MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Kết cấu của đề tài 5
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN CƠ BẢN VỀ BẠO LỰC ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRONG GIA ĐÌNH 6
1.1. Một số khái niệm 6
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bình đẳng giới 12
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giải phóng phụ nữ và thực hiện nam nữ bình đẳng 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ( 2005 - 2010) 20
2.1. Khái quát về địa lý tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Sơn La 20
2.2. Thực trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La 23
2.3. Hậu quả và nguyên nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La 35
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG BẠO LỰC TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI PHỤ NỮ Ở TỈNH SƠN LA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 43
3.1. Phương hướng nhằm ngăn chặn bạo lực gia đình đối với phụ nữ 43
3.2. Những giải pháp và kiến nghị nhằm ngăn chặn bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La trong giai đoạn hiện nay 46
KẾT LUẬN 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
70 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7806 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i các nguyên nhân: rượu chè, ngoại tình, cờ bạc...
Bạo lực gia đình không chỉ xảy ra ở vùng sâu, vùng xa với những người có trình độ học vấn thấp mà còn ở thành phố, trong những gia đình có học vấn cao, có địa vị xã hội. Ngay tại địa bàn Thành phố, năm 2010 có 67 vụ án hôn nhân gia đình thì có đến 54 vụ án do bạo lực gia đình gây ra. Còn ở địa bàn các huyện là 571 vụ... [31; 1]. Tuy nhiên con số này chưa hẳn đã phản ánh đúng thực tế. Nhiều trường hợp các nạn nhân che giấu, âm thầm chịu đựng; một số bị đánh đập quá mức thì chỉ đến tâm sự với cán bộ cơ sở, không muốn công khai.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn của các gia đình nhưng nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này vẫn là do mâu thuẫn gia đình và tệ đánh đập ngược đãi. Trong đó phụ nữ luôn là người gánh chịu hậu quả. TS. Hoàng Bá Thịnh (Trung tâm nghiên cứu giới gia đình và môi trường trong phát triển) cho rằng: “Bạo lực gia đình là một hiện tượng xã hội, nó chịu sự tác động của nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau... Điều dễ nhận thấy là, bạo lực giới trong gia đình có xu hướng phổ biến hơn ở các cộng đồng có mức sống và dân trí thấp, hoặc tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn nặng nề” [30; 65].
Sơn La với đặc điểm là một tỉnh miền núi nghèo nàn lạc hậu với hơn 80% là dân tộc. Mấy năm gần đây mới bắt đầu phát triển công nghiệp. Chính vì vậy trình độ dân trí còn rất thấp, bên cạnh đó còn chịu ảnh hưởng của truyền thống xưa, tập tục lạc hậu vẫn ăn sâu bám rễ trong tư tưởng mỗi người nơi đây nên việc nhận thức về bạo lực trong gia đình chưa đúng đắn.
Theo nghiên cứu mới nhất ở Huyện Mộc Châu (2006): Các cuộc thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu cho thấy phần lớn người dân đều không có nhận thức rõ ràng về bạo lực gia đình, khái niệm bạo lực chưa được nghe nói đến hoặc ở mức độ rất mơ hồ. Theo kết quả khảo sát phiếu điều tra hộ gia đình, có tới 63,3% số người được hỏi chưa bao giờ nghe nói tới bạo lực gia đình và 36,8% đã được nghe nói nhưng hiểu biết rất mơ hồ [10; 10].
Trên thực tế thông tin về bạo lực gia đình đối với người dân, đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa chủ yếu qua các cuộc họp tổ, xã, và do chính quyền cơ sở cung cấp. Phần lớn các hộ gia đình người dân không có các phương tiện nghe nhìn. Việc triển khai các chính sách, đường lối, thực hiện chủ trương pháp luật của nhà nước chủ yếu dựa vào đội ngũ cán bộ cơ sở. Tuy nhiên, trình độ nhận thức của đội ngũ cán bộ cơ sở còn rất hạn chế. Với cách nghĩ đơn giản, nhiều chị em phụ nữ chấp nhận những hành vi thô bạo của các ông chồng với quan điểm cho rằng “phải biết thông cảm”, chỉ có một số hành vi được xác định khá rõ là hành vi bạo lực gia đình như đánh đập, chửi mắng. Còn những người nam giới lại có xu hướng phủ nhận tình trạng bạo lực gia đình tại địa phương hay gia đình như: Một nhóm nam ở huyện Mai Sơn đã nhận xét: cả nhóm người ngồi đây chỉ trừ một anh thôi còn tất cả đều đã từng đánh vợ. Đánh không nặng đâu chỉ tát tai hoặc đấm vài cái. Chuyện ấy thì quá bình thường, ở địa phương nhiều lắm.
Thông thường, người phụ nữ khi bị chồng đánh đập, chửi bới sẽ cam chịu, chờ đợi sự tỉnh ngộ của đức ông chồng, không muốn làm to chuyện vì quan niệm xấu chàng hổ ai… Chỉ có những trường hợp nào nghiêm trọng đến tính mạng thì lúc đó, chị em mới nói ra nỗi khổ nhục mình phải chịu. Theo như lời kể của lãnh đạo Huyện Phù Yên: Một năm có 6,7 vụ đánh vợ nghiêm trọng còn đấm tát thì nhiều. Có ông chồng nhốt vợ trong buồng khoá cửa không cho ra ngoài, có trường hợp vợ bị đánh nhưng không dám nói ra đến khi bị phát hiện thì mới nói.
Chẳng hạn như trường hợp của chị Lường Thị N thị trấn Thuận Châu là một người hiền lành chăm chỉ hết lòng vì chồng, vì con. Chồng chị là anh Lò Văn P lại là người hay uống rượu và mỗi khi say xỉn lại về nhà mắng chửi đánh đập vợ mình. Mặc dù vậy chị N vẫn cắn răng chịu đựng, thế nhưng chị càng nhịn thì chồng chị lại lấn tới và gần đây chị đã bị chồng đánh trọng thương phải vào viện điều trị và sau nhiều lần hai bên gia đình, tổ dân phố, toà án hoà giải nhưng chị N vẫn kiên quyết ly hôn.
Qua khảo sát thực tế cho thấy tình trạng bạo lực trong gia đình diễn ra phổ biến ở các gia đình dân tộc, với nhiều hình thức khác nhau. Ở cấp độ nguy hiểm nhất là tình trạng tự tử do mâu thuẫn gia đình, mâu thuẫn vợ chồng khá nhiều. Theo số liệu báo cáo của Toà án tỉnh Sơn La trong năm 2010 có tới 71 vụ tự tử. Trong đó số vụ tự tử liên quan đến mâu thuẫn gia đình là 58 vụ và phần lớn là ở người dân tộc (dân tộc H‘Mông là 23 vụ).
Đối với người dân tộc thiểu số, do phong tục tập quán lạc hậu, tuy tình trạng ly hôn không nhiều nhưng thực tế người vợ thường phải cam chịu và chấp nhận kể cả trong trường hợp người chồng rất vũ phu, đối xử tệ bạc, đã dẫn họ đến cái chết bằng cách tự tử. Vì vậy, số vụ tự tử liên quan đến bạo lực gia đình ở các dân tộc trên địa bàn tỉnh Sơn La là khá nhiều. Đó là trường hợp của chị Giàng Thị P sinh năm 1974, là cán bộ xã ở huyện Sốp Cộp ăn lá ngón tự tử năm 2005. Năm 2004 chị được giao kiêm nhiệm vụ công an viên của thôn. Công việc bận rộn ngày đi nương, đêm tranh thủ đi làm nhiệm vụ của thôn. Do nghi ngờ chị đi chơi ngoài (chơi trai) nên chồng chị thường xuyên có hành động mắng chửi, thậm chí còn cầm dao doạ giết vợ nếu bắt được quả tang. Chị P đã nhiều lần thanh minh nhưng chồng không tin. Do phẫn uất, chị đã ăn lá ngón tự tử, để lại một cháu gái 2 tuổi.
Trước thực trạng nêu trên, trong những năm qua Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh đã có nhiều giải pháp hữu hiệu nhằm giảm thiểu nạn bạo hành trong gia đình, về cơ bản đã trả lại những quyền tự do, bình đẳng cho chị em phụ nữ.
Hoạt động hoà giải: Công tác hoà giải ở cơ sở luôn được cấp hội phát huy có hiệu quả, với lực lượng trên 70% hòa giải viên ở cơ sở là phụ nữ, các chị đã chủ động, tích cực trong việc nắm tình hình, kịp thời thăm hỏi, tư vấn, góp ý các gia đình có nguy cơ xảy ra bạo lực gia đình nên đã góp phần ngăn chặn các vụ bạo lực gia đình trên địa bàn. Điển hình như: Gia đình anh Đức - chị Huyền (xã Chiềng Pấc huyện Thuận Châu) do anh Đức bị nghiện ma tuý lại cờ bạc, thường xuyên mang đồ đạc trong nhà đi bán, kinh tế gia đình sa sút, hay đánh đập vợ con mỗi khi anh đòi tiền không được. Chị Huyền đưa đơn ly hôn và bỏ về nhà mẹ đẻ ở. Biết được sự việc trên Hội phụ nữ xã Chiềng Pấc đã phối hợp với ban công an và ban tư pháp xã đến gặp anh Đức để động viên và thuyết phục nhiều lần. Sau gần 3 tháng động viên thuyết phục, anh Đức đã nhận ra khuyết điểm, tự nguyện đi cai tại trung tâm và đi đón mẹ con chị Huyền về. Đến nay, gia đình anh chị đã hoà thuận trở lại, anh Đức tu chí làm ăn và trở thành công dân tốt.
Công tác giải quyết đơn thư: Trong 6 năm các cấp Hội phụ nữ trong tỉnh đã nhận tổng số 1701 đơn có nội dung về hôn nhân và gia đình, nguyên nhân chủ yếu là do chồng cờ bạc, nghiện ma tuý, ngoại tình, về đánh đập, ruồng rẫy vợ con…Riêng bạo lực gia đình có 215 đơn, trong đó cấp tỉnh là 35 đơn, cấp huyện, thành, hội là 51 đơn và cấp cơ sở là 129 đơn. Hội phụ nữ đã trực tiếp giải quyết được 102 đơn, số còn lại được chuyển cho cơ quan pháp luật có thẩm quyền giải quyết. Tiêu biểu trong hoạt động này phải kể đến chi hội phụ nữ phường Chiềng Lề, phường Chiềng Sinh (Thành phố Sơn La). Trong vòng 6 năm qua đã làm tốt công tác hoà giải nên không có đơn vượt cấp. Tiêu biểu phải kể đến vụ ly hôn của anh Lò Pha Sản và chị Cầm Thị Thoa (phường Tô Hiệu, Thành phố Sơn La). Chồng chị luôn cờ bạc, ngoại tình về nhà lại hay đánh đập và xúc phạm đến danh dự của chị, và đòi ly hôn. Hội phụ nữ từ phường cho đến cơ sở đã 3 lần hoà giải mà không thành, Toà án nhân dân phường đã xử cho anh ly hôn. Do toà sơ thẩm xử án không đảm bảo quyền lợi chính đáng cho phụ nữ và trẻ em nên Hội phụ nữ phường đã đề nghị Hội phụ nữ tỉnh can thiệp, xem xét lại vụ việc trên, qua xác minh cụ thể, Hội phụ nữ tỉnh đã có văn bản đề nghị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, Toà án nhân dân tỉnh Sơn La xem xét giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi cho mẹ con chị Thoa. Kết quả Toà án nhân dân tỉnh đã xử bác đơn ly hôn của anh Sản. Đến nay hai vợ chồng anh chị đã đoàn tụ và anh Sản có những thay đổi lớn, đã cai rượu, không đi ngoại tình, chịu khó làm ăn.
Như vậy, bạo lực nhìn thấy được đối với phụ nữ trong gia đình ở Sơn La ngày càng có xu hướng gia tăng, nhưng việc nhận thức về nó, về vai trò của người phụ nữ chưa thực sự đúng đắn và đầy đủ.
Thứ hai: bạo lực không nhìn thấy được
Bạo lực không nhìn thấy được là những hành vi xúc phạm tâm lý, tình cảm, tinh thần…; nhìn bề ngoài khó phát hiện nhưng lại làm cho phụ nữ đau khổ về mặt tinh thần, tâm lý. Hay đay nghiến, chì triết do phụ nữ không làm ra tiền phải phụ thuộc vào chồng, phụ nữ bị bắt phải làm việc để có tiền cho chồng đánh bạc. Lúc vợ có lỗi lầm thì chửi bới vợ, hoặc sức khoẻ yếu không đáp ứng được nhu cầu tình dục…Dạng bạo lực này xuất phát từ sự phân công lao động bất hợp lý giữa nam và nữ trong gia đình. Hiện nay ở nhiều nước, đặc biệt là các nước phương Đông vẫn còn tồn tại quan điểm cho rằng: Phục vụ vô điều kiện cho chồng con nói riêng và nam giới nói chung là“chức năng” là“thiên hướng”, là sự “hy sinh” nhường nhịn của người phụ nữ trong gia đình. Quan điểm này xuất phát từ tư tưởng phụ quyền được phản ánh trong luật pháp phong kiến và chuyển thành phong tục tập quán hoà quyện vào đời sống xã hội từ hàng chục thế kỷ nay, như là một dạng đạo đức xã hội, một lối sống của nhân dân từ trong gia đình ra ngoài xã hội.
Ở các mức độ khác nhau, quan niệm này đã gán cho phụ nữ những trách nhiệm chính rất nặng nề trong các công việc tái sản xuất ra sức lao động (nội trợ, chăm sóc con cái và thành viên trong gia đình) trong khi họ là người thực hiện chính nhiệm vụ tái sản xuất sinh bọc ra con người (mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa của mình). Bên cạnh đó, phụ nữ vẫn thực hiện trách nhiệm lao động sản xuất như nam giới. Nhiều quan niệm sai lầm cho rằng, việc nội trợ là “thiên chức” của phụ nữ và họ không bằng lòng nếu như người phụ nữ nào không hoàn thành các thiên chức trên. Có lẽ họ đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu thiên chức ở đây là trời trao nghĩa là tạo hoá đã quy định là không thay đổi được. Đó là các chức năng (mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ) còn trách nhiệm nội trợ là “xã hội chức” nghĩa là xã hội trao cho phụ nữ và có thể thay đổi được. Tuy nhiên, cũng còn rất nhiều nam giới đã thực hiện hành vi bóc lột phụ nữ với những nguỵ biện về thiên chức. Đồng nghĩa với việc lao động quá sức, sự hưởng thụ của phụ nữ bị coi là thứ yếu, thậm chí không được tính đến.
Cách mạng tháng Tám đã thành công được 65 năm, ở khắp nơi, người ta hô hào về bình đẳng giới, trong từng điều kiện cụ thể, cuộc đấu tranh đòi quyền bình đẳng nam nữ đã được tiến hành mạnh mẽ trên các lĩnh vực luật pháp, gia đình và xã hội. Điều đó đã làm biến đổi về căn bản vị trí, quyền lợi của người phụ nữ so với trước đây.
Tuy nhiên cuộc đấu tranh nào cũng có khó khăn của nó, đặc biệt Sơn La vốn là một tỉnh miền núi có trình độ dân trí thấp, ảnh hưởng nặng nề của tàn dư, hủ tục lạc hậu. Vì những lý do đó, chúng ta có thể giải thích được vì sao Sơn La vẫn tồn tại tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, thậm chí ở nơi vùng sâu, vùng xa có xu hướng phục hồi và phát triển. Chính tư tưởng này đã tạo ra một thứ bạo lực vô cùng ghê gớm, nó khiến cho họ không bị đánh đập về thể xác thì cũng bị đầy đoạ về tinh thần, không bị mắng chửi nhưng vẫn phải lao động cực nhọc và phục tùng như một nô lệ. Ngày nay, trong khi có nhiều người chồng đã yêu thương, chia sẻ với vợ gánh nặng gia đình, thì vẫn còn không ít những người chồng thờ ơ trút toàn bộ trách nhiệm gia đình lên đầu vợ. Từ việc lao động, kiếm sống, đến việc quản lý, thu vén các công việc trong gia đình như cơm nước, giặt giũ, chăm sóc người già, giáo dục con cái…Trong khi người vợ tất bật từ sáng đến tối thì những ông vua này lại nhởn nhơ, nhàn nhã bên các chiếu bạc hoặc giải sầu với rượu. Điều đáng lưu ý là ở nhiều làng xã, những người chồng kiểu này vẫn được ủng hộ, thậm chí cả chính giới phụ nữ. Như trường hợp Bà Trần Thị V, 50 tuổi ở Phường Tô Hiệu, Thành phố Sơn La khi được hỏi về bạo lực gia đình đã luôn miệng nói về sự hiền lành của người chồng và khẳng định rằng mình chưa hề bị đánh bao giờ, cuộc sống vợ chồng bà êm ấm, bà vẫn được quyết định những việc quan trọng trong nhà. Nhưng bà lúc nào cũng phàn nàn về một sức ép vô hình đã buộc bà phải lao động cật lực suốt cuộc đời.
Ở Sơn La từ năm 2005 -2008 cho thấy, phụ nữ là người đóng vai trò chính trong việc nội trợ, ví dụ như nấu cơm (nữ: 68%, nam: 4,4%); giặt giũ (nữ: 69,5%, nam:3,4%); dọn dẹp trong gia đình (nữ:53,2%, nam: 5,7%); chăm sóc con cái và dạy con học (nữ: 41,1%, nam: 9,3%) [10; 14]. Hình ảnh người phụ nữ Thái luôn gắn với chiếc gùi, chiếc túi đeo, hay bên khung cửi dệt vải và các đồ gia dụng khác phần nào phản ánh vị trí người phụ nữ trong gia đình. Với khối lượng công việc nhiều như thế, chúng ta thấy có sự bất bình đẳng giới, song theo quan niệm của người phụ nữ Thái thì đó là trách nhiệm, bổn phận của người vợ, người mẹ trong gia đình, là niềm vui trong lao động và hạnh phúc của họ nên trên thực tế hiện nay hầu như không có gì thay đổi về thực trạng này. Những con số này nằm chung trong thực trạng cả nước, theo tác giả Nguyễn Linh Khiếu: “Những công việc gia đình riêng người vợ thực hiện đặc biệt cao là: nấu ăn 77,9%; mua thực phẩm 86,9%; giặt quần áo 77,6% và chăm sóc con cái 43,3%” [14; 225]. Như vậy các công việc nấu ăn, giặt giũ quần áo, chăm sóc con…chủ yếu do phụ nữ đảm nhiệm, người đàn ông có tham gia nhưng tỷ lệ lại rất thấp như: “nấu ăn 2,15%; mua thực phẩm 2,3%; giặt quần áo 1,9%; chăm sóc con cái 2,3%; chăm sóc người già, người ốm 3,7%” [14; 225].
Bên cạnh đó, hiện nay nhiều ông chồng đã bước đầu tự giác chia sẻ công việc cùng vợ và một số gia đình khác thuê người giúp việc…tạo ra thời gian nghỉ ngơi, tiếp thu học tập văn hoá của người phụ nữ được tăng lên. Dẫu là đang có sự chia sẻ công việc gia đình của người chồng đối với người vợ, nhưng về cơ bản người phụ nữ vẫn là người đóng vai trò chính.
Trong cuộc điều tra được hỏi ở Huyện Sông Mã thì có hơn 80% trả lời là trong các gia đình nghèo người cực khổ nhất là phụ nữ và trẻ em. Họ phải lao động từ sáng tới khuya. Không có một công việc trồng trọt, chăn nuôi nào dù nặng nhọc nhất từ cày bừa, gieo cấy, gặt hái mà không qua tay họ. Thậm chí có chị phải làm cả những việc mà trước đây chỉ dành cho đàn ông như bốc vác, kéo xe…Ngược lại, nhiều ông chồng của họ lại dùng mọi lời đường mật hoặc cả biện pháp trấn áp để lấy cho bằng được những đồng tiền ít ỏi trong túi vợ và nướng vào các canh bạc, rượu chè.
Trong điều kiện như vậy người phụ nữ đã không còn thời gian nghỉ ngơi để nâng cao trình độ văn hoá. Nhiều phụ nữ trả lời rằng, trong 3 năm gần đây họ không đi khỏi huyện, không xem một vở kịch nào kể cả khi các đoàn nghệ thuật về tận địa phương biểu diễn, trình độ văn hoá thấp khiến cho các chị em trốn tránh các hoạt động văn hoá, xã hội, tự ti mặc cảm và chỉ biết vùi đầu vào công việc kiếm sống vất vả…tất cả tạo thành một vòng xoáy luẩn quẩn, khiến họ cam chịu cuộc sống như vậy. Ở thành thị nhiều phụ nữ trí thức đã không còn đủ thời gian để đọc thêm tài liệu chuyên môn, học ngoại ngữ hoặc nâng cao nghiệp vụ.
Bên cạnh đó, còn nhiều người chưa dám thừa nhận có một dạng bạo lực tình dục trong gia đình, nhưng trên thực tế lại tồn tại dạng bạo lực này. Ca dao xưa đã thương cảm cho hoàn cảnh tất bật của người vợ và chê trách những ông chồng bằng những câu hát rất thực tế:
Đang cơn lửa tắt cơm sôi
Lợn kêu con khóc chồng đòi tòm tem
Hành vi của người chồng biểu hiện uy quyền của anh ta và đặt người phụ nữ trong tình trạng khó xử. Đã có nhiều phụ nữ rơi vào tình trạng này mà không “chiều” chồng đã bị anh ta đánh đập không thương tiếc. Trong thực tế, tệ bạo lực tình dục cũng xảy ra khá nhiều ở Sơn La nhưng dường như đây vẫn còn là một vấn đề nhạy cảm nên họ vẫn tìm cách che đậy. Theo lời kể của chị Nguyễn Thị D (Bắc Yên): Vừa đi làm về lao vào bếp tất bật các công việc nội trợ không tên, sau đó thu dọn nhà cửa ngẩng đầu lên cũng 9h đêm người mệt mỏi rã rời chỉ muốn lên giường ngủ một giấc nhưng chồng đòi hỏi thì đành phải chiều vì chồng doạ sẽ đi tìm các cô gái làng chơi bên ngoài nếu không đồng ý…Nên dù mệt vẫn phải chiều chồng.
Thậm chí, có những đức ông chồng còn đi tìm thú vui với những người phụ nữ khác, làm tan nát hạnh phúc gia đình. Riêng năm 2010 Toà án Tỉnh đã xét xử 83 vụ ly hôn do ngoại tình. Chính áp lực này khiến cho người phụ nữ phải chịu tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần, đặc biệt những di chứng về mặt tâm lý tình cảm. Đã có người không chịu được đành phải kháng cự và bị chồng đánh sưng tím mặt mũi chân tay. Điều này đã khiến cho những người phụ nữ ấy có tâm lý sợ hãi mỗi khi “gần gũi” chồng.
Thực trạng bạo lực không nhìn thấy được nêu trên là rất nguy hiểm, vì nó đã vắt cạn kiệt tâm hồn, trí tuệ của người phụ nữ, nó sẽ mãi mãi đẩy người phụ nữ vào sự cách biệt với nam giới trong lao động, trong hưởng thụ những giá trị văn hoá. Thực trạng này, vô hình chung đã tạo cho người chồng một thói quen hưởng thụ, một thói quen gia trưởng và ích kỷ.
2.2.2. Công tác phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ
Phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ Sơn La nói riêng luôn xứng đáng với các danh hiệu mà Đảng và Bác Hồ trao tặng trong các giai đoạn lịch sử của đất nước. Đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá,hiện đại hoá Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thay mặt Ban chấp hành Trung ương Đảng trao tặng phụ nữ Việt Nam danh hiệu: “Năng động, sáng tạo, trung thực, đảm đang”.
Phụ nữ Sơn La, với lực lượng 49,8% dân số, là lực lượng chủ yếu trong lao động nông nghiệp và nhiều ngành như: tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản, thực phẩm, y tế…Trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước, phụ nữ Sơn La đã phát huy truyền thống vẻ vang của người phụ nữ Việt Nam: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Khẳng định vai trò của người phụ nữ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng, Đảng, Chính phủ, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh Sơn La và Uỷ ban nhân dân tỉnh đã tặng thưởng huân chương, bằng khen cho các tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc.
Bên cạnh những thành tích trên, phụ nữ Sơn La vẫn phải đối diện với rất nhiều khó khăn, trong đó phải kể đến tình trạng bất bình đẳng giới và bạo lực gia đình xảy ra ở nhiều nơi. Đứng trước thực trạng này, Tỉnh Sơn La phối hợp với Sở văn hoá và du lịch Sơn La đã đề ra và thực hiện công tác phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ. Công tác này đã đạt được những kết quả sau:
Ưu điểm
Các cấp uỷ Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo trong việc tuyên truyền, giáo dục để nâng cao sự hiểu biết và ý thức trách nhiệm vì bình đẳng giới trong gia đình. Thường xuyên chỉ đạo hoạt động của chính quyền các cấp Hội phụ nữ, tạo điều kiện để hội thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình.
Các chính quyền cơ sở, cơ quan chức năng luôn làm tốt công tác phổ biến pháp luật, chính sách có liên quan đến phụ nữ. Bên cạnh đó, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội cũng thường xuyên phối hợp với Hội phụ nữ tổ chức bồi dưỡng, tuyên truyền vận động các tầng lớp phụ nữ thực hiện phong trào hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ.
Đặc biệt đã xây dựng mới, cải tạo nâng cấp, hoàn thiện hệ thống mở rộng mạng lưới cơ sở, trợ giúp nạn nhân từ tỉnh đến cơ sở, như tháng 09/2008 Sở văn hoá và du lịch đã triển khai kế hoạch xây dựng chương trình phòng chống bạo lực gia đình, đến tháng 11 đã xây dựng thành lập 5 câu lạc bộ phòng chống bạo lực gia đình đã đi vào hoạt động.
Hội liên hiệp phụ nữ: Trong những năm qua Hội đã chỉ đạo các cấp hội coi trọng việc giáo dục truyền thống gia đình Việt Nam, hàng năm tổ chức cho cán bộ, hội viên đăng ký và bình xét gia đình bốn chuẩn mực thực hiện hiệu quả sáu nhiệm vụ trọng tâm và các phong trào: “tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”; “giỏi việc nước, đảm việc nhà”;“toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở các khu dân cư”. Vận động chị em thực hiện tốt vai trò trách nhiệm của người phụ nữ trong gia đình, nhằm tránh những mâu thuẫn, xô xát xảy ra, ảnh hưởng tới sức khoẻ của chị em, tới sự bình yên của mỗi gia đình và cộng đồng…
Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh đã lồng ghép mở được 42 lớp với 2.520 cán bộ hội chủ chốt các cấp được tiếp thu các văn bản Luật về phòng chống bạo lực gia đình. Quan tâm thực hiện tốt công tác phối hợp với các ngành chức năng, các cấp Hội đã năng động khai thác các nguồn lực để hỗ trợ triển khai thực hiện mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình có hiệu quả. Phát huy vai trò thành viên Ban chỉ đạo các cấp trong mô hình can thiệp phòng chống bạo lực gia đình, các cấp Hội đã chủ động nghiên cứu, tham gia đầy đủ, đảm bảo chất lượng công tác tham mưu triển khai có hiệu quả trong hệ thống Hội, góp phần quan trọng vào kết quả chung các cấp địa phương về công tác phòng chống bạo lực gia đình.
Tồn tại
Bên cạnh những ưu điểm đã đạt được, công tác phòng, chống bạo lực gia đình trên địa bàn tỉnh vẫn đang phải đối mặt với không ít những khó khăn, thách thức, việc thực hiện luật hôn nhân gia đình vẫn còn chưa nghiêm, luật bình đẳng giới và luật phòng chống bạo lực gia đình cũng chỉ mới được ban hành. Những biến động của nền kinh tế thị trường với nhiều mặt trái của nó, đã tác động mạnh mẽ đến gia đình, có thể nói, đây là vấn đề khó khăn nhất. Đó là:
Công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ chưa thường xuyên liên tục, nội dung và hình thức còn hạn chế. Một số cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở chưa thực sự coi công tác hoà giải là nhiệm vụ của hệ thống chính trị nên đã khoán trắng công tác này cho các tổ hoà giải. Công tác nắm bắt tình hình phụ nữ bị bạo lực gia đình ở một số cơ sở còn chưa sâu sát.
Nhận thức bình đẳng giới ở gia đình và xã hội còn hạn chế, tư tưởng phong kiến, lạc hậu còn nặng nề, đặc biệt vùng sâu, vùng xa, huyện nghèo. Chế độ thông tin báo cáo hai chiều còn chậm, số liệu chưa đầy đủ, nên gây khó khăn cho công tác chỉ đạo.
Một số cấp Hội thiếu quan tâm, đôn đốc thực hiện công tác phòng chống bạo lực gia đình nên hiệu quả công tác tuyên truyền còn hạn chế. Đặc biệt bản thân chị em phụ nữ, do trình độ nhận thức còn nhiều hạn chế và chưa nhận thức rõ hành vi thuộc bạo lực gia đình.
2.3. Hậu quả và nguyên nhân của tình trạng bạo lực trong gia đình đối với phụ nữ trên địa bàn tỉnh Sơn La
2.3.1. Hậu quả
Bạo lực gia đình đối với phụ nữ đang có xu hướng gia tăng trên địa bàn tỉnh Sơn La và hậu quả mà nó để lại là rất lớn. Qua nghiên cứu cho thấy hậu quả của bạo lực gia đình không chỉ tác động đến phụ nữ mà còn tác động đến cả gia đình và xã hội.
Thứ nhất: ảnh hưởng đến cơ hội phát triển của phụ nữ
Bạo lực gia đình là nguyên nhân hạn chế sự tiến bộ và phát triển của người phụ nữ. Vị trí thấp kém trong gia đình đã cản trở người phụ nữ tham gia các hoạt động xã hội. Lao động kiếm sống và gánh nặng gia đình luôn đè nặng lên vai người phụ nữ. Họ không có thời gian học tập, nghỉ ngơi, giải trí để nâng cao trình độ hay học tập để kiếm được công việc tốt hơn. Trong giai đoạn khi cán cân quyền lực luôn nghiêng về phía nam giới còn phụ nữ thì mặc cảm, tự ti, chấp nhận vị trí thấp kém thì họ dễ trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình. Như chị Đào Thị M ở xã Chiềng Khoang huyện Quỳnh Nhai tâm sự: trước thì cũng có tham gia hội phụ nữ, nhiều khi tôi cũng muốn qua lại với hàng xóm nhưng chồng tôi chê tôi nghèo lại còn lắm chuyện hội này hội nọ, thế nên tôi mắc cỡ lắm, không tham gia nữa.
Do vậy, bạo lực gia đình đã gây nên tình trạng bất an trong cuộc sống của người phụ nữ và cản trở sự phát triển của họ, vì họ luôn sống chung một nhà với kẻ gây ra bạo lực. Kết quả các nghiên cứu cho thấy, bạo lực gia đình là nguyên nhân chính phá vỡ cuộc sống gia đình, ly hôn có thể không ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, nhưng có thể gián tiếp ảnh hưởng đến sức khoẻ của phụ nữ thông qua việc gây ra nguy cơ nghèo khổ của phụ nữ. Trong nhiều trường hợp ly hôn được xem là lối thoát cuối cùng khi người vợ không thể chịu đựng thêm nữa sự ngược đãi. Khảo sát của Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh năm 2010 cho thấy có 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần; khoảng 15% vợ bị chồng đánh, gần 80% bị chồng chửi, 70% bị chồng bỏ mặc; 30% cặp vợ chồng có hiện tượng ép buộc quan hệ tình dục [13; 9]. Hậu quả của bạo lực gia đình gây thương tích thân thể chiếm 12,8%; tổn thương về tinh thần 28,3%; vợ chồng ly thân 5,1%; ly hôn 14,8%; con cái không được chăm lo 13,3%; tử vong 2,8%; tự tử 1,2%; (số này ở vùng sâu và dân tộc chiếm cao hơn), 2,7% bạo lực về kinh tế [13; 10].
Hậu quả của bạo lực gia đình là rất lớn, ảnh hưởng của nó cũng rất lâu dài, đặc biệt là ảnh hưởng tới đời sống tinh thần, đạo đức của con người khiến người phụ nữ luôn phải sống trong lo âu, đau đớn và sợ hãi. Do vậy, họ không thể hoàn thành tốt vai trò của mình đối với gia đình, đặc biệt là việc chăm sóc, nuôi dạy con cái. Khi đó, khả năng tan vỡ của gia đình là rất lớn. Phụ nữ là những đối tượng nhạy cảm, vì vậy, các triệu chứng trầm cảm, stress mạnh, nguy hại hơn là sự suy giảm thần kinh đã trở thành bệnh là những di chứng của nạn bạo hành gia đình. Không chỉ thế, người phụ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình trạng bạo lực gia đình đối với phụ nữ ở tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp.doc