phiếu riêng lẻ để huy động vốn. Đối tượng phát hành trái phiếu theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP mở rộng hơn, không có sự phân biệt giữa DNNN và những doanh nghiệp khác như Nghị định 120/1994/NĐ-CP trước đây. 2.1.2. Đối tượng mua trái phiếu doanh nghiệp Các tổ chức, cá nhân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua trái phiếu doanh nghiệp với số lượng không hạn chế. Quy định này thể hiện sự thống nhất với Quyết định 238/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ là không giới hạn tỷ lệ nắm giữ đối với trái phiếu đang lưu hành của tổ chức chào bán. Trái phiếu là loại chứng khoán nợ, người sở hữu trái phiếu không được quyền tham gia bộ máy quản lý doanh nghiệp. Việc sở hữu trái phiếu không ảnh hưởng cơ cấu tổ chức, quyền quản trị doanh nghiệp. Do đó, pháp luật không hạn chế việc sở hữu trái phiếu của nhà đầu tư nước ngoài. 2.1.3. Điều kiện chào bán trái phiếu Điều kiện để doanh nghiệp chào bán trái phiếu riêng lẻ hiện nay thuận lợi so với quy định của Nghị định 120/1994/NĐ-CP và điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng theo Luật chứng khoán 2006. Có thể nói đó chỉ là những điều kiện tối thiểu: doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày doanh nghiệp chính thức đi vào hoạt động, có báo cáo tài chính của năm liền kề phải được kiểm toán, năm cuối cùng kinh doanh phải có lãi, phương án phát hành trái phiếu được tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông qua. Nghị định 52/2006/NĐ-CP không yêu cầu doanh nghiệp phải đạt một tỷ lệ vốn tối thiểu để tham gia chào bán trái phiếu riêng lẻ. Trong khi đó, khoản 2 Điều 12 Luật chứng khoán 2006 quy định doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là mười tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán được chào bán trái phiếu ra công chúng. Nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh nhận định điều kiện chào bán trái phiếu theo Nghị định 52/2006/NĐ-CP thuận lợi cho họ tận dụng giải pháp này để tăng vốn vay. Năm 2006, tổng khối lượng trái phiếu phát hành là 66.377 tỷ đồng, trong đó trái phiếu doanh nghiệp chiếm khoảng 8.060 tỷ đồng, trái phiếu Chính phủ vẫn chiếm tỷ lệ cao 55.817 tỷ đồng, còn lại là trái phiếu chính quyền địa phương.[16, tr.15] Kết quả này cho thấy trên thị trường trái phiếu Việt Nam, trái phiếu Chính phủ vẫn chiếm tỷ lệ cao. Nhưng khi Nghị định 52/2006/NĐ-CP đi vào đời sống, đây sẽ là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp. Bởi một thực tế hiện nay, nhiều chủ doanh nghiệp đặc biệt những doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa hề biết đến Nghị định mới này. Tuy nhiên, điều kiện chào bán trái phiếu của công ty cổ phần có một số điểm cần lưu ý. Khoản 2 Điều 88 Luật doanh nghiệp 2005 quy định công ty phần không được quyền phát hành trái phiếu trong hai trường hợp sau: 1. Không thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đã phát hành hoặc không thanh toán đủ các khoản nợ đến hạn trong ba năm liên tiếp; 2. Tỷ suất lợi nhuận sau thuế bình quân của ba năm liên tiếp trước đó không cao hơn mức lãi suất dự kiến trả cho trái phiếu định phát hành. Công ty cổ phần là loại hìn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (88).doc
Tài liệu liên quan