MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
1.1 Sự cần thiết phải điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài bằng pháp luật3
1.2 Khái niệm và đặc trưng cơ bản của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1.2.1 Khái niệm pháp luật đầu tư nước ngoài 5
1.2.2 Đặc trưng cơ bản của pháp luật đầu tư nước ngoài 13
1.2.3 Vai trò của pháp Luật Đầu tư nước ngoài 17
CHƯƠNG 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu về hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài 22
2.2 Sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài qua các giai đoạn lịch sử.
2.2.1 Giai đoạn thứ nhất (từ năm 1975 đến năm 1987) 28
2.2.2 Giai đoạn thứ hai (từ năm 1987 đến năm 1996) 29
2.2.3 Giai đoạn thứ ba (từ năm 1996 đến nay) 31
2.3 Sự hình thành và phát triển một số chế định pháp lý chủ yếu của pháp luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2.3.1 Chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài 33
2.3.2 Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư 35
2.3.3 Các biện pháp bảo đảm đầu tư 37
2.3.4 Các biện pháp khuyến khích đầu tư 39
2.3.5 Quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.3.6 Giải quyết tranh chấp, giải thể, thanh lý, phá sản doanh nghiệp49
2.3.7 Thủ tục đầu tư 50
2.3.8 Quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài 51
2.4 Đánh giá về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2.4.1 Ưu điểm của pháp luật đầu tư nước ngoài 51
2.4.2 Những hạn chế của pháp luật đầu tư nước ngoài 53
2.4.3 Nguyên nhân của những nhược điểm 55
CHƯƠNG 3: XU HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
3.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam58
3.2 Các nguyên tắc tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
3.3 Giải pháp hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 65
3.3.1 Giải pháp chung về sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài 65
3.3.2 Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài trong từng vấn đề cụ thể
KẾT LUẬN 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2731 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ía Bên Việt Nam cũng xảy ra những trường hợp tương tự. Vì vậy, việc mở ra hình thức liên doanh có nhiều Bên nước ngoài và nhiều Bên Việt Nam tham gia là cần thiết, tạo cơ hội cho các nhà đầu tư nước ngoài được đứng riêng, độc lập với nhau để hợp tác với các đối tác Việt Nam thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Trên tinh thần đó, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã quy định tại khoản 4 Điều 2 về vấn đề này như sau: "Nhiều bên là Bên Việt Nam và các Bên nước ngoài, hoặc là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hoặc là các Bên Việt Nam và các Bên nước ngoài". Từ việc quy định "Hai bên", đã bổ sung thêm thuật ngữ "Nhiều bên" ngay sau thuật ngữ "Hai bên" tại các khái niệm "Hợp đồng hợp tác kinh doanh" (khoản 5 Điều 2), "Hợp đồng liên doanh" (khoản 6 Điều 2), "Xí nghiệp liên doanh" (khoản 10 Điều 2).
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 cho phép các tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân được hợp tác kinh doanh với nước ngoài như những bên độc lập. Tổ chức kinh tế tư nhân có tư cách pháp nhân là công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần (Điều 18 Luật Công ty), còn doanh nghiệp tư nhân theo Luật Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân chưa được hợp tác kinh doanh với nước ngoài.
Trong khi đó, tư nhân ở nước ta có nguồn vốn không nhỏ, nhưng đầu tư vào mục tiêu phát triển sản xuất còn quá ít; những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cũng như một số đối tác khác muốn đầu tư vào Việt Nam với quy mô vừa phải, phù hợp với khả năng thực tế của mình.
Để pháp luật đầu tư nước ngoài phù hợp hơn với chính sách kinh tế nhiều thành phần đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 và huy động khả năng hợp tác đầu tư của tư nhân Việt Nam và một số đối tác bên ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã sửa đổi điểm 2 Điều 2 như sau: "Bên Việt Nam là một bên gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế".
Từ sự phân tích ở trên cho thấy, với mỗi lần sửa đổi, bổ sung pháp luật đầu tư nước ngoài, chế định chủ thể tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển theo hướng thông thoáng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế tham gia hợp tác đầu tư nước ngoài.
2.3.2. Hình thức đầu tư và phương thức đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã có những sửa đổi, bổ sung về ba hình thức đầu tư đã được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 theo hướng cụ thể, thực tiễn hơn.
Trên cơ sở hình thức hợp tác sản xuất chia sản phẩm được quy định trong Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã hoàn thiện thành hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và quy định rất rõ đặc trưng cơ bản của nó là các bên cùng góp vốn kinh doanh, sau đó phân chia kết quả kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới như hình thức liên doanh. Mỗi bên hợp doanh vẫn giữ tư cách pháp nhân của mình, tự quản lý, thực hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật của nước mình: Bên hợp doanh Việt Nam thực hiện các nghĩa vụ tài chính theo pháp luật Việt Nam, Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ tài chính theo pháp luật nước ngoài. Có thể nói, đây là hình thức đầu tư được nhiều nhà đầu tư nước ngoài hoan nghênh vì nó rất đa dạng, linh hoạt.
Về hình thức xí nghiệp liên doanh, Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đưa ra khái niệm doanh nghiệp liên doanh như sau: "Xí nghiệp liên doanh là xí nghiệp do Bên nước ngoài và Bên Việt Nam hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh hoặc Hiệp định ký giữa Chính phủ Cộng hòa XHCN Việt Nam và Chính phủ nước ngoài".
Từ quy định trên cho thấy, Nhà nước ta cho phép xí nghiệp liên doanh chỉ có hai bên là Bên nước ngoài và Bên Việt Nam; trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân muốn hợp tác đầu tư dưới hình thức này, thì phải thỏa thuận lại thành một bên nước ngoài và một bên Việt Nam để liên doanh với nhau.
Hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài đã được quy định trong Điều lệ đầu tư nước ngoài năm 1977 với điều kiện chặt chẽ, bắt buộc phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra. Lúc đó, hình thức này được gọi là: "Xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng xuất khẩu".
Để có sức hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã đổi tên lại thành hình thức Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và quy định tại Điều 14 như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được thành lập tại Việt Nam Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, tự mình quản lý xí nghiệp, chịu sự kiểm soát của cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài, được hưởng quyền lợi và phải thực hiện các nghĩa vụ ghi trong Giấy phép đầu tư. Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam". Theo quy định này, Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài không bắt buộc phải xuất khẩu 100% sản phẩm làm ra.
Thực tiễn của nhiều nước đã cho thấy, thành lập Khu chế xuất là một hình thức đầu tư có sức hấp dẫn, thu hút được nhiều vốn đầu tư, tạo được nhiều việc làm, tăng nhanh khả năng xuất khẩu và tác động tích cực tới kinh tế nội địa. Khu chế xuất có một số đặc thù về cơ chế quản lý, nhưng vẫn nằm trong tổng thể của chính sách đầu tư nước ngoài, chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn Nhà nước ta quy định về Khu chế xuất trong Luật Đầu tư nước ngoài để họ yên tâm đầu tư vào đó.
Do vậy, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1992 đã bổ sung Điều 19a như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào các Khu chế xuất tại Việt Nam dưới các hình thức quy định tại Điều 4 Luật này... Quan hệ trao đổi hàng hóa giữa các doanh nghiệp trong thị trường Việt Nam với các xí nghiệp chế xuất được coi là quan hệ xuất nhập khẩu và theo các quy định của pháp luật xuất nhập khẩu".
Bên cạnh đó, việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, như: cầu cống, đường sá, bến cảng, nhà máy cung cấp nước… là ưu tiên hàng đầu của Nhà nước ta. Việc xây dựng kết cấu hạ tầng đòi hỏi số vốn đầu tư lớn, nhưng việc thu hồi vốn lại gặp nhiều khó khăn. Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1992 đã bổ sung Điều 19b như sau: "Các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam xây dựng công trình hạ tầng có thể ký hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao với cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam. Các tổ chức, cá nhân nước ngoài được hưởng các quyền lợi và thực hiện các nghĩa vụ quy định trong hợp đồng".
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã bổ sung một số quy định nhằm hoàn thiện hình thức đầu tư, phương thức đầu tư như quy định đa dạng hóa các phương thức đầu tư theo phương thức BOT, BTO, BT; cho phép bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu hợp tác đầu tư với nước ngoài; luật hóa khu công nghiệp, cho phép doanh nghiệp liên doanh được hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam để thành lập liên doanh mới.
2.3.3. Các biện pháp bảo đảm đầu tư
2.3.3.1. Không quốc hữu hóa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định những nguyên tắc và biện pháp bảo đảm đầu tư nhằm làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào nước ta: "Nhà nước Việt Nam bảo đảm quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài, tạo những điều kiện thuận lợi và định các thủ tục dễ dàng cho các tổ chức, cá nhân đó đầu tư vào Việt Nam". Đồng thời, Điều 21 cũng khẳng định: "Trong quá trình đầu tư vào Việt Nam, vốn và tài sản của các tổ chức, cá nhân nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hóa".
Ngoài ra, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 còn cho phép nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước vốn, lợi nhuận và mọi khoản tiền khác thuộc quyền sở hữu hợp pháp của họ (Điều 22); cho phép nhân viên nước ngoài làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được chuyển về nước thu nhập hợp pháp của mình, sau khi đã nộp đủ thuế thu nhập (Điều 23).
2.3.3.2. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi có sự thay đổi về chính sách, pháp luật
Đối với các nhà kinh doanh, yêu cầu hàng đầu là pháp luật cũng như chính sách của Nhà nước phải ổn định, để không làm đảo lộn các tính toán kinh doanh của họ. Nhưng dưới góc độ quản lý vĩ mô của Nhà nước, khi tình hình thay đổi, thì chính sách, pháp luật cũng phải được thay đổi cho phù hợp. Để giải quyết mâu thuẫn nói trên, cần có giải pháp thích hợp về mặt pháp luật.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã thay khoản 3 Điều 21 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 bằng Điều 21a trên cơ sở luật hóa Điều 101 Nghị định 12, nhằm quy định cụ thể các biện pháp đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư trong trường hợp do có những thay đổi trong quy định của pháp luật Việt Nam mà làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư, theo hướng:
- Cho phép nhà đầu tư tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong Giấy phép đầu tư và Luật Đầu tư nước ngoài; hoặc
- Áp dụng các biện pháp như: cho phép thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án; miễn, giảm thuế theo quy định của pháp luật; thiệt hại của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp; được xem xét bồi thường thỏa đáng trong một số trường hợp cần thiết.
Việc sửa đổi cũng nêu rõ những quy định mới ưu đãi hơn ban hành sau khi cấp Giấy phép đầu tư, sẽ được áp dụng cho Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các Bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh.
2.3.3.3. Bảo đảm, bảo lãnh của Chính phủ
Đối với các dự án BOT và các dự án cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng, nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được Chính phủ bảo lãnh các nghĩa vụ về tài chính và chia sẻ rủi ro với nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí là những cam kết bảo lãnh mà pháp luật chưa quy định.
Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung cơ chế pháp lý về bảo lãnh đối với một số dự án đặc biệt quan trọng là: căn cứ vào nguyên tắc quy định của Luật Đầu tư nước ngoài Việt Nam, Chính phủ có thể ký kết các thỏa thuận với nhà đầu tư nước ngoài hoặc đưa ra những biện pháp bảo đảm, bảo lãnh về đầu tư.
2.3.3.4. Áp dụng pháp luật nước ngoài
Để đảm bảo tính rõ ràng, ổn định của hệ thống pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký; đồng thời làm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư tại Việt Nam, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã bổ sung Điều 66 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 như sau: "Trong trường hợp pháp luật Việt Nam chưa có quy định, các bên có thể thỏa thuận trong hợp đồng việc áp dụng pháp luật nước ngoài nếu việc áp dụng pháp luật nước ngoài không trái với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam".
2.3.4. Các biện pháp khuyến khích đầu tư
2.3.4.1. Quy định lĩnh vực khuyến khích đầu tư
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã cho phép các tổ chức, cá nhân nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, đoạn 2 Điều 3 còn quy định cụ thể những lĩnh vực được khuyến khích đầu tư như:
- Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu;
- Sử dụng kỹ thuật cao, công nhân lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác, tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có;
- Sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam;
- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng;
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 đã có một bước tiến so với Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ở chỗ đã quy định cụ thể những lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư nước ngoài, các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, những lĩnh vực và địa bàn không cấp phép đầu tư nước ngoài và giao cho Chính phủ quy định các địa bàn khuyến khích đầu tư; ban hành danh mục các dự án khuyến khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư, danh mục các lĩnh vực đầu tư có điều kiện, danh mục các lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, chúng ta vẫn chưa quy định được danh mục các ngành nghề cụ thể cấm đầu tư hoặc đầu tư có điều kiện. Cho đến khi Nghị định 24 được ban hành, Chính phủ mới công bố chính thức Danh mục lĩnh vực khuyến khích đầu tư, Danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, Danh mục địa bàn khuyến khích đầu tư, Danh mục lĩnh vực đầu tư có điều kiện, Danh mục lĩnh vực không cấp Giấy phép đầu tư.
2.3.4.2. Quy định về thuế
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định về các loại thuế một cách hợp lý, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước Việt Nam, vừa đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, đồng thời có tính hấp dẫn hơn so với các loại thuế tương ứng được ban hành ở các nước Đông Nam Á và Trung Quốc.
Về thuế lợi tức
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định thuế lợi tức đối với xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài và bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng từ 10% đến 25% lợi nhuận thu được. Trên cơ sở quy định này, Nghị định số 139, đã quy định ba loại: trường hợp đặc biệt cần khuyến khích đầu tư áp dụng 10% đến 14% lợi nhuận thu được, trường hợp ưu tiên áp dụng từ 15% đến 20% lợi nhuận thu được, trường hợp phổ thông áp dụng từ 21% đến 25% lợi nhuận thu được.
Đối với trường hợp tái đầu tư, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định cơ quan thuế phải hoàn lại số tiền thuế lợi tức đã nộp liên quan đến phần lợi nhuận tái đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có thể được miễn thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm kể từ khi bắt đầu kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo.
Nếu so sánh với các nước trên thế giới, với mức thuế suất thuế lợi tức phổ thông áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta là 25%, thì thuế suất của Việt Nam vào loại thấp nhất, vì mức thuế suất thu nhập công ty của các nước thường ở khoảng 30% đến 60%. Mức thuế suất phổ thông của Việt Nam, cũng như trong các trường hợp miễn, giảm được coi là hấp dẫn so với các nước trong khu vực: Brunei: 30%, Lào: 20%, Malaysia: 28%, Myanmar: 30%, Philippines: thuế thu nhập công ty giảm dần từ mức 34% năm 1998, 33% năm 1999 và 32% từ năm 2000; Singapore: 26%, Thái Lan: 30%, Trung Quốc: 30% ngoài ra còn phải trả thuế thu nhập địa phương là 3%, Ấn Độ: 35%.
Tuy nhiên theo tinh thần Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới thì kể từ ngày 1/1/2004 mức thuế thu nhập sẽ áp dụng chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài với các mức 10%; 15%; 20% và 28%.
Về thuế xuất nhập khẩu
Việc miễn thuế nhập khẩu được áp dụng cho thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ để tạo tài sản cố định hoặc mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng để đưa đón công nhân. Chính phủ quy định việc miễn giảm thuế suất, nhập khẩu đối với các hàng hóa đặc biệt cần khuyến khích đầu tư khác. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư và xe ô tô con.
Nghị định 12 quy định cụ thể việc miễn thuế nhập khẩu đối với trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ; miễn thuế nhập khẩu đối với các giống cây trồng, giống vật nuôi, nông dược đặc chủng được phép nhập khẩu để thực hiện dự án nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa, vật tư khác dùng cho các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
Nhằm khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài và tháo gỡ khó khăn đối với các dự án đang hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục ban hành nhiều chính sách ưu đãi liên quan đến miễn thuế nhập khẩu đối với các dự án đầu tư nước ngoài (như Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ; Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ...). Để nâng cao hiệu lực pháp lý của các biện pháp quan trọng này, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã luật hóa các quy định trên và sửa đổi, bổ sung một số quy định về miễn thuế nhập khẩu và Nghị định 24 đã quy định như sau:
"Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng nhập khẩu để tạo tài sản cố định...
Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu quy định tại khoản này được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế, đổi mới công nghệ.
Nguyên liệu, vật tư, linh kiện nhập khẩu để sản xuất của các dự án thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất".
Về thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định cụ thể về mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là từ 5% đến 10% số tiền chuyển ra nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định cụ thể hơn: ngoài việc phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài khi chuyển lợi nhuận ra nước ngoài vẫn phải nộp một khoản thuế là 5%, 7%, 10% số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài, tùy thuộc vào quy mô góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài vào vốn pháp định của doanh nghiệp.
Để cải thiện môi trường đầu tư, Luật sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư nước ngoài năm 2000 đã sửa đổi Điều 43 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 theo hướng giảm mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài xuống các mức tương ứng là 3%, 5% và 7%.
Tuy nhiên theo tinh thần Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp mới thì kể từ ngày 1/1/2004 sẽ xoá bỏ hoàn toàn thuế chuyển lợi nhuận. Đây là điểm rất quan trọng nhằm tạo điều kiện thuân lợi cho các nhà đầu, đồng thời hướng tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và nước ngoài.
Về thuế giá trị gia tăng
Đây là loại thuế mới chưa được quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996. Khi Luật Thuế giá trị gia tăng được ban hành, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nộp thuế giá trị gia tăng đối với các loại máy móc, thiết bị, vật tư nhập khẩu đồng bộ để tạo tài sản cố định (chỉ được miễn đối với các loại thiết bị, máy móc, phương tiện chuyên dùng trong nước chưa sản xuất được). Quy định này thực chất là đánh thuế vào vốn đầu tư của doanh nghiệp, làm tăng chi phí của doanh nghiệp, trong khi sức hấp dẫn, tính cạnh tranh của môi trường đầu tư ở Việt Nam đang giảm dần.
Để tháo gỡ những vướng mắc về thuế giá trị gia tăng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi theo hướng: cho phép thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải nhập khẩu đồng bộ (không phụ thuộc vào việc trong nước sản xuất được hay chưa) và vật tư trong nước chưa sản xuất được đều là đối tượng không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng.
2.3.4.3. Chuyển lỗ của doanh nghiệp
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996 quy định cho phép doanh nghiệp liên doanh được chuyển lỗ của bất kỳ năm thuế nào sang năm tiếp theo và được bù lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo nhưng không quá 5 năm. Quy định đó chưa thật công bằng đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh. Vì vậy, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 2000 đã sửa đổi theo hướng cho phép doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng được hưởng ưu tiên như doanh nghiệp liên doanh là được chuyển lỗ sang năm tiếp theo và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của những năm tiếp theo, nhưng không quá 5 năm.
2.3.4.4. Quy định về hàng thay thế hàng nhập khẩu và trả lương bằng tiền nước ngoài
Một trong các lĩnh vực được Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 khuyến khích đầu tư là sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu (khoản 1 Điều 3). Tuy nhiên, một số quy định trong luật này lại không khuyến khích việc tiêu thụ sản phẩm của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều 16 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 quy định: "Lương và các khoản phụ cấp khác thu được của người lao động Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam có gốc tiền nước ngoài". Quy định này trên thực tế đã ngăn cấm cả việc Xí nghiệp dùng những khoản tiền Việt Nam mà Xí nghiệp thu được bằng cách tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam để trả lương cho người lao động Việt Nam. Điều 27 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 về điều kiện để được miễn, giảm thuế lợi tức quy định: "Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, quy mô đầu tư, khối lượng hàng xuất khẩu, tính chất và thời gian hoạt động, cơ quan nhà nước quản lý đầu tư nước ngoài có thể miễn thuế lợi tức cho xí nghiệp liên doanh trong thời gian tối đa là hai năm, kể từ năm bắt đầu kinh doanh có lãi và giảm thuế lợi tức trong một thời gian tối đa là 2 năm tiếp theo"; rõ ràng quy định này cũng không đề cập đến vấn đề sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu.
Để giải quyết những vướng mắc nêu trên, Luật Đầu tư nước ngoài (sửa đổi) năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung Điều 16 và Điều 27 của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 như sau:
- Đoạn cuối của Điều 16 được sửa lại là: "Lương và các khoản phụ cấp của người lao động Việt Nam được trả bằng tiền Việt Nam hoặc tiền nước ngoài trích từ tài khoản của xí nghiệp mở tại Ngân hàng".
- Bổ sung vào Điều 27 một đoạn như sau: "Tùy thuộc vào lĩnh vực đầu tư, quy mô vốn đầu tư khối lượng hàng xuất khẩu, khối lượng hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu mà trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất chưa đủ, tính chất và thời gian hoạt động...".
2.3.4.5. Miễn, giảm tiền thuê đất
Việc miễn giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển được áp dụng cho các dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao, xây dựng - chuyển giao - kinh doanh, xây dựng - chuyển giao; dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ.
2.3.4.6. Cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh
Trong luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 có sự phân biệt chế độ ưu đãi giữa xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, trong đó xí nghiệp liên doanh được hưởng ba điều ưu đãi mà xí nghiệp 100% không được hưởng, đó là: được miễn, giảm thuế trong vài năm đầu (Điều 27, 28); trong trường hợp đặc biệt được hưởng khung thuế lợi tức thấp nhất từ 10% đến 15% (Điều 27, 28); được chuyển lỗ của năm trước sang các năm sau (Điều 27).
Có thể thấy mục đích chính của Việt nam khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 là khuyến khích việc thành lập hình thức xí nghiệp liên doanh, vì trong đó có phần góp vốn của Bên Việt Nam và thông qua hình thức xí nghiệp liên doanh để học hỏi kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để giám sát, kiểm tra hoạt động của xí nghiệp. Đến nay chủ trương này vẫn đúng. Nhưng thực tiễn thi hành Luật đầu tư còn cho thấy, trong thời gian đầu, nhiều nhà đầu tư nước ngoài muốn thành lập xí nghiệp liên doanh, vì họ chưa quen thị trường Việt Nam, nên muốn thông qua Bên Việt Nam trong liên doanh để cùng chia sẻ rủi ro và lo các thủ tục hành chính cần thiết. Đến nay, nhiều nhà đầu tư nước ngoài, nhất là những người đã quen thị trường Việt Nam và có ý đồ làm ăn lớn, có xu hướng muốn thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài hơn là xí nghiệp liên doanh vì họ muốn tự do trong kinh doanh hơn. Nếu nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, thì lại không được hưởng những khuyến khích về tài chính như xí nghiệp liên doanh. Họ bị đặt trước tình huống phải cân nhắc, nhiều khi ngần ngại kéo dài và dễ đi đến "bỏ cuộc". Vì vậy, việc xóa bỏ sự phân biệt về ưu đãi tài chính giữa xí nghiệp liên doanh và xí nghiệp 100% vốn nước ngoài là yêu cầu bức xúc đặt ra.
2.3.5. Quản lý tài chính và hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
2.3.5.1. Quy định về vốn pháp định
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 lần đầu tiên đưa ra khái niệm vốn pháp định: "Vốn pháp định là vốn ban đầu của xí nghiệp liên doanh được ghi trong điều lệ xí nghiệp" (khoản 2 Điều 9). Đây là bước tiến về kỹ thuật lập pháp về đầu tư nước ngoài.
Nhằm hạn chế việc thu hẹp đầu tư, Điều 31 Nghị định số 139 quy định là xí nghiệp liên doanh không được giảm vốn pháp định. Quy định này không cho phép nhà đầu tư nước ngoài sau khi đã góp vốn pháp định, tùy tiện rút vốn ra để tránh ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế, nếu các nhà đầu tư nước ngoài đồng loạt rút vốn về nước. Ngược lại, trong trường hợp nhà đầu tư muốn tăng vốn, thì phải được sự chuẩn y của cơ quản lý cấp phép đầu tư, nhằm khuyến khích đầu tư vào những lĩnh vực mà ta đang cần đầu tư.
Tuy nhiên, thực tiễn đầu tư nước ngoài đã cho thấy, trong một số trường hợp bất khả kháng về khả năng tài chính của công ty mẹ, hoặc nhu cầu của thị trường tiêu thụ bị thu hẹp... doanh nghiệp đầu tư nước ngoài buộc phải cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định. Để giải quyết vướng mắc này, Nghị định 24 đã quy định cho phép doanh nghiệp cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định trong trường hợp thay đổi mục tiêu, quy mô dự án, đối tác, phương thức góp vốn và các trường hợp khác được cơ quan cấp Giấy phép đầu tư chấp nhận (Điều 34). Tuy nhiên, việc cơ cấu lại vốn đầu tư, vốn pháp định không được làm giảm tỷ lệ vốn pháp định xuống dưới mức 30% so với tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
2.3.5.2. Về chế độ kế toán, thống kê, bảo hiểm
Điều lệ Đầu tư nước ngoài năm 1977 (khoản 2 Điều 14) và Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 (Điều 18) đều quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được áp dụng chế độ kế toán Việt nam hoặc theo những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế phổ biến mà được Bộ Tài chính chấp thuận. Nhưng nay, do chế độ kế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phương hướng hoàn thiện pháp luật đầu tư nước ngoài tiến tới mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.doc