Khóa luận Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005

Theo Điều 297 Luật thương mại 2005, khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên bị vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên bị vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thường được đặt ra khi có vi phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kĩ thuật của công việc.

Khoản 2 Điều 297 Luật thương mại 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm”.

 

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11147 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c, tự do lựa chọn hình thức hợp đồng, tự nguyện quyết định việc giao kết hợp đồng, tự do xác định nội dung cụ thể của hợp đồng trên cơ sở pháp luật quy định, tự do sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt hợp đồng. Song việc sửa đổi, bổ sung hay chấm dứt việc thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nếu không xuất phát từ ý chí thỏa thuận của các bên, lúc này nghĩa vụ được hình thành trong hợp đồng là điều kiện ràng buộc các bên trong quan hệ hợp đồng với nhau. Mọi hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ cam kết đều có thể có nguy cơ bị áp dụng các chế tài hợp đồng. Thực tế, mục đích của hoạt động kinh doanh là tìm kiếm lợi nhuận tối đa. Thông qua hoạt đông kinh doanh con người muốn làm tăng thêm giá trị vật chất cho xã hội, mà trước hết là cho nhà kinh doanh. Nếu không có các biện pháp cần thiết thì quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng luôn luôn có nguy cơ bị chèn ép hoặc cạnh tranh không lành mạnh. Chính vì thế, việc áp dụng các chế tài hợp đồng như: (a) Buộc thực hiện đúng hợp đồng; (b) Phạt vi phạm, (c) Bồi thường thiệt hại; (d) Tạm ngừng thực hiện hợp đồng; (e) Đình chỉ hợp đồng; (f) Hủy bỏ hợp đồng; (g) Các biện pháp khác do các bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật là những biện pháp hữu hiệu đảm bảo tính khả thi cho quyền tự do hợp đồng. 1.4.3. Bảo vệ lợi ích của các bên trong quan hệ hợp đồng Trong nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước, lợi nhuận mà các thương nhân có được phải là lợi ích kinh tế hợp pháp, được nhận từ việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ của hợp đồng. Nhưng do mục đích này thương nhân có thể có nhiều hành vi vi phạm khác nhau dẫn đến việc không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng làm ảnh hưởng trực tiếp tới lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm, thậm chí có thể làm phát sinh nghĩa vụ về tài sản của bên bị vi phạm với bên thứ ba. Hành vi vi phạm hợp đồng luôn tiềm ẩn nguy cơ xâm hại lợi ích của bên bị vi phạm (làm mất mát, hư hỏng hàng hóa, giảm sút thu nhập, lợi nhuận…). Để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, bên bị vi phạm có thể tự mình hoặc yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các hình thức chế tài đối với bên vi phạm (buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng). Không chỉ như vậy, chế tài trong thương mại cũng bảo vệ quyền lợi của bên vi phạm, việc quy định rõ trong luật các trường hợp miễn trách nhiệm, các căn cứ, thủ tục áp dụng, mức phạt… cũng bảo đảm bên vi phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình đúng theo mức độ vi phạm, bảo vệ bên vi phạm trong các hiện tượng tiêu cực khi xử lí vi phạm, điều đó giúp các bên có thể thực hiện hợp đồng yên tâm hơn. 1.4.4. Phòng ngừa vi phạm pháp luật hợp đồng Luật thương mại cho phép áp dụng chế tài hợp đồng đối với tất cả hành vi vi phạm hợp đồng trong thương mại, kể cả trường hợp các bên không thỏa thuận nhưng chế tài hợp đồng vẫn có thể được áp dụng theo quy định của pháp luật, ngoại trừ trường hợp bên bị vi phạm từ chối không áp dụng chế tài hợp đồng đối với bên bị vi phạm hay rơi vào trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Như vậy, trong trường hợp một bên vi phạm hợp đồng, thì họ đều có thể bị đe dọa gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản. Nếu chưa có hành vi vi phạm hợp đồng, việc quy định các chế tài trong thương mại mang tính “phòng ngừa” các biểu hiện vi phạm pháp luật hợp đồng, nâng cao ý thức trách nhiệm và thái độ tích cực hợp tác của các bên trong quan hệ hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nếu phát sinh vi phạm hợp đồng, các chế tài hợp đồng được bên bị vi phạm áp dụng nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Đó có thể là các chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng để trừng phạt và bồi hoàn tổn thất do hợp đồng bị vi phạm. Quy định về trách nhiệm hợp đồng có tác dụng rất mạnh mẽ vào ý thức các bên, nâng cao tinh thần trách nhiệm hợp tác, thực hiện các nghĩa vụ trong hợp đồng, khi nắm được các hành vi đó là vi phạm và phải chịu chế tài thì sẽ không thực hiện, qua đó ngăn ngừa vi phạm xảy ra [5; tr.50]. Như vậy, việc quy định cụ thể các nguyên tắc và căn cứ áp dụng các chế tài hợp đồng trong thương mại, Luật thườn mại 2005 đã khẳng định vai trò của mình là rất quan trọng trong việc phòng ngừa mọi biểu hiện vi phạm pháp luật hợp đồng. Ngoài ra góp phần giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện các điều khoản hợp đồng mà các bên đã thiết lập. 1.5. Tính hiệu quả của chế tài trong thương mại Chế tài trong thương mại có nội dung chủ yếu là các quy định về căn cứ áp dụng các trách nhiệm, các hình thức trách nhiệm và các trường hợp miễn trách nhiệm. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mà đặc điểm cơ bản là: được áp dụng trên cơ sở hành vi vi phạm hợp đồng có hiệu lực pháp luật; nội dung gắn liền với việc thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng hoặc trách nhiệm về tài sản; do các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền áp dụng hoặc do bên bị vi phạm áp dụng trên cơ sở pháp luật. Buộc thực hiện đúng hợp đồng là hình thức chế tài nhằm đảm bảo thực hiệm hợp đồng đã kí kết giữa các bên, do lúc kí kết hợp đồng các bên đều xuất phát từ mục đích lợi nhuận, chứ không phải lợi ích từ việc nộp phạt hay bồi thường của bên đối tác. Áp dụng chế tài này giúp tránh việc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của họ mà không làm mất thiện trí hợp tác giữa các bên trong hợp đồng. Phạt vi phạm hợp đồng là chế tài tiền tệ, chế tài này nhằm trừng phạt, phòng ngừa vi phạm hợp đồng giữa các bên, qua đó giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật hợp đồng, củng cố kỉ luật hợp đồng, bảo đảm sự lành mạnh trong các quan hệ kinh tế. Bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài dùng để bù đắp những thiệt hại vật chất thực tế cho bên bị vi phạm. Do vậy, số tiền bồi thường đó phải sẽ đảm bảo bồi hoàn, bù đắp và khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại cho bên có quyền lợi khi hợp đồng được thực hiện đúng. Tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng là chế tài nhằm trừng phạt và thái độ nghiêm khắc của bên bị vi phạm với bên vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Khi áp dụng các chế tài này, bên bị vi phạm hợp đồng áp dụng chế tài bằng cách không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng được xem như là sự “tự vệ” của bên bị vi phạm trước hành vi vi phạm hợp đồng của bên kia. Khi áp dụng các chế tài này, sự bất lợi mà bên vi phạm phải gánh chịu cơ bản thể hiện ở chỗ, bên vi phạm không được đáp ứng các quyền theo thỏa thuận trong hợp đồng, do bên bị vi phạm không phải thực hiện các nghĩa vụ tưng xứng. Mặt khác, bên bị vi phạm áp dụng chế tài này vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Chương 2: CÁC CHẾ TÀI TRONG THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI 2005 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 2.1. Nội dung cơ bản của quy định về các chế tài trong thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 Khi một hợp đồng được xác lập có hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, khi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đó thì sẽ phải chịu trách nhiệm hợp đồng mà cụ thể là các chế tài, nghiên cứu nội dung các chế tài theo quy định của Luật thương mại 2005, ta phân tích từng loại chế tài sau: 2.1.1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng Khi phát sinh tranh chấp bên có quyền lợi bị vi phạm đều hướng đến việc bù đắp những thiệt hại đã xảy ra, nhưng nhiều khi lợi ích của việc thực hiện đúng hợp đồng còn quan trọng và cần thiết hơn so với được đền bù bằng đúng giá trị thiệt hại đã bỏ ra, ví dụ như thời cơ, uy tín mà việc thực hiện chậm hợp đồng làm ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. Khi đó việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh. Theo Khoản 1 Điều 297 Luật thương mại 2005 quy định “Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh”. Đây là hình thức chế tài, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong thương mại phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của bên bị vi phạm. Từ khái niệm trên, chế tài này có những đặc điểm chính sau: + Căn cứ áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng Chế tài này được áp dụng khi có hành vi vi phạm hợp đồng và có lỗi của bên vi phạm. Theo Điều 297 Luật thương mại 2005, bên có quyền lợi bị vi phạm chỉ có quyền buộc bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng nếu bên vi phạm có lỗi. Nếu bên vi phạm có hành vi vi phạm hợp đồng nhưng không có lỗi thì họ không bị áp dụng các hình thức chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Điều 296 Luật thương mại 2005 tạo điều kiện cho bên bị vi phạm kéo dài thời hạn, từ chối thực hiện hợp đồng trong trường hợp bất khả kháng: “1. Trong trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thoả thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng; nếu các bên không có thoả thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng được tính thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây: a) Năm tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận không quá mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng; b) Tám tháng đối với hàng hoá, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thoả thuận trên mười hai tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng. 2. Trường hợp kéo dài quá các thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này, các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên nào có quyền yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. 3. Trường hợp từ chối thực hiện hợp đồng thì trong thời hạn không quá mười ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn quy định tại khoản 1 Điều này bên từ chối phải thông báo cho bên kia biết trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng. 4. Việc kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ.” Như vậy, những trường hợp bên bị vi phạm và bên vi phạm thỏa thuận gia hạn thực hiện nghĩa vụ hoặc thỏa thuận thay thế nghĩa vụ này bằng nghĩa vụ khác, không được coi là áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng. Trong các trường hợp này, bên bị vi phạm không được quyền yêu cầu bên vi phạm phải thực hiện đúng cam kết. + Các biện pháp thực hiện đúng hợp đồng Theo Điều 297 Luật thương mại 2005, khi áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có thể lựa chọn hoặc yêu cầu bên bị vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên bị vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thường được đặt ra khi có vi phạm các điều khoản về số lượng, chất lượng hàng hóa, yêu cầu kĩ thuật của công việc. Khoản 2 Điều 297 Luật thương mại 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Bên vi phạm không được dùng tiền hoặc hàng khác chủng loại, loại dịch vụ khác để thay thế nếu không được sự chấp thuận của bên bị vi phạm”. Như vậy, khi bên vi phạm giao thiếu hàng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải giao đủ hàng, cung ứng dịch vụ theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu bên vi phạm giao hàng kém chất lượng, cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm loại trừ khuyết tật của hàng hóa, thiếu sót. Trường hợp bên vi phạm giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng thì phải giao đủ hàng hoặc cung ứng dịch vụ theo đúng thoả thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên vi phạm giao hàng hoá, cung ứng dịch vụ kém chất lượng thì phải loại trừ khuyết tật của hàng hoá, thiếu sót của dịch vụ hoặc giao hàng khác thay thế, cung ứng dịch vụ theo đúng hợp đồng. Ngoài ra, bên bị vi phạm có thể lựa chọn các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên bị vi phạm phải chịu chi phí phát sinh. Ví dụ, trường hợp bên vi phạm không thực hiện yêu cầu thực hiện đúng hợp đồng, bên bị vi phạm có quyền mua hàng, nhận cung ứng dịch vụ của người khác theo đúng loại hàng hóa, dịch vụ ghi trong hợp đồng và bên vi phạm phải đền bù chênh lệch giá. Bên bị vi phạm cũng có thể tự sủa khuyết tật, thiếu sót của hàng hóa, dịch vụ và yêu cầu bên vi phạm phải trả các chi phí sửa chữa cần thiết. + Tính chất của chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng Đây là biện pháp chế tài được áp dụng một cách rộng rãi đối với mọi vi phạm, bởi vì nó mang tính mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả, thiện chí hơn so với các chế tài khác. Mục đích của việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng nhằm đảm bảo thực hiện trên thực tế hợp đồng đã kí kết mà trong nhiều trường hợp, các loại chế tài khác như bồi thường thiệt hại và phạt hợp đồng không thể thay thế lợi ích từ việc thực hiện hợp đồng đã kí kết của các bên. Nhìn chung, so với quy định của Bộ luật dân sự 2005, quy định về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng tại Điều 297 Luật thương mại 2005 là phù hợp với quy định tương tự tại Điều 304 Bộ luật dân sự 2005. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 304 Bộ luật dân sự 2005 thì nếu bên có nghĩa vụ không được thực hiện một công việc mà lại thực hiện công việc đó thì bên có quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải chấm dứt thực hiện, khôi phục lại tình trạng ban đầu và bồi thường thiệt hại. 2.1.2. Phạt vi phạm hợp đồng Phạt vi phạm hợp đồng là hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hơp đồng phải trả cho bên bị vi phạm hợp đồng một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận. Điều 300 Luật thương mại 2005 quy định “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt nhất định do vi phạm hợp đồng, nếu trong hợp đồng có có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định của Điều 294 của Luật này”. Chế tài phạt vi phạm có mục đích chủ yếu là trừng phạt, tác động vào ý thức của các chủ thể hợp đồng nhằm giáo dục ý thức tôn trọng hợp đồng, phòng ngừa vi phạm hợp đồng. Vì thế, phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng một cách phổ biến đối với các vi phạm hợp đồng. + Căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng Theo Luật thương mại 2005, chế tài phạt vi phạm chỉ được áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về việc áp dụng chế tài này, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định pháp luật. Nói cách khác, chế tài phạt vi phạm được áp dụng khi xuất hiện hai căn cứ: (a) Có hành vi vi phạm hợp đồng và (b) Có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. Mặc dù, pháp luật thương mại không có quy định trực tiếp yếu tố có lỗi là căn cứ áp dụng chế tài phạt vi phạm. Nhưng yếu tố này được gián tiếp thông qua qua việc luật thương mại đưa ra các trường hợp “miễn trách nhiệm” là các trường hợp loại trừ áp dụng chế tài. Phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng ngay cả khi thiệt hại chưa xảy ra. Yếu tố thiệt hại không có tính chất quyết định đến việc áp dụng chế tài phạt vi phạm. Tuy nhiên trong quan hệ hợp đồng, mức độ vi phạm cũng có thể ảnh hưởng tới việc áp dụng chế tài này. Đó là việc pháp luật cho phép áp dụng xác định khoản tiền phạt dựa trên giá trị phần hợp đồng bị vi phạm, mức phạt “do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm” (Điều 301 Luật thương mại 2005). + Chủ thể có thẩm quyền áp dụng chế tài phạt vi phạm Chủ thể có thẩm quyền áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đông là bên bị vi phạm hoặc trong trường hợp có đơn yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết (Tòa án, Trọng tài) thì lúc này các cơ quan được yêu cầu sau khi xem xét tính hợp pháp của đơn kiện, sẽ ra quyết định thực hiện hay không thực hiện chế tài này. + Mức phạt vi phạm Điều 301 Luật thương mại 2005 quy định “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trương hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”. Biện pháp này ở Bộ luật dân sự không được xem là một chế tài hợp đồng, nó được xem là một trong những biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng, Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2005 cho phép các bên trong giao dịch dân sự được thoả thuận về mức phạt vi phạm; có thể thoả thuận vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu không có thoả thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm. Như vậy, việc quy định không thống nhất, thiếu chặt chẽ giữa các văn bản pháp luật hiện hành dẫn tới việc áp dụng chế tài này trong từng quan hệ hợp đồng rất bức xúc. + Tính chất của chế tài phạt vi phạm hợp đồng: Tuy mang tên là phạt vi phạm hợp đồng nhưng chế tài phạt vi phạm hợp đồng là một chế tài tiền tệ với mục đích không phải chỉ trừng phạt bên vi phạm mà quan trong hơn là nâng cao ý thức thực hiện hợp đồng của các bên, giáo dục phòng ngừa vi phạm hợp đồng. 2.1.3. Buộc bồi thường thiệt hại Buộc bồi thường thiệt hại là hình thức chế tài nhằm khôi phục bù đắp những lợi ích vật chất bị mất mat, hư tổn của bên bị vi phạm hợp đồng trong kinh doanh. Điều 302 Luật thương mại 2005 định nghĩa: “1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. 2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.” Từ khái niệm trên ta thấy chế tài này có những đặc điểm sau: + Mục đích áp dụng: Đây là chế tài tiền tệ dùng để bù đắp những thiệt hại vật chất thực tế cho bên bị vi phạm. Do vậy số tiền bồi thường đó phải đảm bảo bồi hoàn, bù đắp và khôi phục lợi ích vật chất bị thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra cho bên bị thiệt hại mà thiệt hại này sẽ không xảy ra khi thực hiện đúng hợp đồng. Mục đích của nó hoàn toàn khác với phạt vi phạm là dùng để răn đe, trừng phạt, phòng ngừa và giáo dục các bên tham gia hợp đồng. + Căn cứ áp dụng chế tài Luật thương mại 2005 quy định một điều luật riêng về căn cứ áp dụng chế tài này, điều đó cho thấy đây là một chế tài nghiêm khắc, bởi vì giá trị bồi thường tổn thất nhiều khi là rất lớn, điều này tùy thuộc vào thiệt hại đã xảy ra do vi phạm hợp đồng mà không có giá trị giới hạn bồi thường như phạt vi phạm. Theo Điều 303 Luật thương mại 2005, căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.” Như vậy, bên có quyền muốn áp dụng chế tài này đối với bên vi phạm thì phải chứng minh đã có hành vi không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng của bên đối tác. Phải chứng minh được đã có thiệt hại xảy ra trong thực tế, đó là các thiệt hại có thể tính được bằng tiền mà bên vi phạm hợp đồng phải gánh chịu, bao gồm cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra trên thực tế, có thể tính toán một cách rõ ràng và chính xác. Ví dụ tài sản bị mất mát, hư hỏng, chi phí để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại do vi phạm hợp đồng gây ra… Thiệt hại gián tiếp là thiệt hại phải dựa trên sự suy đoán khoa học mới có thể xác định được, đó là những khoản thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút, khoản lợi có lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi vi phạm phải chịu. Đồng thời bên vi phạm phải chứng minh rằng hành vi vi phạm và thiệt hại đó có mối quan hệ nội tại, tất yếu với nhau, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra vi phạm, việc chứng minh điều này phải dựa trên những chứng cứ rõ ràng, xác thực và hợp pháp. Bên cạnh đó, bên bị vi phạm còn phải chứng minh bên có hành vi vi phạm hợp đồng không thuộc các trường hợp miễn trách nhiệm theo Điều 294 Luật thương mại 2005: (a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận; (b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng; (c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia; (d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng. + Nguyên tắc áp dụng chế tài bồi thương thiệt hại Để bù đắp, bồi hoàn những tổn thất cho bên bị vi phạm, nhằm giúp họ có thể khôi phục các lợi ích vật chất như khi hợp đồng được thực hiện, nguyên tắc bồi thường toàn bộ thiệt hại vật chất được xem là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng. Do đó vấn đề xác định cụ thể tất cả những thiệt hại vật chất thực tế xảy ra là vấn đề cốt lõi. Mặt khác, xuất phát từ vệc kí kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng là thiện chí của các bên và trong qúa trình kinh doanh thương mại thì nguyên tắc tương trợ, hợp tác, cùng có lợi luôn được thể hiện. Vì vậy, muốn xác định mức độ bồi thường thiệt hại trong từng tình huống cụ thể, bên bị thiệt hại cũng phải có nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Căn cứ vào Điều 305 Luật thương mại 2005 “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được”. Luật thương mại 2005 cũng không có quy định các biện pháp hạn chế tổn thất là các biện pháp cụ thể gì, nhưng trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thương mại, Tòa án thường công nhận các biện pháp như tổ chức bán hàng hóa sắp hết hạn sử dụng, hàng hóa dễ hư hỏng hay các hàng hóa giảm giá nhanh do thị trường có sự biến động; tổ chức bảo quản hàng hóa trong điều kiện thời tiết không thuận lợi hay tổ chức thuê kho bãi, hầm lạnh trong trương hợp người mua không tiếp nhận hàng hóa mà hàng hóa lại không thể bảo quản trong tình huống bình thường được. + Chủ thể có quyền áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại Theo quy định Luật thương mại 2005, bên bị vi phạm nếu muốn đòi tiền bồi thường phải chứng minh được có tổn thất xảy ra trong thực tế, mức độ tổn thất và phải chứng minh được việc áp dụng các biện pháp hạn chế tổn thất, từ đó mới phát sinh quyền áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại đối vời bên vi phạm. Khi hai bên không tự thương lượng, hòa giải được bên bị vi phạm có quyền yêu cầu tòa án hoặc trọng tài giải quyết. Sau khi xem xét tính hợp pháp của yêu cầu, các cơ quan này ra quyết định buộc bên vi phạm tuân thủ các cam kết trong hợp đồng và các quy định của pháp luật. + Tính chất của chế tài buộc bồi thường thiệt hại Với bản chất của hợp đồng, các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về các hình thức chế tài phù hợp với quy định của pháp luật. Từ các quy định của Luật thương mại 2005, các bên có thể thỏa thuận việc áp dụng hay không áp dụng chế tài buộc bồi thường thiệt hại. Các bên có quyền thỏa thuận về việc bên vi phạm chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải nộp tiền phạt vi phạm hợp đồng và vừa phải bồi thường thiệt hại. Theo Luật thương mại 2005, trong trường hợp các bên của hợp đồng trong kinh doanh không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. 2.1.4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng Tạm ngừng thực hiện hợp đồng trong kinh doanh là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong kinh doanh. Khi hợp đồng trong kinh doanh bị tạm ngừng thì hợp đồng vẫn có hiệu lực. Theo quy định tại Điều 308 Luật thương mại 2005: “ Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện hợp đồng; 2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng”. Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng trong kinh doanh. Khi hợp đồng trong kinh doanh bị đình chỉ thực hiện hợp đồng chấm dứt hiệu lực từ thời điểm một bên nhận được thông báo đình chỉ. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ hợp đồng. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng. Theo quy định tại Điều 310 Luật thương mại 2005: “Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây: 1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều ki

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu các chế tài trong thương mại theo quy định Luật thương mại 2005.doc