Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu thường phân ra ba hình thức gây cười, đúng ra là ba mức độ thể hiện nội dung của những tiếng cười.
Một là tiếng cười khôi hài, không có ý chế giễu ai: Kho tàng văn học trào lộng của chúng ta có khá nhiều loại truyện này ( tay ải tay ai, Cháy, ) Những tiếng cừơi ở đây đều ít sâu sắc, cười xoà xong thôi, hay nhằm vào những sai sót thường tình của con người, do ngẫu nhiên, vô ý hay do vụng về thô lậu mà ra, mang tính chất múa vui giải trí, thường gọi là cái cười thông tục.
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1719 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu về phong cách báo chí hài hước của Lý Sinh Sự, Lê Thị Liên Hoan và Thảo Hảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, ....
Các Mác, Ph. Ăng ghen, V.I. Lênin – Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân thế giới, bên cạnh những tác phẩm khoa học, chính trị lớn của mình, cũng đã sử dụng tiểu phẩm báo chí như vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù giai cấp.
Ở nước ta, do báo chí hình thành và phát triển chậm nên tiểu phẩm cũng ra đời muộn hơn so với các nước phương Tây. Vào những năm 20, tiểu phẩm đã bắt đầu xuất hiện trên mặt báo, tuy nhiên không nhiều và chưa tạo được sự chú ý của dư luận xã hội. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ hai mặt.
Thứ nhất, các sản phẩm báo chí còn qúa ít trong khi trình độ văn hoá của cư dân còn thấp nên ảnh hưởng của báo chí trong xã hội rất hạn chế.
Thứ hai, chế độ thống trị hà khắc của bọn thực dân, phong kiến phản động cùng lưỡi kéo kiểm duyệt của bộ máy thống trị đươnng thời không cho phép báo chí chĩa mũi nhọn đả kích vào chính quyền thực dân- phong kiến. Trên thực tế, có lẽ phải đến những năm 30 của thế kỷ này, khi mà báo chí công khai phát triển rầm rộ thì tiểu phẩm mới thực sự khẳng định vai trò, vị trí của mình là một thể loại báo chí có uy lực. Đặc biệt trong thời kỳ mặt trận dân chủ( 1936-1939) khi báo chí tiến bộ và cách mạng có điều kiện phát triển công khai, tiểu phẩm thực sự có đất để cắm rễ và nở rộ.
Trong giai đoạn này, tác giả tiểu phẩm để lại dấu ấn được biệt sâu đậm trên mặt báo trong nước là Ngô Tất Tố(1892- 1954). Có thể nói, các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố làm thành một bộ biên niên sử của giai đoạn này, trong đó phản ánh đầy đủ những biến cố chính trị quan trọng, phơi bày bộ mặt thật sinh động và cụ thể của đủ mặt những kẻ thực dân tồi tệ, những tên quan trường phong kiến thối nát.
Ở nước ngoài, đầu những năm 20, Hồ Chí Minh dưới bút danh Nguyễn ái Quốc đã viết một loạt tiểu phẩm bằng tiếng Pháp, đăng tải trên tờ Người Cùng khổ do Người sáng lập và tờ Nhân đạo, cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Pháp. Đó là các tiểu phẩm: Thù ghét chủng tộc, Sở thích đặc biệt, Chế độ nô lệ “hiện đại hoá”,.... Hồ Chí Minh trở thành cây bút bậc thầy về thể loại này. Hàng trăm tiểu phẩm mẫu mực của Người dưới nhiều bút danh, đăng trên các báo. Trên các mặt báo, một số tác giả viết tiểu phẩm khá nổi tiếng, được nhiều người biết đến như: Xích Điểu, Hương Xuân, Lê Kim, Hữu Thọ,...
Có thể nói rằng, trong báo chí, tiểu phẩm có dung lượng nhỏ và tần số xuất hiện ít hơn so với các thể loại: Tin, Phóng sự, Bình luận,... nhưng với sự ra đời và phát triển của mình, tiểu phẩm khẳng định vai trò là một vũ khí sắc bén vạch mặt, đấu tranh với kẻ thù chính trị, là một phương tiện có tác dụng tự phê bình, phê bình, chỉ cho xã hội thấy những khía cạnh chủ yếu của từng sự việc xấu cản trở quá trình tiến triển của xã hội, góp phần bồi dưỡng cái tốt đẹp và tích cực.
Tiểu phẩm báo chí hay tiểu phẩm văn học?
Tiểu phẩm là một thể loại có lịch sử khá lâu, có vị trí không kém phần quan trọng trong mối tương quan chung với các thể loại báo chí khác. Tuy nhiên, sự khái quát lý luận về thể loại này lại chậm. ở Liên Xô, đầu những năm 1930, tiểu phẩm chưa được coi là một thể loại báo chí. Mi- kha –in Cam – sốp- một nhà báo Xô Viết nổi tiếng đã nhìn nhận tiểu phẩm bên ngoài khuôn khổ của một thể loại. Ông coi tiểu phẩm có thể là ký, thơ châm biếm... nằm trong loại tác phẩm chính luận. Chỉ đến cuối những năm 50 của thế kỷ này, báo chí Xô -Viết mới chính thức thừa nhận tiểu phẩm là một thể loại báo chí đặc biệt trong bảng phân loại- thể loại tác phẩm mang tính châm biếm.
Đối với nước ta, tình hình nghiên cứu về tiểu phẩm nằm trong tình trạng chung là chưa phát triển. Hiện nay chưa có một công trình nào nghiên cứu và đánh giá một cách đầy đủ về tiểu phẩm. Các ý kiến về tiểu phẩm nằm rải rác trong một số tác phẩm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu văn học, các nhà nghiên cứu báo chí hoặc trong những phát biểu của các nhà báo có kinh nghiệm đăng tải trên các tờ báo, tạp chí. Nói chung các ý kiến, nhận định đã nhìn nhận một số đặc trưng khá cơ bản của thể loại này, song còn phiến diện hoặc chưa rõ ràng, đầy đủ.
Từ góc độ báo chí, xưa nay tiểu phẩm chỉ sử dụng mà ít được xem xét, đánh giá. Rất ít nhà báo phát biểu ý kiến về thể loại này. Xích Điểu, với kinh nghiệmcủa một nhà báo viết tiểu phẩm báo chí được đông đảo người đọc biết đến đã nhận xét như sau: “ Là thể loại vừa cho phép phát triển tính chất điển hình của văn học, vừa mang tính chất chân thật, khoa học và kịp thời của báo chí, tiểu phẩm vốn mang một tính chiến đấu cao, có khả năng vạch bản chất tàn bạo của kẻ thù một cách trực tiếp sâu cay và châm biếmlàm cho người đọc vừa căm thù vừa khinh ghét cười vào mũi chúng”( Nhiều tác giả. Tập nghiên cứu bình luận chọn lọc về thơ văn Hồ Chủ tịch, Nxb. Giáo dục, H., 1978, tr.289). Khi nói đến tác phẩm “ Bản án chế độ Thực dân Pháp” của Hồ Chí Minh, tác giả viết: “ Có thể nói cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản tại Paris năm 1925 là một thiên tiểu phẩm dài” hay nói đúng hơn, là một tác phẩm gồm nhiều bài được sắp xếp theo một chủ đề thống nhất”.
Như vậy, theo ý kiến của Xích Điểu, cả về nội dung và phương pháp thể hiện, tiểu phẩm đều mang tính chất đặc trưng của tác phẩm báo chí. Nhưng tiểu phẩm cũng cho phép phát triển phương pháp điển hình trong sáng tạo văn học. Tính chất điển hình hoá của tiểu phẩm không được tạo nên do hư cấu mà nó được hình thành theo quy luật sáng tạo của nhà báo, nghĩa là qua sự chọn lọc, phân tích khách quan những sự kiện, vấn đề có thực trong cuộc sống để phản ánh trong tác phẩm trên cơ sở ưu tiên nội dung chính trị, tư tưởng. “ Khả năng” cũng như là mục đích của tiểu phẩm là phê phán, châm biếm kẻ thù.Nếu coi tiểu phẩm báo chí có những đặc điểm trên thì việc xếp “Bản án chế độ thực dân Pháp” vào thể loại tiểu phẩmlà hợp lý.
Một vấn đề đặt ra là có hay không ranh giới giữa tiểu phẩm báo chí và tiểu phẩm văn học. Như đã nhắc đến ở trên, không riêng gì tiểu phẩm mà “ nguồn gốc việc dùng các thể loại báo chí khác nhau và sự phong phú ngày càng lớn trong các thể loại là dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội nhiều mặt, căn cứ vào khả năng mỗi ngày một lớn hơn và căn cứ trên các nhiệm vụ nhiều mặt được giao phó cho báo chí. Lịch sử phát sinh của bất kỳ thể loại báo chí nào cũng đều chứng minh” ( Các thể tài báo chí, T2, Hội nhà báo Việt Nam, H, 1977, tr.4). Tất nhiên, mỗi thể loại tác phẩm báo chí ra đời đều tiếp thu những yếu tố tích cực, có lợi trong nền văn hoá để làm tăng khả năng thông tin hiệu quả của nó.Tiểu phẩm báo chí trong quá trình ra đời vận động, cũng tiếp thu các yếu tố, thủ pháp châm biếm, giễu cợt của văn học và văn hoá dân tộc. Điều đó không có nghĩa là trước khi tiểu phẩm báo chí ra đời đã có tiểu phẩm văn học mà thực tế chỉ có những yếu tố mầm mống của tiểu phẩm báo chí.
Mặt khác, với tính cách là một thể loại tác phẩm, lịch sử ra đời, phát triển của tiểu phẩm gắn liền với báo chí, nằm trong sự vận động của báo chí. Tiểu phẩm ra đời do yêu cầu xã hội và do yêu cầu mà những nhiệm vụ của báo chí đặt ra. Quy luật sáng tạo của tiểu phẩm nằm trong quy luật chung của báo chí: Phản ánh khách quan, trực tiếp các sự kiện, vấn đề của đời sống xã hội hiện thời, ưu tiên nội dung chính trị, tư tưởng, thời sự. Tiểu phẩm phản ánh trực diện, cụ thể, chân thực sự kiện, vấn đề trong xã hội một cách khách quan, không thông qua hư cấu văn học- nghệ thuật. Hơn nữa, dù nhà văn hay nhà báo đều viết tiểu phẩm theo yêu cầu “ đơn đặt hàng” của báo chí.Hỗu như, không có tiểu phẩm nào không được bắt đầu số phận của mình bằng sự có mặt trên mặt báo, tạp chí.
Như vậy, rõ ràng là không có lý do tồn tại ranh giới giữa “ tiểu phẩm báo chí” và “tiểu phẩm văn học”, mà chỉ có một “ thể loại được gọi với những tên khác nhau : “ Tiểu phẩm”, “ Tiểu phẩm báo chí”, “ Tiểu phẩm văn học” và tính chất, mức độ, khả năng biểu hiện khác nhau của mỗi tiểu phẩm. Tính nghệ thuật trong tiểu phẩm được biểu hiện như khả năng vận dụng những thủ pháp trong xây dựng văn bản, trong việc tổ chức lô gic các chi tiết để tạo ra tiếng cười châm biếm. Sẽ là nhầm lẫn nếu đồng nhất tính nghệ thuật trong tiểu phẩmvới việc hư cấu để tạo ra hình tượng nghệ thuật. Nói cách khác, “điển hình trong văn tiểu phẩm khác với điển hình trong kịch, truyện, tiểu thuyết”. Đó chính là bắt đầu sự lựa chọn, phát hiện ra cho được sự kiện, vấn đề, chi tiết cuộc sống có tính tiêu biểu về mặt tiêu cực để vạch mặt, lên án nhằm hướng tới những điều tốt đẹp. Vấn đề tiếp theo mới là nghệ thuật thể hiện. Vai trò quyết định của tiểu phẩm báo chí phải là nội dung chính trị tư tưởng và tính thời sự nóng hổi, thời gian sáng tạo của nhà báo được tính bằng giờ, phút chứ không tính bằng năm, tháng như nhà văn.Tất nhiên, nội dung chính trị tư tưởng muốn tác động có hiệu quả đến xã hội phải thông qua nghệ thuật thể hiện. Vì thế, nghệ thuật thể hiện mới có vai trò quan trọng của nó.
Châm biếm- đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm
Trong báo chí, người ta căn cứ vào 3 tiêu chí sau đây để phân loại các tác phẩm và phân biệt sự khác nhau giữa các thể loại. Đó là:
Đối tượng phản ánh;
Mục đích, nhiệm vụ;
Phương pháp phản ánh, phương tiện sáng tạo.
Tính chất khác biệt của mỗi thể loại báo chí không phải do một trong những đặc điểm này mà do ở toàn bộ những đặc điểm trên. Xét về khung thời gian, đối tượng phản ánh của báo chí hẹp hơn nhiều so với đối tượng phản ánh của văn học. Nếu trong văn học, người ta có thể viết tiểu thuyết lịch sử, truyện viễn tưởng thì trong báo chí, quá khứ chỉ là bối cảnh cho cái thời sự và tương lai là xu hướng vận động trên những cơ sở có thực của hiện tại. Cái cơ bản, trọng yếu nhất của báo chí là cái hiện thời, cụ thể có tính thời sự, thời cuộc, trong đó nội dung chính trị tư tưởng được ưu tiên.
Cũng như các thể loại tác phẩm báo chí khác, đối tượng phản ánh của tiểu phẩm báo chí là hiện thực đời sống xã hội đương thời nhưng hiện thực ấy thu hẹp lại trong phạm vi cái xấu của kẻ thù và cái xấu của nội bộ xã hội, dân tộc. Chúng ta thấy đối tượng phản ánh trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố rất phong phú. Nó bao gồm những cái xấu của chế độ thực dân, phong kiến thời kỳ trước năm 1945 với sự độc ác, ích kỷ của bọn thực dân Pháp, sự hèn đớn, ngu muội, dốt nát của bọn phong kiến bán nước hại dân, những hủ tục mê tín dị đoan, thói ham tiền, ham danh vọng, ham địa vị, bán rẻ nhân phẩm của một số kẻ dại dột, lạc hậu, cả tin phản dân tộc trong nội bộ nhân dân. .. Trong tiểu phẩm của mình, Hồ Chí Minh tập trung ngọn đòn chính về phía kẻ thù dân tộc, bọn thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Qua những cái xấu cụ thể biểu hiện trong những sự kiện sinh động của kẻ thù, bằng ngòi bút châm biếm sâu cay, người vạch trần bản chất phản động, dối trá, vô nhân đạo của chúng. Tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, Ngô Tất Tố, ... đều là một thể loại châm biếm, tạo nên tiếng cười( tiếng cười hiểu theo cả nghĩa bóng). Nhưng sẽ sai lầm nếu cho rằng nhiệm vụ, mục đích của tiểu phẩm chỉ là gây cười. Bản thân cái cười có nhiềun cung bậc, nhiều khía cạnh và nảy sinh trong nhiều điều kiện cụ thể khác nhau. Trong dân gian nói: “ 36 điệu cười” là để chỉ sự phong phú, sinh động của cười. Trên thực tế, cái cười sinh động, phong phú hơn nhiều con số 36. Cười có khi chỉ là kết quả sự đùa vui, không ác ý như kiểu “ chồng còng mà lấy vợ còng, nằm phản thì chật nằm nong thì vừa”. Nhưng có tiếng cừơi biểu thị sự phản kháng, sự căm ghét. Thậm chí “ cái cười nhiều khi có sức mạnh giết người”. Lu – na- sác – xki đã nhận xét “ Cười là một vũ khí quan trọng của kỷ luật xã hội thuộc một giai cấp nhất định hoặc là một hình thức gây áp lực của một giai cấp này đối với một giai cấp khác”. ở một khía cạnh khái quát có tính lịch sử, nói như Xích Điểu “ tiếng cười là yêu cầu của cuộc sống đang vươn lên. Vì thế con người đưa đám một hình thái xã hội của họ không phải bằng những điệu kèn lâm khốc bi ai, mà bằng những tiếng cười vui vẻ”. Tiếng cười châm biếm, phê phán trong tiểu phẩm cũng là tiếng cừơi như thế, tiếng cười tỉnh táo, có phân biệt đối xử, tiếng cười của kẻ mạnh, tiếng cười có nhiều cung bậc, ý nghĩa khác nhau.
Khi đề cập đến những cái xấu, lạc hậu, lỗi thời trong nội bộ dân tộc, nội bộ đất nước, “ cười là vũ khí quan trọng của kỷ luật xã hội”.Nó là sự phê bình những cái xấu, cái hạn chế nhằm mục đích xây dựng, phát triển cái mới, cái đẹp làm cho xã hội ngày càng tốt hơn.
Đối với kẻ thù, cười trong tiểu phẩm thuộc về những cung bậc khác. Đó là cười sâu cay, tiếng cười phê phán để đánh đổ, tiêu diệt cái ác. Tiếng cười ấy, chính là “ hình thức gây áp lực của giai cấp này với giai cấp khác”, của một dân tộc đối với kẻ thù đang dày xéo lên Tổ quốc thân yêu. Ngọn đòn của tiểu phẩm phơi trần bản chất kẻ thù ở nhữnh khía cạnh xấu xa nhất, phản động nhất qua những sự kiện, vấn đề thời sự sinh động không thể chối cãi. ở thế của kẻ mạnh, là vũ khí của kẻ mạnh, tiếng cười khi cất lên chứa đựng sự khinh bỉ, dấy lên sự phẫn nộ, căm thù, lúc lại lắng xuống châm biếm sâu cay, chứng minh sự diệt vong tất yếu của kẻ thù.
Thậm chí có những tiểu phẩm không thể gây cười khi đề cập đến những mâu thuẫn nào đó trong nội bộ nhân dân, nội bộ kẻ thù và buộc người đọc phải suy nghĩ đến những vấn đề sâu xa.
Nói chung, trong mỗi tiểu phẩm, người viết đều sử dụng vũ khí là tiếng cười. Việc tạo ra tiếng cười châm biếm trong tiểu phẩm báo chí là cả một nghệ thuật. Về cơ bản, nghệ thuật gây cười trong tác phẩm dựa vào việc thiết lập nên những mối quan hệ mâu thuẫn, những liên hệ bất ngờ, những tình huống éo le với nhiều tầng lớp nghĩa, nhiều cách hiểu không cùng chiều. Nhưng trong nhiều từng trường hợp, tính chất của cái cười đó khác nhau, nó luôn là biện pháp thể hiện ý đồ của tác giả, thể hiện thái độ của tác giả đối với cái ác, cái xấu đã được phản ánh và lên án. Hơn nữa, tính chất, liều lượng của cái cười tạo nên trong tiểu phẩm báo chí phụ thuộc rất nhiều vào tài năng, đôi khi vào những phẩm chất cá nhân thuần tuý năng khiếu của tác giả.
Một đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm là sự kết hợp giữa những phương pháp thể hiện của báo chí và thủ pháp nghệ thuật của văn học, giữa ngôn ngữ thông tin chính luận với ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật. Sự kết hợp này rất phong phú, sinh động tuỳ theo tài liệu về sự kiện khách quan và tài năng của người viết. Tất nhiên, khả năng và mức độ sự kết hợp này cũng nằm trong phạm vi khống chế của những quy luật sáng tạo trong báo chí là ưu tiên nội dung chính trị tư tưởng, đáp ứng kịp thời yêu cầu thông tin của xã hội do những nhiệm vụ chính trị – xã hội đặt ra, tôn trọng hoàn toàn tính chân thật khách quan của sự kiện. Trong các tiểu phẩm của Hồ Chí Minh, Ngô Tất Tố, Xích Điểu,... đều có sự kết hợp rất linh hoạt giữa các yếu tố của chính luận, tự sự, thông tin và thơ ca, hò vè, ca dao, dân ca,... Đôi khi, trong các tiểu phẩm còn có hình thức đối thoại của kịch bản sân khấu, hình thức điểm tin thời sự có sự so sánh, đối lập tạo ra mâu thuẫn. Với một nội dung rất nhỏ so với các thể loại ký, phóng sự, tường thuật,... nhưng vốn từ sử dụng trong tiểu phẩm rất phong phú.
Từ sự phân tích trên, có thể kết luận: Tiểu phẩm báo chí là một thể loại châm biếm có tính chiến đấu cao, kết hợp sinh động giữa nội dung và phương pháp thể hiện của báo chí với các thủ pháp nghệ thuật văn học, sử dụng vũ khí là tiếng cười, nhằm biểu thị thái độ đối với cái xấu của nội bộ xã hội và kẻ thù đã được phản ánh chân thật và vạch trần bản chất.
Cho nên- nói như Xích Điểu- “ Việc Bác Hồ của chúng ta cũng đã nắm lấy vũ khí sắc bén này từ những ngày đầu hoạt động cách mạng không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên”.
Tiểu phẩm trên báo chí
a, Quan niệm của Trần Quang (trong cuốn Làm báo – Lý thuyết và thực hành. Nxb.ĐHQG,HN.,2000): Tiểu phẩm đả kích và châm biếm là hai thể loại. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau:
Đả kích: Là một hình thức phê bình, được xác định trong sự huỷ bỏ. Nó là một tác phẩm trào phúng nghệ thuật- chính luận vạch trần quan điểm thù địch chính trị, thù địch về hành động, tâm lý, tư tưỏng.
Trong văn đả kích, sự phê phán thường mang tính chất vạch mặt, chế nhạo, phán xét các đại diện tiêu biểu của một phe phái chính trị tư tưởng nào đó.
Bài phân tích thể hiện sự kiên quyết, hăng say của giọng văn mà trong đó được sử dụnh rộng rãi sự mỉa mai, châm biếm sâu cay, và thủ pháp lố bịch.
Đả kích có phạm vi, quy mô nhằm mục đích bắn vào hệ thống các quan điểm, vạch trần cái cốt lõi trong chính sách của kẻ thù, trong quan điểm tư tưởng, trong phương pháp hành động của chúng.
Châm biếm: Không đòi hỏi đến sự huỷ bỏ. Đối tượng khách quan của bài châm biếm là người có khuyết điểm nhưng không nhất định là kẻ thù tư tưởng, chính trị.
Châm biếm thường liên hệ đến các sự kiện sẵn có. Tác giả làm rõ bản chất của sự kiện hay sự việc đó, ý nghĩa của nó như là biểu hiện của cái chung trong cái riêng, như một mắt xích trong dây chuyền của chính sách phản động, hệ tư tưởng phản động.
Cho nên, sự khác nhau giữa đả kích và châm biếm chính là ở tính chất của đối tượng khách quan được nhắc tới. Và mục đích phê phán từ tính chất của đối tượng phản ánh.
Ví dụ: Nguyễn Aí Quốc đã sử dụng ăn đả kích như một vũ khí lợi hại nhất để tấn công chủ nghĩa thực dân pháp và bù nhìn An Nam của chúng, như các bài: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Sở thích đặc biệt, Vi hành, Không phải chuyện đùa, Con rùa,...
Vấn đề đặt ra cho công tác nghiên cứu lý luận về các thể loại trào phúng hiện nay là phân biệt văn châm biếm và văn đả kích. Chúng ta đã nói đến đối tượng phản ánh của đả kích và châm biếm như là những đặc điểm khác nhau của hai loại bài: Kẻ thù tư tưởng là đối tượng của đả kích, khuyết điểm của đồng bào mình là đối tượng của châm biếm. Vậy thì những đề tài nội bộ có thể là đối tượng của đả kích hay không? Ví dụ như tội tham nhũng, ăn hối lộ và vô trách nhiệm để mất tài sản của nhà nước,... có nên coi là hiện tượng cần tiêu diệt khi mà nó đã trở thành quốc nạn? Có thể trả lời ngay là rất cần. Vậy thì cần bổ sung đặc điểm gì cho tác phẩm trào phúng về đề tài nội bộ để chúng thực hiện được chức năng của bài văn đả kích? Điều này liên quan đến thái độ của tác giả đối với cái xấu được thể hiện qua phương tiện ngôn ngữ. Đối với những kẻ có tội tham nhũng nặng, người viết bài trào phúng không thể có thái độ thân thiện và những lời châm biếm nhẹ nhàng theo kiểu nhắc nhở, khuyên răn. Cần biểu thị sự căm ghét và ngôn ngữ tác phẩm phải như những ngọn giáo lách vào tận tim gan của chúng. Chỉ có lúc đó những tác phẩm trào phúng mới thực hiện được chức năng đặc biệt của bài văn đả kích hướng đến đề tài nội bộ. Điều quan trọng là với chức năng đặc biệt của bài văn đả kích, tác giả cần thể hiện dứt khoát trước cái xấu, cần xác địng rằng chúng không thể cùng tồn tại trong cộng đồng. Bằng cách đó, tự tác giả sẽ tìm ra phương pháp phê phán thích hợp. Điều đó được thể hiện qua tính lô gíc của cấu trúc bên trong của tác phẩm và phương pháp hình thành dư luận. Tạo nên sự căm phẫn của công chúng với cái xấu nhưng đồng thời phải giữ được những chuẩn mực văn hoá cuả ngôn từ, có nghĩa là không thể vì căm ghét cái xấu mà chửi bới tục tằn, thiếu văn hoá trong ứng xử.
Để chống lại mọi cái hủ lậu, lỗi thời, văn trào phúng chỉ vạch trần, tố cáo những người có thói xấu thì chưa đủ. Điều quan trọng là chỉ ra được bản chất của cái xấu như là một hiện tượng tha hoá, thù địch về mặt xã hội. Cần phải chỉ ra rằng những kẻ xấu, mặc dù không muốn, họ đều làm hại cho Tổ quốc, nhân dân. Những tư tưởng này là kết luận trong một bài châm biếm. Chúng thể hiện cả trong bài đả kích, cho phép tạo nên hình tượng trào phúng của cái xấu trong đời sống xã hội.
Bài đả kích phải vạch trần được bản chất của cái xấu, chứng minh sự công bằng mà bản án nhân dân dành cho nó.
Theo quan điểm của PGS. TS. Dương Xuân Sơn: Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ở nhóm chính luận – nghệ thuật, mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm, đả kích, hài hước về một sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát, qua đó tác giả thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó.
Cũng theo tác giả này, tiểu phẩm mang một số đặc điểm như: Tính trào phúng, đả kích, châm biếm, có chất hài và tính hài kịch.
Xem xét dưới góc độ tổng hợp như vậy, tiểu phẩm trên báo chí là một thể loại lợi hại trong việc tác động vào công chúng làm thay đổi nhận thức và hành vi theo hướng tích cực.
Tác phẩm báo chí viết theo phong cách của một tiểu phẩm hài hước và những tác động đối với xã hội dưới góc nhìn truyền thông báo chí
( Trong phần này trình bày về những mặt ưu điểm và hạn chế của tiểu phẩm báo chí với tư cách là một thể loại đang phát triển hên nay. Đồng thời phân tích ví dụ đại diện để thấy sức mạnh tác động của nó đối với xã hội. Việc phân tích trên cơ sở những lý luận về truyền thông báo chí soi rọi vào các tác phẩm cụ thể)
Trong xã hội hiện nay, sức mạnh tác động của báo chí đối với công chúng ngày càng mạnh. Báo chí không ngừng sáng tạo, tìm ra những lối đi riêng, mới cho cách thể hiện thông tin báo chí vừa thời sự vừa tác động sâu rộng, hiệu quả đến công chúng. Trong đó có một thể loại tiểu phẩm báo chí đang tỏ ra rất lợi thế trong việc sáng tạo các tác phẩm báo chí vừa đậm chất thời sự mà lại uyển chuyển linh hoạt, tấn công sắc bén vào nhận thức của công chúng, vào xã hội.
Bước đầu tìm hiểu tiếng cười trong chèo cổ. Trần Việt Ngữ- Hoàng Kiều. Nxb. KHXH, H., 1967:
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống bất khuất và truyền thống lạc quan lâu đời. Mặc dầu cuộc sống trước kia đầy khổ cực, nhọc nhằn, người dân ta, đặc biệt nông dân, vẫn ít khi dứt tiếng cười trên môi. Điều đó đã tạo nên cả một dòng văn học trào lộng, chủ yếu là dòng văn học trào lộng dân gian vô cùng phong phú, súc tích, xưa nay rất đựơc mọi người ưa thích.
Nói về văn học trào lộng thì nước nào cũng có, nhưng sự biểu hiện vấn đề bằng tiếng cười trên những mức độ và hình thái khác nhau thì văn học trào lộng của ta có những điểm độc đáo riêng biệt. Và trong văn học trào lộng của dân tộc, tiếng cười trong chèo cổ lại có những nét đáng lưu ý.
Trước hết, xin bàn đến khái niệm về tiếng cười.
Cười là một đặc tính của người. Dân ta có câu:
Con người có miệng có môi
Khi buồn thì khóc, khi vui thì cười.
Tiếng cười và tiếng khóc biểu hiện một phần cái phong phú trong tâm hồn mỗi người. Bình thường thì tiếng khóc là do đau khổ, uất ức, tiếng cười do thích thú, thoả mãn mà ra. Nhưng nhiều khi nguyên nhân của tiếng cười tiếng khóc lại không hẳn thế. Nói như Nguyễn Công Trứ: “ Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười”. Hay Rabơle( nhà văn Pháp, người đại diện chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng): “ Đời là một hài kịch đối với người biết nghĩ và bi kịch đối với người biết cảm”. Hoặc như một số nho sỹ thường hay ngâm nga: “ Cười như cậu khoá hỏng thi,
Khóc như cô ả ngày đi lấy chồng”.
Do đó, có tiếng cười vì vui sướng và có tiếng cười vì đau khổ, cười ra nước mắt, có tiếng khóc vì sầu thương, lại có tiếng khóc vì hân hoan, khóc nên tiếng cười.
Những học giả tâm sinh lý cổ kim thường phân biệt hai loại cười:
+ Tiếng cười do bị ngoại vật kích động (bị cù, gãi vào chỗ buồn, bị bệnh thần kinh,…), phát ra do sự phản ứng của cơ thể, mang tên tiếng cười sinh lý. Loại này tuy có khi do nguyên nhân xã hội nào đó gây ra ( như quá suy nghĩ uất ức vì gặp phải điều gì bất như ý…) nhưng vì bản thân chưa mang ý nghĩa xã hội, nên thuộc phạm vi các nhà y học phân tích mổ xẻ.
Tiếng cừơi phát sinh do những mâu thuẫn xã hội, những hiện tượng trái khoáy, không phù hợp với quy luật tự nhiên, với nhịp điệu cuộc sống hiện thực sinh động, thì mang tên tiếng cười tâm lý. Loại này thường gắn liền với một mục đích nhất định và mang nhiều ý nghĩa xã hội, nên rất được các nhà mỹ học lưu tâm.
Nguyên nhân của tiếng cười tâm lý là do con người nhận thức bằng phương pháp trào lộng mối mâu thuẫn của sự vật, hoặc giữa bản chất với hành động, giữa nguyên nhân với kết quả, giữa nội dung với hình thức, giữa hoàn cảnh và hiện tượng… Nói theo các nhà mỹ học xưa nay, thì tiếng cười phát sinh là do mối mâu thuẫn giữa “ cái rỗng tuếch bên trong với cái bề ngoài cố làm ra có ý nghĩa”; “ giữa hình tượng và tư tưởng”; giữa cái không có lý và cái có lý”; giữa cái xấu và cái đẹp”; “ giữa cái tầm thường và cái cao quý”; “ giữa cái máy móc và cái sinh động”; “ giữa sự chân thật và điều dối trá”;…
Cũng không phải tất cả mâu thuẫn đều làm phát sinh được tiếng cười, mà phải là những mâu thuẫn mang ít nhiều yếu tố gây ra sự bất ngờ, sự ngạc nhiên, sự chờ đợi cho người xem, người đọc, mới có khả năng làm bật tiếng cười. Con người phải kiếm đủ cách để thích nghi với mọi hoàn cảnh tự nhiên và xã hội mới có thể sinh tồn. Do đó, họ phải tìm hiểu mọi quy luật phát triển của hiện tượng, của sự vật, tìm hiểu mối tương quan giữa chúng với nhau, giữa chúng với con người, rồi cùng với bao kinh nghiệm truyền đời đúc kết từ thực tiễn phong phú khe khắt, mà phán đoán phân tích, rút ra những nguyên tắc làm kim chỉ nam hướng dẫn con người suy nghĩ và hành động. Những nguyên tắc đó chi phối mọi mặt tinh thần và vật chất của cuộc sống. Tất cả những gì mâu thuẫn với quy luật ấy đều có thể làm cơ sở phát sinh tiếng cười.
….
Có những mâu thuẫn tuy mang ít nhiều tính bất ngờ, nhưng do thế đứng và cảm xúc thẩm mỹ của người được chứng kiến, do gặp hoàn cảnh và đối tượng không thích đáng, cũng không làm bật ra tiếng cười. Nhìn một người tử tế, tươm tất sạch sẽ, đi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LBC 16.doc