MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu đề tài. 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 2
4. Phương pháp nghiên cứu 2
5. Cơ cấu đề tài 3
NỘI DUNG 4
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ TỪ NĂM 2008 ĐẾN THÁNG 3 NĂM 2011 4
1.1 Đánh giá chung về các quy định của pháp luật áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 4
1.1.1 Pháp luật nội dung áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 4
1.1.2 Pháp luật tố tụng dân sự áp dụng xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 8
1.2 Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn của TAND thành phố Huế. 9
1.2.1 Tình hình xét xử các vụ án ly hôn từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011 9
1.2.2 Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 21
1.3 Những vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật HN&GĐ trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 25
1.3.1 Áp dụng căn cứ ly hôn 25
1.3.2. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn 31
1.3.3. Vấn đề cấp dưỡng 37
1.4 Những vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 41
1.4.1 Thụ lý án ly hôn 41
1.4.2 Hòa giải 45
1.4.3 Đương sự trong vụ án ly hôn 47
CHƯƠNG 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN LY HÔN 52
2.1 Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 52
2.2 Những giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn 55
2.2.1 Giải pháp mang tính tổng thể 55
2.2.2 Một số giải pháp cụ thể 57
KẾT LUẬN 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8961 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực tiễn xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn tại Tòa án nhân dân thành phố Huế từ năm 2008 đến tháng 3 năm 2011, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ án mỗi nguyên nhân. Bên cạnh những nguyên nhân đã được bọc lộ ra ngoài qua sự trình bày của đương sự thì vẫn còn những nguyên nhân ẩn dấu bên trong mà các đương sự không muốn đề cập hoặc cố tình che dấu. Theo thống kê tại TAND thành phố Huế thường nguyên nhân chiếm tỷ lệ cao nhất trong các vụ án ly hôn là tình trạng mâu thuẫn kéo dài, vợ chồng không còn tình cảm với nhau, đó là sự bất đồng quan điểm sống đối với các vấn đề phát sinh trong đời sống chung, hai bên thiếu sự thông cảm, tôn trọng lẫn nhau dẫn đến hệ quả phát sinh là tính tình không hợp và không còn yêu thương nhau nữa. Trong khi, quan hệ HN&GĐ phải được tạo lập và xây dựng trên cơ sở tình yêu thương chân thật và sự tự nguyện của vợ chồng mới có được hạnh phúc gia đình và quan hệ hôn nhân bền vững. Khi những yếu tố không còn thì ly hôn là kết quả tất yếu.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác như: ngoại tình, không chung thủy,bị đánh đập, ngược đãi, vợ chồng xa cách lâu năm, bệnh tật, không có con hoặc không sinh được con trai, nguyên nhân kinh tế…cũng là nguyên nhân hay xảy ra trong các vụ án ly hôn.
Qua đó cho thấy rằng, biểu hiện của sự mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài là rất đa dạng, đòi hỏi việc giải quyết và đánh giá phải thận trọng, chính xác.
Trên thực tế, có một số vụ án ly hôn, thẩm phán chưa thật sự phân biệt được căn cứ ly hôn với nguyên nhân ly hôn hoặc động cơ ly hôn nên đã dựa vào nguyên nhân ly hôn hay động cơ ly hôn để giải quyết vụ án, điều này dẫn đến tình trạng cho ly hôn theo “lỗi” của đương sự tức là làm trái với quy định của pháp luật. Việc không dựa vào căn cứ ly hôn mà dựa vào nguyên nhân ly hôn hay động cơ ly hôn sẽ không nhận định được thực tế của quan hệ hôn nhân để đưa ra cách giải quyết hợp tình, hợp lý. Điều này còn dẫn đến hệ quả có những vụ án không đến mức phải ly hôn thì Tòa án cho ly hôn, ngược lại, những vụ án mà quan hệ vợ chồng đã đến mức mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nFhân không đạt được và ly hôn chính là giải thoát cho vợ chồng thì Tòa án lại hòa giải, chỉ ra “lỗi” của vợ, chồng và họ tưởng là mình có lỗi nên đã nhận lỗi và về đoàn tụ nhưng chỉ trong thời gian ngắn (1 hoặc 2, 3 tháng) sau lại nộp đơn yêu cầu ly xin hôn.
Như vậy, mặc dầu có những quy định của pháp luật cụ thể cho việc áp dụng căn cứ ly hôn nhưng thực tế, để nhìn nhận, đánh giá, giải quyết vấn đề này cho hợp tình, hợp lý là không hề đơn giản, hiệu quả của việc áp dụng giải quyết các vụ án ly hôn còn phụ thuộc vào năng lực của thẩm phán trong việc điều tra, xác minh, đánh giá thực trạng hôn nhân của vợ chồng để đưa ra một quyết định, một hướng giải quyết đúng đắn nhất góp phần ổn định quan hệ HN&GĐ và lợi ích của xã hội.
1.3.2. Vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Xét về mặt xã hội, ly hôn ảnh hưởng sâu sắc đến lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội. Ảnh hưởng đó của ly hôn chính là hậu quả pháp lý mà nó mang lại. Tòa án, bằng những quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử, giải quyết các hậu quả theo đúng quy định của pháp luật mặt khác phải đảm bảo được quyền, lợi ích phù hợp cho đương sự trong quá trình giải quyết đó thì chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là một vấn đề phức tạp, thường có nhiều tranh chấp giữa vợ chồng khi ly hôn và gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn xét xử nhiều năm qua tại TAND thành phố Huế nói riêng và các TAND ở nước ta nói chung.
Theo nguyên tắc chung, quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ 2000 thì việc chia tài sản khi ly hôn sẽ do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Nguyên tắc này xuất phát từ quyền tự định đoạt của đương sự trong quan hệ dân sự.
Tài sản của vợ chồng gồm có tài sản riêng và tài sản chung. Việc xác định tài sản nào là tài sản riêng, tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và cách giải quyết như thế nào luật đã quy định khá cụ thể, tuy nhiên, thực tiển giải quyết, xét xử không còn gặp nhiều vướng mắc.
Tài sản riêng của vợ chồng được quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật HN&GĐ 2000, theo đó tài sản riêng của vợ chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ chồng khi hôn nhân đang tồn tại, được quy định tại khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ 2000, đó còn là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu riêng của mỗi người, đồ dùng, tư trang cá nhân. Mặc dầu, theo quy định của pháp luật thì tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu riêng của bên đó và sau khi ly hôn vợ, chồng có tài sản riêng thì có quyền lấy về. Tuy nhiên khi chia tài sản riêng đó mà có tranh chấp thì tài sản đó đã có sự trộn lẫn, ẩn chứa với các loại tài sản chung trong quá trình sử dụng ở thời kỳ hôn nhân, điều này đã gây khó khăn cho Tòa án trong việc xác định tài sản riêng của vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật, khi có tranh chấp thì người có tài sản riêng phải chứng minh đó là tài sản riêng của mình và nếu mỗi bên không có chứng cứ chứng minh tài sản đó là tài sản riêng của mình thì đó là tài sản chung (khoản 3 Điều 27 Luật HN&GĐ 2000). Tuy vậy, vì có một số tài sản riêng đã bị trộn lẩn với tài chung nên việc xác định, chứng minh của đương sự gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, pháp luật quy định có những trường hợp tài sản riêng được tăng giá trị lên rất nhiều lần vì người có tài sản riêng đã dùng tài sản chung để tu sửa, làm tăng giá trị tài sản riêng của mình thì Tòa án cần xác định phần tăng giá trị đó, nhập vào tài sản chung để chia, trên thực tế việc xác định này không phải là vấn đề dễ dàng.
Đối với tài sản chung, kế thừa và phát triển quy định của Luật HN&GĐ 1986 về tài sản chung và quyền của vợ chồng đối với tài sản chung (Điều 14,Điều 15), Luật HN&GĐ 2000 đã dự liệu về căn cứ, nguồn gốc và thành phần các loại tài sản trong khối tài sản chung của vợ chồng. Theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ 2000 thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung…Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.
Tài sản chung của vợ chồng phải căn cứ vào thời kỳ hôn nhân kể từ thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân. Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân (khoản 7 Điều 8 Luật HN&GĐ 2000). Như vậy những tài sản do vợ chồng tạo ra được trong thời kỳ hôn nhân (trừ tài sản riêng của vợ chồng) đều thuộc khối tài sản chung của vợ chồng. Đối với tài sản chung của vợ chồng, vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt ngang nhau, luôn có một tỷ lệ giá trị phần tài sản bằng nhau trong khối tài sản chung đó. Đây là những đặc điểm dường như chỉ có và được áp dụng trong quan hệ hôn nhân.
Theo quy định của pháp luật, thời kỳ hôn nhân chấm dứt khi có sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật đó là:
- Khi vợ, chồng chết hoặc có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết.
- Trường hợp vợ, chồng còn sống thì hôn nhân chấm dứt bằng ly hôn, tính từ thời điểm phán quyết về ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng khi có quyết định của Tòa án tuyên bố vợ, chồng đã chết, mà sau này vì lý do nào đó họ lại trở về (chưa chết) thì rất phức tạp vì pháp luật dân sự và HN&GĐ của nước ta chưa dự liệu cụ thể vấn đề này. Điều 83 BLDS 2005 và Điều 26 Luật HN&GĐ 2000 mới chỉ đề cập đến một số hậu quả pháp lý về quan hệ nhân thân khi Toà án hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết mà vợ, chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục. Trên lý thuyết và thực tế (khi có yêu cầu) cần phải xác định về vấn đề tài sản giữa vợ chồng: chế độ tài sản của vợ, chồng được xác định như thế nào khi người chồng hoặc người vợ đó trở về? Vấn đề này đã gây khó khăn cho Tòa án khi giải quyết những trường hợp này. Ở đây có thể có hai trường hợp:
- Sau khi người vợ, chồng đã bị tuyên bố là đã chết, tài sản chung của vợ chồng chưa chia; người chồng, vợ (còn sống) đang quản lý tài sản chung.
- Có trường hợp sau khi tuyên bố vợ, chồng đã chết tài sản chung của vợ chồng đã được chia, phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung đã chia cho những người thừa kế của người đó.
Vấn đề đặt ra là:
- Khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người vợ chồng đã chết, quan hệ hôn nhân của họ đương nhiên được khôi phục (nếu người chồng, vợ kia chưa kết hôn với người khác). Vậy quan hệ tài sản (gồm khối tài sản chung của vợ chồng) có đương nhiên được khôi phục hay không? Khôi phục như thế nào?
- Sau khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết, những tài sản do người chồng, vợ tạo dựng, cùng các hoa lợi, lợi tức thu được từ các loại tài sản kể từ khi người vợ, chồng bị tuyên bố là đã chết cho đến ngày trở về, thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của người chồng, vợ đó?
- Những hợp đồng mà người vợ, chồng đó đã ký kết với người khác (người thứ ba) nhưng chưa được thực hiện; những món nợ mà người vợ, chồng vay của người khác nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình thuộc nghĩa vụ chung của vợ, chồng theo trách nhiệm liên đới của vợ chồng (Điều 25 Luật HN&GĐ 2000); hay thuộc nghĩa vụ riêng của người vợ, chồng?
Những vấn đề trên là rất phức tạp mà chưa được pháp luật dự liệu và chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh nên đã gây khó khăn, lúng túng cho Tòa án khi giải quyết những trường hợp này.
Như vậy, căn cứ để xác lập tài sản chung của vợ chồng, trước hết phải dựa trên cơ sở “thời kỳ hôn nhân” của vợ chồng. Toàn bộ những tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được coi là thuộc khối tài sản chung của vợ chồng.
Hiện nay, vấn đề căn cứ xác lập tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng liên quan đến hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân luật vẫn chưa quy định cụ thể nên trên thực tế có những quan điểm khác nhau khi xác định các hoa lợi, lợi tức đó thuộc khối tài sản chung của vợ chồng hay vẫn là tài sản riêng của vợ chồng.
- Quan điểm xét dưới góc độ thuần túy của pháp luật thì cho rằng chỉ chủ sở hữu tài sản mới có quyền thu lợi (hoa lợi, lợi tức) phát sinh từ tài sản đó, vì vậy, phải coi hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ chồng.
- Có quan điểm khác lại cho rằng, trong lĩnh vực HN&GĐ do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân, vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí tạo dựng tài sản chung nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung của gia đình. Một trong những đặc điểm của căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, mà chỉ cần một bên vợ, chồng tạo ra được trong thời kỳ hôn nhân; vả lại tài sản riêng của vợ chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng. Vì vậy, có thể xem thu nhập, hoa lợi, lợi tức do tài sản chung của hai vợ chồng hay tài sản riêng của một người trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng.
Chính vì có những cách hiểu khác nhau đối với vấn đề hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân chưa có quy định rõ ràng, cụ thể nên tạo ra những cách giải quyết khác nhau của Tòa án khi gặp những trường hợp này.
Thực tiễn xét xử cho thấy, trong các loại tài sản của vợ chồng khi ly hôn còn có hai loại tài sản quan trọng mà trong thực tiển giải quyết gặp nhiều khó khăn đó là nhà và quyền sử dụng đất của vợ chồng.
Trước hết, là việc xác định nhà là tài sản chung của vợ chồng, đây là vấn đề phức tạp vì nhà có trong thời kỳ hôn nhân có nhiều loại: Nhà do hai vợ chồng mua hoặc xây dựng; nhà do cha mẹ chồng (hoặc cha mẹ vợ) cho chung hai vợ chồng (là tài sản chung của vợ chồng); trường hợp vợ, chồng còn ở chung với gia đình cha mẹ chồng ( hoặc cha mẹ vợ) mà nhà đó là tài sản của cha mẹ, không thuộc tài sản chung của vợ chồng thì không chia. Chính vì tính phức tạp đó nên trong quá trình phân chia tài sản là nhà đòi hỏi Tòa án phải phân biệt được các trường hợp trên, phải xác định được đúng chủ sở hữu của ngôi nhà mà vợ chồng đang ở để làm căn cứ cho việc phân chia. Mặt khác trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến nhà ở là tài sản riêng của vợ chồng nhưng đã được vợ chồng tu sửa làm tăng giá trị lên hoặc bên có nhà đã thỏa thuận nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn lại nói chưa nhập…Vì vậy thực tế giải quyết đã có nhiều trường hợp do Tòa án không phân biệt được những trường hợp này nên đã giải quyết không thỏa đáng.
Về vấn đề chia tài sản là quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn. Theo quy định của BLDS 2005 và luật đất đai, quyền sử dụng đất là một loại quyền tài sản có tính chất đặc thù. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật bảo đảm đúng mục đích và có hiệu quả. Vấn đề chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn được quy định cụ thể tại Điều 97 Luật HN&GĐ. Mặc dầu bên cạnh Luật đất đai, BLDS 2005 của nước ta từ Điều 697 đến Điều 732 đã quy định về chuyển quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng không đầy đủ kịp thời. Tòa án nhân dân Tối cao chưa hướng dẫn đường lối giải quyết tranh chấp đất đai một cách đầy đủ, cụ thể và thống nhất. Do vậy, tình hình giải quyết các tranh chấp đất đai tại Tòa án những năm qua vừa chậm trể, vừa không thống nhất. Có nhiều vụ phải xử đi, xử lại nhiều lần, đặc biệt là các trường hợp vợ chồng ly hôn liên quan đến giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất.
1.3.3. Vấn đề cấp dưỡng
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là một trong những quyền và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng phát sinh từ kết hôn được pháp luật thừa nhận và bảo đảm thực hiện quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng, kể cả trường hợp vợ chồng ly hôn. Vấn đề cấp dưỡng khi ly hôn có từ lâu đời trong lịch sử loài người, đây là một chế định pháp lý quan trọng trong luật pháp về HN&GĐ nước ta và vấn đề này ngày càng được sự chú ý của cộng đồng và người dân. Bởi lẽ, việc cấp dưỡng nhằm đảm bảo người được cấp dưỡng hưởng được sự quan tâm, chăm sóc về vật chất và tinh thần, đảm bảo cho người cấp dưỡng đủ điều kiện tồn tại và phát triển.
Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt theo nguyên tắc, quan hệ nhân thân giữa vợ chồng cũng chấm dứt nhưng những quan hệ tài sản trong đó có quan hệ cấp dưỡng giữa vợ chồng không hẳn đã chấm dứt. Khi một bên vợ hoặc chồng gặp khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì người vợ hoặc chồng củ có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng của họ, điều đó hoàn toàn phù hợp với truyền thống của người Việt Nam “vợ chồng một ngày nên nghĩa”. Bên cạnh đó, khi vợ chồng ly hôn người con không thể cùng một lúc nhận được sự chăm sóc nuôi dưỡng của cả cha và mẹ. Tuy nhiên, trên thực tế, để giải quyết vấn đề cấp dưỡng đặc biệt là vấn đề cấp dưỡng của vợ chồng giành cho con cái còn nhiều vướng mắc, bất cập.
Đó là vấn đề quy định người nuôi dưỡng trong vụ án ly hôn, đây là vấn đề rất quan trọng, bởi vì: Khi cha mẹ ly hôn, người bị tổn thương nhiều nhất vẫn là đứa con, nhất là khi con đang ở lứa tuổi chưa thành niên _ lứa tuổi cần sự chăm sóc của cả cha và mẹ để có thể phát triển toàn diện.
Về nguyên tắc, việc ai là người nuôi con sau khi ly hôn có thể được các bên đương sự tự thỏa thuận với nhau và được Tòa án ghi nhận trong bản án. Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con khi chưa thành niên (dưới 18 tuổi) hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. Người không trực tiếp nuôi dưỡng con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để người kia chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành. Nếu hai bên không thể tự thỏa thuận với nhau, Tòa án sẽ xem xét giao quyền nuôi con cho một bên vợ hoặc chồng.
Cụ thể hóa nguyên tắc nêu trên, tại khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ 2000 quy định “ vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Theo công văn số 62/2002/KHXH, TANDTC cũng hướng dẫn việc thực hiện khoản 2 Điều 92 Luật HN&GĐ 2000, việc hỏi ý kiến con chỉ đặt ra trong trường hợp cha mẹ không thỏa thuận được việc giao con cho ai nuôi. Vì vậy trong thực tiễn áp dụng pháp luật, các Tòa án vận dụng các quy định này không giống nhau.
Thực tiễn cho thấy, việc xem xét ý kiến, nguyện vọng của con và coi đó là một trong những cơ sở để Tòa án việc giao con cho ai nuôi là cần thiết xét dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Bởi vì, khi cha mẹ ly hôn, con cái mất đi một điểm tựa quan trong nhất đó là mái ấm gia đình, việc hỏi ý kiến là để các em nói lên tâm tư, nguyện vọng của mình.
Trong thực tiễn, khi giải quyết các vụ án ly hôn nếu các bên không thỏa thuận được thì Tòa án căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành và điều kiện khả năng thực tế của mỗi bên để quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng thì áp dụng hướng dẫn quy định tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật HN&GĐ năm 2000. Theo đó, khi áp dụng Điều 92 thì người không có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con “Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp các bên thỏa thuận được thì tùy vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng cho hợp lý. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng”. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết một số điều Luật HN&GĐ 2000 cũng quy định rõ chế định cấp dưỡng tại chương III trong các trường hợp cụ thể, theo khoản 2 Điều 6 của Nghị định: “ Nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng được xác định căn cứ vào mức sinh hoạt trung bình tại địa phương, nơi người được cấp dưỡng cư trú, bao gồm chi phí cần thiết cho ăn, ở, mặc, học, khám chữa bệnh và các chi phí thông thường cần thiết khác để đảm bảo cuộc sống của người được cấp dưỡng….”Có thể nói việc cấp dưỡng nuôi con sau ly hôn là trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con của mình sinh ra.
Tuy nhiên, hầu hết các trường hợp sau khi ly hôn, vấn đề cấp dưỡng chưa đảm bảo quyền lợi của con, chưa nói đến trường hợp khoản tiền cấp dưỡng sau khi ly hôn là “nợ khó đòi” đối với một số trường hợp người cha, mẹ phải có nghĩa vụ cấp dưỡng lại vô trách nhiệm, không tự nguyện, tự giác..
Quy định của Tòa án về mức cấp dưỡng là căn cứ vào mức thu nhập, giá cả thị trường tại thời điểm xét xử vụ án. Tuy nhiên khi ly hôn, hầu hết con ở tuổi rất nhỏ có trường hợp phải 13,14 năm sau mới đủ 18 tuổi, mức cấp dưỡng lại “bất di, bất dịch” trong khi đó, thị trường lại biến động, giá cả leo thang, chưa kể những trường hợp có nghĩa vụ cấp dưỡng lại cố tình không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, điều này gây khó khăn rất lớn cho người trực tiếp nuôi dưỡng con đặc biệt là những người có mức thu nhập thấp.
Do các quy định về cấp dưỡng còn chung chung, chưa có quy định cụ thể về mức cấp dưỡng về nuôi con sau khi ly hôn đã làm cho Tòa án khi xét xử chỉ còn biết căn cứ vào điều kiện thực tế cụ thể của từng trường hợp. Nhưng cũng chính vì lý do đó mức cấp dưỡng mỗi nơi mỗi vẻ, mặt khác việc thiếu chế tài cứng rắn hơn để ràng buộc những người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải thực hiện nghĩa vụ của mình, cũng như các cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác phải có nghĩa vụ hỗ trợ cơ quan tư pháp thực hiện cũng là một cản trở không nhỏ biến cấp dưỡng nuôi con trở thành món nợ khó đòi. Điều này đã làm giảm đi hiệu quả pháp luật khiến bản án, quyết định của Tòa án không được thực thi một cách đầy đủ, đúng đắn trên thực tế.
Ngoài quy định về nuôi và cấp dưỡng nuôi con, Luật HN&GĐ còn có quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng sau khi ly hôn ( Điều 60 Luật HN&GĐ 2000). Tuy nhiên khác với việc cấp dưỡng nuôi con, cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn được quy định chặt chẽ, người được cấp dưỡng phải là người có khó khăn, túng thiếu và bản thân họ có yêu cầu và yêu cầu đó phải có lý do chính đáng. Thế nhưng, trên thực tế điều luật này ít được thực hiện vì lý do đương sự không biết có quy định như vậy hoặc biết, có yêu cầu nhưng bên kia chỉ đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Đây cũng là một điều luật khó thực hiện vì thiếu chế tài ràng buộc.
Như vậy, cấp dưỡng là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc giải quyết các vụ án ly hôn. Tuy nhiên, hiện nay việc áp dụng vấn đề này vẫn còn nhiều vướng mắc, bất cập. Vì vậy đòi hỏi phải có những quy định rõ ràng, cụ thể kèm theo những chế tài hợp lý nhằm đảm báo quyền lợi cho người cấp dưỡng cũng như giảm bớt gánh nặng cho người trực tiếp nuôi con trong vụ án ly hôn.
1.4 Những vướng mắc trong việc áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong xét xử sơ thẩm các vụ án ly hôn
1.4.1 Thụ lý án ly hôn
Theo nguyên tắc, khi vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có yêu cầu ly hôn, xét thấy hợp lý, Tòa án thụ lý vụ, việc ly hôn và giải quyết theo thủ tục của luật định. Việc thụ lý vụ việc ly hôn được thực hiện theo các quy định do pháp luật tố tụng dân sự quy định.
Bộ luật TTDS 2004 của nước ta được Quốc hội thông qua ngày 24/6/2004 có hiệu lực ngày 01/01/2005 đã thay thế cho pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989. BLTTDS 2004 ra đời đánh dấu bước phát triển mới trong quy định về mặt tố tụng dân sự. Theo quy định của BLTTDS 2004 khi có yêu cầu ly hôn, tùy từng trường hợp có thể thụ lý giải quyết theo thủ tục giải quyết vụ án dân sự (vụ án ly hôn), hoặc thụ lý giải quyết việc dân sự (yêu cầu ly hôn). Để xác định vụ án hay việc dân sự thì căn cứ vào Điều 27, Điều 28 BLTTDS 2004, theo đó:
- Thụ lý án ly hôn do một bên yêu cầu hoặc khi thuận tình ly hôn nhưng có tranh chấp về con nuôi, chia tài sản khi ly hôn, tức là trường hợp này có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
- Thụ lý yêu cầu ly hôn khi yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn. Khi các bên giải quyết được cả ba quan hệ trên (không có tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên) thì thụ lý yêu cầu ly hôn và giải quyết theo thủ tục việc dân sự.
Mặc dù đã có những quy định như vậy nhưng trên thực tế, khi áp dụng để thụ lý án HNGĐ vẫn còn gặp phải những vướng mắc do các bên điều luật quy định còn mang tính khái quát, thiếu cụ thể và chi tiết.
BLTTDS 2004 quy định hai thủ tục giải quyết ly hôn theo thủ tục vụ án dân sự. Ly hôn do một bên yêu cầu và giải quyết thuận tình ly hôn theo loại việc dân sự. Cơ sở để xác định thủ tục tố tụng khi thụ lý giải quyết vụ án hay việc ly HN&GĐ xuất phát từ việc xác định thế nào là sự thể hiện ý chí khi ly hôn. Trên thực tế, có trường hợp cả hai vợ chồng ký tên vào đơn thỏa thuận ly hôn và yêu cầu Tòa án công nhận, nhưng cũng có nhiều trường hợp thỏa thuận ly hôn không được vợ chồng thể hiện trong hình thức và nội dung đơn. Chẳng hạn, trường hợp vợ (chồng) nộp đơn yêu cầu ly hôn (ly hôn do một bên yêu cầu), sau khi Tòa án thụ lý thì chồng (vợ) gửi đơn đồng ý ly hôn hoặc trong biên bản tự khai thể hiện ý chí cũng đồng ý với đơn xin ly hôn của vợ (chồng). Như vậy trường hợp này có xác định được là sự thỏa thuận hay không để nhận đơn thu lý theo vụ án hay việc HN&GĐ.
Về vấn đề hiểu thế nào là thuận tình ly hôn đã được Công văn số 62/2001/KHXH ngày 13/06/2001 của TANDTC hướng dẫn, cụ thể là: “ Trường hợp vợ chồng cùng viết đơn xin thuận tình ly hôn, thì họ là đồng nguyên đơn. Khi thụ lý tuy chỉ có một bên nộp tạm ứng án chi phí nhưng cần hiểu là có sự thỏa thuận với nhau”. Hiện nay BLTTDS chưa có quy định cụ thể về trường hợp nào là thuận tình ly hôn để thụ lý theo thủ tục việc dân sự. Vấn đề dặt ra là, Tòa án có thể dựa vào tinh thần của công văn trên để thụ lý vụ, việc dân sự theo quy định của BLTTDS hay không?
Thực tiễn xét xử cũng gặp những vướng mắc nhất định khi áp dụng các quy định tố tụng liên quan đến việc thể hiện ý chí thuận tình ly hôn sau khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án. Có trường hợp, vợ (chồng) làm đơn xin ly hôn (ly hôn do một bên yêu cầu) sau đó trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm , Tòa án tiến hành hòa giải thì vợ (chồng) lại thuận tình ly hôn và thỏa thuận được tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án. Như vậy Tòa án có thể áp dụng được Điều 187 của BLTTDS 2004 để ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn trên cơ sở biên bản hòa giải đoàn tụ không thành không? Nếu căn cứ vào Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật HN&GĐ 2000 tại mục 10b hướng dẫn về thuận tình ly hôn do một bên yêu cầu có quy định: “ Trong trường hợp hòa giải đòan tụ không thành thì Tòa án lập biên bản hòa giải đoàn tụ không thành, đồng thời ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BI KHA LU7852NV.HAI.doc