MỤC LỤC:
A-ĐẶT VẤN ĐỀ:
I.QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ CỤ THỂ:
1.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật.
2.Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
3.Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể.
II.Vì sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
1.Thực trạng nền kinh tế đất nước ta trước khi thực hiện chính sách đổi mới.
2.Tình hình thế giới và khu vực tác động đến nền kinh tế của nước ta.
3. Đổi mới việc quản lý điều hành nền kinh tế theo định hướng xây dựng và phát triển nền KTTT là một yêu cầu tất yếu.
B-Giải quyết vấn đề:
I.Vì sao lại xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN:
Bản chất của nền KTTT XHCN có gì khác so với nền KTTT TBCN:
1.Về mục đích.
2.Về chế độ sở hữu.
3.Các thàsnh phần kinh tế.
4.Về chế độ quản lý.
5.Về chế độ phân phối.
6.Chính sách xã hội.
II.Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
III.Quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể:
1.Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế:
1.1.Những điều kiện cụ thể.
1.2.Những điều kiện thế giới và khu vực.
2.Quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT.
IV.Những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1682 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vững chắc
4.Về chế độ quản lý:
Trong thời đại ngày nay,KTTT TBCN và KTTT định hướng CNXH đều cần có sự quản lý của Nhà nước,không muốn để cho bàn tay vô hình là thị trường chi phối.Tư bản cũng phải làm thế,thậm chí họ còn can thiệp khá mạnh.Điều khác nhau ở đây là ở bản chất hai nhà nước.Nhà nước của họ là Nhà nước tư sản,dân chủ tư sản,bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, những người có của .Còn của chúng ta là Nhà nước XHCN thật sự của dân ,do dân,vì dân và do Đảng cộng sản lãnh đạo ,bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao động.Về quản lý thì xu thế của KTTT TBCN chủ yếu vẫn là tự do cạnh tranh,vẫn là”cá lớn nuốt cá bé” hình thành các công ty siêu quốc gia ,xuyên quốc gia, các tập đoàn lớn cạnh tranh nhau quyết liệt. Còn của ta có sự quản lý của nhà nước để kết hợp tính định hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động và nhạy cảm của thị trường. Trong các nghị quyết của đại hội VII, VIII, đều nói thị trường vừa là đối tượng vừa là căn cứ để chúng ta kế hoạch hóa. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường không phải để đoạn tuyệt với kế hoạch mà để thực hiện kế hoạch một cách tổng thể hơn, tốt hơn. Sự quản lý của nhà nước là để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.Đối với chúng ta cơ chế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng,không phải là mục đích,mà chỉ là phương tiện.Mục đích của ta không phải là chạy theo lợi nhuận tối đa cho một thiểu số người, mà chính là để xây dựng CNXH.
5. Về chế độ phân phối:
Cả hai nền KTTT TBCN và KTTT định hướng XHCN cũng có nhiều hình thức phân phối.Khác nhau ở chỗ KTTT TBCN phân phối chủ yếu theo tư bản, phục vụ lợi ích tối đa của các nhà tư bản. Chúng ta cũng có nhiều hình thức phân phối, nhưng phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa, vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản.
6. Về chính sách xã hội:
KTTT TBCN thời kỳ hoang sơ ra đời bằng tước đoạt, bằng cướp bóc, tích tụ ruộng đất, dồn dân. Mác nói CNTB ra đời bằng tích lũy nguyên thủy thấm đầy máu và nước mắt đến tận lỗ chân lông của nó. Ngày nay, CNTB có sự điều chỉnh nhất định, văn minh hơn, hiện đại hơn và cũng chú ý một số chính sách xã hội. Nhưng xét về bản chất thì sự điều chỉnh đó không giải quyết được mâu thuẫn cơ bản, từ nguồn gốc chế độ sở hữu của CNTB, đây chỉ là điều chỉnh buộc các nhà tư bản phải làm để bảo vệ, duy trì, kéo dài sự tồn tại của CNTB, đại đa số nhân dân lao động vẫn sống khổ sở.Ta vẫn thường nghe nói thế giới ngày nay 20% người giàu nhất chiếm 80% của cải ,80% số người còn lại chỉ có 20% của cải…Chúng ta chủ trương làm giàu nhưng đó là làm giàu hợp pháp, cùng với làm giàu phải xóa đói giảm nghèo, hạn chế sự phân cực quá đáng giàu nghèo. Trong nền KTTT sự phân hóa giàu nghèo là khó tránh khỏi, phải chấp nhận nhưng phải hạn chế nó. Phải chăm lo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong quá trình phát triển kinh tế chứ không phải đến khi kinh tế phát triển mới lo chính sách xã hội. Nhiều nước trên thế giới đang đòi 20% ngân sách cho chính sách xã hội, thì ở ta tỷ lệ đó đã là 28%; Chính sách xóa đói giảm nghèo của ta được thế giới rất hoan nghênh. Chúng ta phải giữ gìn đạo đức và bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng quan hệ giữa con người với con người có tình thương yêu lẫn nhau. Không vì cơ chế thị trường rồi tất cả chỉ vì tiền.
II. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng nền kttt định hướng xhcn ở việt nam:
Trước tiên cần phải khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất,nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân lọai của triết học Mác-Lênin,mà cụ thể là trong những điều kiện không gian và thời gian theo quan điểm lịch sử cụ thể.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước,nâng cao đời sống nhân dân.Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta,bởi nền kinh tgế nước ta vẫn còn chậm phát triển.Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp,từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất,hệ thống quản lý kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT năng động,do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm.Thêm nữa,thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới,chuyển sang nền KTTT quá muộn so với các nước trên thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mĩ ,Nhật Tây Âu…đã tiến hành cơ chế thị trường và phát triển vượt xa ta mấy trăm năm.Nhờ sử dụng triệt để KTTT,CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế- xã hội,phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động,quản lý xã hội đã đạt được những thành tựu về văn minh hành chính,văn minh công cộng,con người nhạy cảm tinh tế với khả năng sáng tạo…và có cả những tiêu cực, sự gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé” sự phân cách giàu nghèo ngày càng lớn,ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt, tệ nạn xã hội…Là nước đi sau và theo CNXH,chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân lọai trước hết là sử dụng văn minh của KTTT,lọai bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả.
Chính vì lẽ đó ,chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
III. quá trình xây dựng nền kttt định hướng XHCN dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể:
1. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN:
1.1.Những điều kiện trong nước:
Đầu tiên chúng ta tìm hiểu xuất phát điểm về kinh tế của nước ta khi bắt đầu đổi mới.Bức tranh chung của kinh tế Việt Nam trước đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7%/năm,làm không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ bên ngòai ngày càng lớn.Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng.Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngòai chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng,nợ nước ngòai lên tới8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD.Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hỏang nghiêm trọng siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang và vô phương kiểm sóat.
Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để lại hậu quả nặng nề:cơ sở vật chất thấp kém với nền KH-CH,kỹ thuật lạc hậu,hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp , chất lượng kém.Hệ thống giao thông vận tải vốn không được tốt lại thêm bom đạn của chiến tranh nên ngày càng xuống cấp.Công nghiệp,dịch vụ hầu như không phát triển,chiếm tỷ trọng chưa đến 50% GDP còn chủ yếu là nông nghiệp.Bên cạnh đó còn có một hậu quả nặng nề khác là với cơ chế bao cấp phân phối bình quân,lợi ích của mọi người đều như nhau dẫn đến việc không phát huy hết năng lực sáng tạo của con người,lực lượng nhân tài ngày càng giảm sút,trình độ dân trí thấp và đặc biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại, thiếu năng động quyết đóan ăn sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế.
Thứ hai:Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế .Về địa hình nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến,bề ngang hẹp,địa hình phức tạp .Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và chiến lược phát triển các vùng.Ta cũng có thuận lợi là nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam A,khu vực phát triển cao,ổn định nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế.Việt Nam có nhiều khả năng để phát triển nhiều lọai hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển,dịch vụ viễn thông du lịch.Tài nguyên khóang sản phân bố không đều trên các vùng,ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố trí kinh tế của các vùng.Về dân số,nước ta có dân số đông,nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố cũng không đồng đều.Đặc điểm ở cấp vĩ mô,do đất nước bị chia cắt lâu dài,giữa hai miền Nam-Bắc còn có sự khác biệt không nhỏ hoặc khác biệt giữa các vùng,các khu vực xa xôi hẻo lánh với những vùng có đô thị tập trung.
Thứ ba:Về chế độ chính trị,quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam.Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin thì kinh tế quyết định chính trị-chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế,chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế.trong tác phẩm LuTuch Phviobac và trong triết học cổ điển Đức F.Enghon đã chỉ rõ:”để thỏa mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần”.Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế.Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường chính trị thống nhất biện chứng với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế.Sau khimiền Bắc giải phóng và từ sau 1975 thống nhất đất nước, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường XHCN-đây là lựa chọn tất yếu và đúng đắn.Vì không qua giai đọan TBCN,chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh.Thêm vào đó,khi ta đang trong tình trạng đầu của công cụoc đổi mới,một giai đọan quan trọng mà chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ hàng lọat đã gây nhiều hoang mang cho Đảng ta.Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có rất nhiều thế lực phản động không ngừng tìm cách phá họai,lật đổ chế độ CNXH ở nước ta.
Thứ tư: Về văn hóa xã hội.Nói đến văn hóa xã hội của một dân tộc là nói đến bản sắc cốt cách riêng thể hiện trong những yếu tố cấu thành văn hóa của dân tộc đó.Theo định nghĩa được thừa nhận khá rộng rãi của UNESCO thì văn hóa là tổng thể sống động các họat động sâng tạo của con người diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại.Qua hàng thế kỉ,các họat động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống giá trị,truyền thống,thị hiếu,thẩm mĩ là lối sống mà dựa tren đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình,với chiều dài mấy ngàn năm lịch sử, nước ta có một nền văn hóa lâu dài với các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp.Các giá trị đạo đức truyền thống vừa là kết quả vừa là cơ sở,động lực của quá trình đấu tranh dựng nước,giữ nước và giao lưu văn hóa lâu dài của dân tộc góp phần tạo dựng bản lĩnh dân tộc và nhân cách con gnười Việt Nam:chủ nghĩa yêu nước,lòng thương người,tinh thần đòan kết cộng đồng,đức tình cần kiệm,khiêm tốn giản dị,thủy chung…Trong đó chủ nghĩa yêu nước là cốt lõi của bản sắc văn hóa dân tộc,là giá trị cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc,là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân ta.Với bề dày văn hóa cùng với chế độ chính trị đúng đắn là CNXH,chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền KTTT định hướng XHCN tiên tiến.Bên cạnh đó nền KTTT năng động và khắc nghiệt rất cần những nhà quản lý kinh tế tài giỏi sáng dạ,năng động thì chúng ta lại chưa có được.Nhân dân ta yêu nước,sẵn sàng xả thân hy sinh vì Tổ quốc nhưng trong họat động kinh tế thì nhân dân ta vẫn còn thiếu tính năng động,thiếu tính quyết đóan,thiếu những phẩm chất rất quan trọng của một nhà quản lý kinh tế.
1.2.Những điều kiện thế giới và khu vực:
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hòa bình và hợp tác là xu thế chủ đạo,là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia.Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong những lĩnh vực tin học,viễn thông,sinh học,vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hóa cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động ngày càng sâu sắc,như vậy có nghĩa là ngày nay,không một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế.Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên thế tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ,phát triển hay không phát triển.Trong lịch sử phát triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rất đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN(Hiệp hội các nước Đông Nam A) WTO(Tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU…
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam A, châu A Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây.Hầu hết các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, đều đã tiến hành nền KTTT được mấy thập kỉ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa ta về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế, vì thế đã đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN.
2.Quá trình xây dựng và phát triển nền kttt định hướng xhcn: Từ đại hội VI ( 1986) Đảng ta đã đề ra chủ trương cho phép sử dụng nhiều hình thức kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giả pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần giải phóng mọi khả năng để phát triển lục lượng sản xuất.
Hội nghị Trung ương sáu khóa VI(3-1989)phát triển thêm một bước đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế họach gồm nhiều thành phần đi lên CNXH ,coi”chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH”.
Đại hội VII(1991) Đảng gta tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên CNXH của nước ta.Cương lĩnh của Đảng khẳng định “phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN,vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.Nhưng lúc đó cũng mới nói là kinh tế hàng hóa cơ chế thị trường ,chưa chính thức dùng khái niệm “kinh tế thị trường”.Đến đại hội IX(2001)Đảng đưa ra khái niệm”KTTT định hướng XHCN”.Nội hàm của khái niệm này thực chất vẫn là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN ,nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ .Đây là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy của Đảng ta.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH ,Đảng ta đã xác định “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
-Do nhân dân lao động làm chủ.
-Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
-Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
-Con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột.bất công,làm theo năng lực,hưởng theo lao động,có cuộc sống ấm no,tự do hạnh phúc,có điều kiện phát triển tòan diện cá nhân.
-Các dân tộc trong nước bình đẳng,đòan kết và giúp nhau cùng tiến bộ.
-Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Cương lĩnh cũng xác định rõ mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kì quá độ là”xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của CNXH,với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng,văn hóa phù hợp,làm cho nước ta trở thành một nước XHCN phồn vinh”.Với những định hướng xây dựng CNXH ở nước ta nêu trên, thì mục tiêu hàng đầu phát triển KTTT ở nươc ta được xác định là giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất,phát triển nền kinh tế,động viên mọi nguồn lực trong nước và ngòai nước để xây dựng cơ sở vật chất-kĩ thuật của CNXH tạo ra sự phát triển năng động,hiệu quả cao của nền kinh tế, trên cơ sở đó cải thiện từng bước đời sống của nhân dân,từng bước thực hiện sự công bằng bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội.Từ đó sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của nền kinh tế,thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển,mở rộng nghành nghề,tạo việc làm cho người lao động.Ap dụng khoa học công nghệ ,kĩ thuật mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội,tăng số lượng,chủng lọai và chất lượng hàng hóa,dịch vụ.Thúc đẩy tích tụ ,tập trung sản xuất,mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương,các vùng lãnh thổ,với các nước trên thế giới.Động viên mọi nguồn lực trong nướcvà tranh trủ các nguồn lực bên ngòai.Phát huy tinh thần năng động,sáng tạo của mỗi người lao động,mỗi dơn vị kinh tế,tạo ra sự phát triển năng động.hiệu quả cao của nền kinh tế,tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.Đưa nước ta thóat khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển, thực hiện được mục tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng văn minh.Vì vậy có thể nói,phát triển KTTT ở nước ta là “đòn xeo”để phát triển kinh tế nhanh và bền vững,là phương tiện để thực hiện xã hội hóa XHCN nền sản xuất,tiến hành công nghiệp hóa,hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân,xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH.Sự thfnh công của nền KTTT định hướng XHCN là ở chỗ đem thành quả của tăng trưởng kinh tế cao đến với mọi người bằng cách không ngừng nâng cao đời sống nhân dân,bảo đảm tốt các vấn đễ xã hội và công bằng,bình đẳng trong xã hội.Chủ trương của Đảng ta là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi sản xuất và đời sống nhân dân như nước với thuyền,”nước đẩy thuyền lên”,tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội,động viên,khuyến khích làm giàu hợp pháp gắn liền với xóa đói giảm nghèo.ở nước ta trong quá trình phát triển KTTT định hướng XHCN,Nhà nước ta chủ động giải quyết ngay từ đầu mối quan hệgiữa tăng trưởng với đảm bẩon sinh và công bằng xã hội .Bởi vấn đề bảo đảm xã hội ,công bằng,bình đẳng trong xã hội không chỉ là “phương tiện” để phát triển mà còn là mục tiêu của chế độ xã hội XHCN cải tiến nền KTTT định hướng XHCN.
IV. những thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong quá trình xây dựng và phát triển nền kttt định hướng xhcn:
Về kinh tế:
Trong suốt thời kì đổi mới từ năm 1986 đến nay nền kinh tế Việt Nam luôn có nhịp độ tảng trưởng dương,đặc biệt đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh và liên tục trong suốt thời gian từ 1986-1997.Tất cả các mục tiêu kinh tế- xã hội của kế họach 5 năm 1996-2000 và chiến lược 10 năm 1991-2000 đều đạt và vượt kế họach; GDP trong 10 năm này tăng bình quân hằng năm 7,56%, nhờ vậy GDP 2000 đã gấp 2,07 lần so với năm 1990 ( vượt so với mục tiêu tăng 2 lần mà đại hội VII đã đề ra trong “chiến lược ổn định và phát triển kinh tế- xã hội 1991-2000).Từ năm 1991 đến nay, sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành một phần để tích lũy ( năm 1991: 10,1%,năm 1995:20%,năm 2000:27% GDP).Về nông nghiệp: phát triển tòan diện cả trồng trọt chăn nuôi ,nghề rừng và thủy sản.Thành tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc, an tòan lương thực quốc gia.Tốc độ tăng lương thực bình quân 5%/năm.Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trước năm 1989, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới(sau Thái Lan).Tính chung 12 năm qua (1989-2000), ta đã xuất khẩu 30,5 triệu tấn gạo, bình quân 2,54 triệu tấn/năm, trong khi thị trường và giá cả trong nước vẫn ổn định, kể cả những năm bị thiên tai lớn như 1999-2000.Những chuyển biến trên mặt trận lương thực cũng góp phần quan trọng vào việc ổn định đời sống của nhân dân, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa, nâng cao giá trị trên một ha đất canh tác (từ 13,7 triệu đồng/ha năm 1995 lên 17,5 triệu đồng/ha năm 2000).Đã hình thành những vùng trọng điểm sản xuất lương thực, thực phẩm như đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng ,vùng chuyên canh trồng cây công nghiệp như cà phê ở Đắc Lắc, cao su ở Đồng Nai , Sông Bé…Các vùng cây ăn quả tập trung cũng đang được hình thành.Nhiều mặt hàng nông sản đã chiếm vị trí đáng kể trong kim nghạch xuất khẩu.Tổng giá trị nông sản xuất khẩu đã chiếm khoảng 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước .Một nền nông nghiệp hàng hóa đã hình thành gắn với thị trường quốc tế.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng liên tục với tốc độ hai con số.Mức bình quân đầu người của nhiều sản phẩm công nghiệp như điện,than,vải thép,xi mang…tăng nhanh trong những năm đổi mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của sản xuất, của đời sống nhân dân và xuất khẩu.Riêng nghành khai thác dầu khí, mới ra đời trong thời kì đổi mới,sản lượng đạt hơn 40.000 tấn dầu thô(1986) đã tăng lên đến gần 16,3 triệu tấn (năm 2000) với giá trị xuất khẩu 3,3 tỷ USD.Thời kì này ta đã hòan thành một số công trình lớn: thủy điện Hòa Bình, Trị An, Yaly, đường dây 500 KV Bắc-Nam, nhiệt điện Phả Lại, Phú Mỹ…sản lượng điện đã tăng từ 5,7 tỷ Kwh năm 1986 lên 26,6 tỷ Kwh năm2000.Nhờ đó, điện lưới quốc gia đã phủ tới 98% số huyện, 70% số xã, 98% số hộ thành thị, 60% số hộ nông thôn.
Hệ thống đường giao thông bưu điện được xây dựng mới và nâng cấp đang vươn tới mọi miền đất nước, kể cả vùng sâu, vùng xa: nâng cấp quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 18 cùng nhiều sân bay, bến cảng.Đã làm thêm một số cầu lớn như: cầu Bến Thủy (Nghệ An), cầu sông Gianh (Quảng Bình), cầu Tân Đệ (Thái Bình) và đặc biệt nhất là cầu Mỹ Thuận bắc qua sông Tiền Giang được coi là một kỳ quan của khu vực Đông Nam A.
Họat động thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc.Cơ chế cung cấp theo tem phiếu và thu mua theo nghĩa vụ bị bãi bỏ, thay vào đó là tự do lưu thông, thống nhất một giá.Thị trường đầy ắp hàng hóa và dịch vụ, giá cả ổn định, chất lượng ngày càng cao, phương thức mua bán thuận tiện.Ơ Việt Nam đang hình thành và dần dần hòan thiện các thị trường như: thị trường chứng khóan, thị trường tiền tệ, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học và công nghệ…
2.Văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện:
Sự nghiệp giáo dục và đào tạo phát triển cả về quy mô và cơ sở vật chất.Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên.Nước ta đạt được chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học.Các nghành khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ chuyển biến tích cực, gắn bó hơn với phát triển kinh tế- xã hội.Các họat động văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản góp phần tích cực động viên tòan dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao kiến thức và chất lượng cuộc sống.Những nhu cầu thiết yếu của nhân dân về ăn, mặc, ở, chăm sóc sức khỏe, học tập, đi lại…được đáp ứng tốt hơn.Phong trào thể dục thể thao phát triển.Nước ta mỗi năm có hơn 1,2 triệu lao động có việc làm.Bên cạnh đó, công tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả nổi bật, công tác dân số, kế họach hóa gia đình có nhiều thành tích, các họat động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được mở rộng, nhiều họat động nhân đạo, từ thiện phát triển, làm cho cuộc sống nhân dân dần thóat khỏi khó khăn, ngày càng phát triển, ấm no, hạnh phúc.Thu nhập của dân cư tăng bình quân 10% trong 16 năm đổi mới.GDP bình quân đầu người đạt gần 400USD/năm.Số hộ giàu tăng lên và đến nay đã đạt trên 10%, số hộ nghèo giảm xuống từ 55% (1989) xuống còn 11,4% vào năm 2000.Những hộ có thu nhập tương đối cao, đã có tích lũy, xây dựng được nhà kiên cố, mua sắm những đồ dùng lâu bền và đắt tiền.Theo số liệu điều tra năm 1999, số hộ có điện dùng chiếm 78,1% tổng số hộ; 54,2% số hộ có vô tuyến và 45,7% số hộ có radio.Cùng với đời sống vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân cũng được nâng lên đáng kể.Số người đi học bình quân tính trên một vạn dân đã tăng từ 1.834 người năm 1990 lên 2.171 người năm 1995.Tỷ lệ người biết đọc, biết viết tăng từ 88% năm 1989 lên 93% năm 2000.Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng từ 0,464 năm 1992 lên 0,671 năm 2000, xếp thứ 108 trong số 174 nước được xếp hạng, tăng 2 bậc so với năm 1999.
3.Tình hình chính trị-xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường:
Làm tốt nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, tòan vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia.Phát huy được sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng tòan dân và an ninh nhân dân.Tổ chức quân đội và công an được điều chỉnh theo yêu cầu mới.Có tiến bộ trong việc kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế và công tác đối ngoại.Về thế trận chiến tranh nhân dân và quốc phòng tòan dân đã có sự điều chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực lượng trên phạm vi cả nước, tạo ra thế phòng thủ hợp lý, tăng cường khả năng phòng thủ ở các khu vực trọng điểm, từng bước xây dựng các khu vực, phòng thủ tỉnh, thành phố.Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc khôi phục và phát triển ở nhiều địa bàn, từng bước hình thành một số tuyến, khu vực có phong trào liên hòan, với nội dung hình thức phong phú, phòng ngừa và tấn công bọn tội phạm.Đấu tranh kiên quyết chống âm mưu và thủ đọan “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn các họat động gián điệp, biệt kích, bảo vệ nội bộ, bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, trừng trị bọn tội phạm hình sự, giữ gìn trật tự công cộng.Tiêu biểu là ta đã chặn đứng được âm mưu lật đổ chính quyền, xây dựng nhà nước mới ở Tây Nguyên năm 2000.
4.Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng, hệ thống chính trị được củng cố:
Nhiều Nghị quyết trung ương đề ra việc củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức cán bộ, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.Thực hiện cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh thần nghị quyết Trung ương 6 ( lần 2).Tiếp tục xây dựng hòan thiện, cải cách h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60397.DOC