MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I 4
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LÀM VIỆC 4
1. Quan niệm về từ và từ tiếng Việt 4
2. Về mặt cấu trúc của từ 5
2.1. Từ đơn 6
2.2. Từ ghép 6
2.2.1. Định nghĩa 6
2.2.2. Phân loại 6
2.3. Từ láy 7
2.3.1. Định nghĩa 7
2.3.2. Phân loại 7
2.4. Từ ngẫu hợp 11
3. Về mặt nguồn gốc của từ 12
3.1. Từ Hán Việt và từ ngữ gốc Hán 12
3.2. Từ Ấn Âu 14
3.3. Từ Địa Phương 15
4. Cụm từ cố định 16
5. Một số vấn đề về từ điển và cấu trúc của Việt Nam Tự Điển 18
5.1. Một số vấn đề về từ điển 18
5.2. Cấu trúc từ điển 19
5.2.1. Cấu trúc vĩ mô của từ điển 19
5.2.2. Cấu trúc vi mô của từ điển 20
6. Phương pháp làm việc 21
CHƯƠNG II 23
PHÂN TÍCH TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT TRONG “VIỆT NAM TỰ ĐIỂN” THEO CẤU TRÚC CỦA ĐƠN VỊ TỪ VỰNG 23
1. Từ đơn 24
2. Từ ghép 24
3. Từ láy 25
4. Từ ngẫu hợp 26
5. Cụm từ cố định 27
CHƯƠNG III 33
PHÂN TÍCH TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT TRONG “VIỆT NAM TỰ ĐIỂN” THEO NGUỒN GỐC VÀ PHẠM VI SỬ DỤNG 33
1. Các từ ngữ Hán Việt 35
2. Từ gốc Ấn - Âu 43
3. Từ Địa Phương 49
4. Tên Riêng 60
4.1. Các địa danh 61
4.2. Các nhân danh 62
4.3. Mục từ chỉ tên các bộ sách, tác phẩm văn học 62
4.4. Mục từ chỉ tôn giáo 63
4.5. Mục từ tên gọi các triều đại, thời đại 63
4.6. Ngoài ra còn có các mục từ là tên của một dòng họ 63
KẾT LUẬN 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
PHỤ LỤC 71
109 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3036 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đô đốc, chinh phạt, chinh chiến, nhập ngũ, xung đột, quân đội, quân luật, quân lệnh...
h. Các mục từ thuộc lĩnh vực y học:
- Gồm các mục từ sau: Bệnh viện, bệnh tình, bệnh nhân, ban (một thứ bệnh), giang mai, thương hàn, thương tích, y khoa, y tế, y sĩ, y viện, huyết mạch...
Như vậy, kết quả của quá trình tiếp xúc lâu dài giữa văn hóa Hán và văn hóa Việt nói chung, giữa tiếng Hán và tiếng Việt nói riêng trong thời kì Bắc thuộc, về mặt ngôn ngữ là sự du nhập mạnh của một loạt các từ tiếng Hán vào tiếng Việt, nhưng chúng bị chi phối bởi quy luật của ngôn ngữ tiếng Việt và cách sử dụng của người Việt. Sau khi thống kê, miêu tả thành phần từ Hán Việt trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi có một số nhận xét sau:
1. Trong số 12.193 mục từ Hán Việt, điều dễ nhận thấy là số mục từ thuộc lĩnh vực tự nhiên, sinh hoạt xã hội, chính trị, tôn giáo chiếm phần lớn. Tiếp sau đó là các mục từ thuộc các lĩnh vực: giáo dục, quân sự, tư pháp, kinh tế, y học, cũng có một khối lượng không nhỏ trong Việt Nam Tự Điển. Điều này chứng tỏ rằng, các tác giả của Việt Nam Tự Điển không chỉ tập trung vào vốn từ thông dụng được sử dụng trong đời sống hàng ngày mà còn quan tâm đến các thuật ngữ sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nữa. Chỉ tính số lượng từ Hán Việt giữa Việt Nam Tự Điển (12.193 từ Hán Việt) và từ điển Việt – Bồ - La của A.De.Rhodes (1.097 từ Hán Việt), chúng tôi thấy số lượng từ Hán Việt trong vốn từ vựng tiếng Việt đã tăng lên rất nhiều. Và nếu như A.De.Rhodes chỉ tập trung thu thập những từ Hán Việt thuộc lĩnh vực tự nhiên, sinh hoạt xã hội, tôn giáo, hoàn toàn không có các mục từ thuộc lĩnh vực kinh tế, khoa học kĩ thuật, thì đến Việt Nam Tự Điển các tác giả Hội Khai Trí Tiến Đức đã cho chúng ta thấy sự vay mượn từ Hán Việt vào nước ta rất mạnh, với khối lượng khổng lồ các từ ngữ thuộc tất cả các lĩnh vực.
2. Đáng chú ý là, vì đây là cuốn tự điển nên các tác giả của Việt Nam tự điển thu thập các Hán tự đơn như là các từ đơn trong tiếng Việt. Hiện nay, các mục từ này chỉ có tư cách là các yếu tố cấu tạo từ (hay hình vị) trong tiếng Việt. Khả năng sử dụng độc lập của các mục từ đơn tiết Hán Việt này trong tiếng Việt hiện tại không còn nữa, ví dụ:
Mục từ trong
Việt Nam tự điển
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Là hình vị cấu tạo trong các từ
An
Im lặng, yên lành, định sẵn, đành rồi, không lo lắng gì nữa
An bài, an phận
Báo
Trả lại, đền lại
Báo đáp, báo oán
Cần
Siêng năng, chịu khó
Cần cù, cần kiệm
Cô
Lẻ loi một mình
Cô hồn, cô độc
Cố
Ngoảnh lại, đoái đến
Hạ cố, chiếu cố
Cụ
Đủ
Cụ thể
Cung
Dâng nộp
Cung cấp
Cốt
Xương
Xương cốt, hài cốt
Chi
Một thứ cỏ thơm
Chi lan
Chính
Ngay thẳng
Chính đáng, chính trực
Giản
Sơ sài, không phiền phức
Giản dị, giản tiện
Phục
Lại, trở lại
Phục chức, phục sinh
Thỉnh
Xin cầu
Thỉnh an, thỉnh cầu
Trực
Ngay thẳng
Trực ngôn, trực tiếp
Lãm
Xem
Triển lãm
..............
3. Đặc biệt, trong số các mục từ Hán Việt, chúng tôi thấy có khá nhiều mục từ được chú thích về khả năng kết hợp của từ. Điều này chứng tỏ ngay từ thời kì đó các tác giả của Việt Nam đã rất có ý thức không chỉ trong việc thu thập các mục từ mà họ còn cung cấp cho chúng ta cách sử dụng các từ Hán Việt. Đó là các từ không có khả năng hoạt động độc lập, được chú giải là : “không dùng một mình”, nghĩa là chúng chỉ được coi như hình vị cấu tạo từ, ví dụ:
Mục từ trong Việt Nam tự điển
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Có mặt trong các kết hợp
Cận
Gần
Cận cổ
Cập
Kịp, theo tới kịp
Cập kê, cập cách
Cật
Hỏi vặn, hỏi gặng
Cật vấn
Cẩm
Gấm
Cẩm tú,cẩm thạch
Căn
Rễ
Căn bản, căn nguyên
Cảnh
Răn
Cảnh báo, cảnh giới
Bảo
Giữ gìn
Bảo dưỡng, bảo hiểm
Bác
Rộng
Bác ái, bác học
Anh
Sáng, đẹp
Anh danh, anh hùng
Am
Biết rõ, từng trải
Am hiểu, am tường
Cô
Hãy, biết
Cô thứ, cô khoan
Cự
To lớn
Cự nho, cự tộc
Thán
Than đốt
Thán chất, thán khí
Tham
Xen vào, dự vào
Tham báo, tham mưu
Phủ
Chẳng
Phủ định, phủ quyêt
Phục
Đồ mặc
Phục sắc
Phù
Nổi
Phù vân, phù sinh
Tú
Thêu
Tú cầu
Thái
Rất, lớn, cả
Thái dương, thái tử, thái thậm
...............
4. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều từ Hán Việt có khả năng hoạt động độc lập đến mức, có lẽ trừ những người có vốn Hán học và những nhà nghiên cứu ra, không mấy ai còn để ý đến hoặc “cảm thấy” nguồn gốc Hán của chúng nữa, ví dụ:
Mục từ trong Việt Nam tự điển
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Cao
Trái với thấp. Trổi lên, nổi gồ lên, bồng lên
Thấp
Kém bề cao, trái với cao
Ông
Cha của cha mẹ mình
Bà
Tiếng gọi mẹ của cha mẹ mình
Cậu
Tiếng gọi anh hay em trai mẹ
Cô
Tiếng gọi chị hay là em cha
Học
- Theo lời thầy hay sách dạy mà bắt chước, luyện tập cho quen
- Kể lại, đọc đi đọc lại cho thuộc
Bút
Đồ dùng để viết chữ
Hiền
Lành có đức tốt
Ác
Trái với thiện. Dữ tợn, không tốt
Tuyết
Chất nước ở trên đông lại và rơi xuống, sắc trắng tinh
Thánh
Bậc thông minh, trí tuệ, tài đức khác thường
Tiên
Người tu Đạo giáo luyện được phép trường sinh
...............
5. Khảo sát từ Hán Việt trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi còn thấy có hiện tượng nhiều từ Hán Việt được rút ngắn từ lại theo cách nói của người Việt, mà vẫn đảm bảo đúng nghĩa của từ. Ví dụ các mục từ: Cử nhân - cử (cụ cử), tú tài - tú (cậu tú), thục địa – thục (củ thục), tiểu đồng – tiểu (chú tiểu), tiểu tiện - tiểu (đi tiểu)...
Đặc biệt, trong số 12.193 mục từ Hán Việt mà chúng tôi thống kê được trong Việt Nam Tự Điển, có nhiều mục từ mà ngày nay rất ít được sử dụng hoặc không còn được sử dụng nữa, ví dụ :
- Canh trương: Thay đổi, mở mang
- Cao chi: Dầu mỡ
- Nha lại: Người thuộc lại ở các nha
- Nha môn: Cửa dinh các quan
- Mỗ: Tôi, ta, tự xưng khi nói một mình
- Liêu thuộc: Các quan nhỏ thuộc quyền một quan lớn
- Hoàng khảo: Bố vua nói về khi đã chết
- Phủ doãn: Chức quan coi phủ sở, tại chỗ kinh đô
- Phủ đường: Công đường quan phủ
- Quan điền: Ruộng công của các quan viên
- Quận mã: Tiếng gọi chồng của quận chúa
- Thám hoa: Bậc đỗ thứ 3 trong hàng tiến sĩ
- Thành thủ úy: Chức quan võ coi giữ khu vực ở trong thành
- Trương phiên: Người đứng đầu phiên tuần trong tuần
- Thái hoàng thái hậu: Tiếng gọi bà nội vua
..............
Hầu hết các từ này đều là những từ lịch sử, phản ánh một giai đoạn lịch sử nhất định đặc thù cho xã hội phong kiến Việt Nam lúc bấy giờ. Khi giai đoạn lịch sử đó qua đi thì những mục từ này không được sử dụng hoặc không được sử dụng một cách tích cực nữa. Nói khác đi, khi đối tượng mà các mục từ biểu thị, gọi tên bị gạt ra ngoài đời sống xã hội như hiện nay thì các mục từ đó mất dần vị trí của nó trước đây cũng là điều dễ hiểu.
6. Phân tích các mục từ Hán Việt trong Việt Nam Tự Điển cho chúng ta kết quả tỉ lệ từ ngữ Hán Việt so với Đại Nam Quốc Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của, 1896), văn bản văn xuôi văn chương đầu thế kỉ XX, văn bản diễn ngôn văn vần đầu thế kỉ XX và từ điển Hoàng Phê(1994) [18] như sau:
Nguồn tư liệu
Tỉ lệ (%)
Việt Nam tự điển
47,06
Đại Nam quốc âm tự vị
52
Văn xuôi văn chương đầu thế kỉ XX
40
Văn xuôi văn vần đầu thế kỉ XX
30
Từ điển tiếng Việt (1994)
40
Như vậy, để tồn tại và phát triển, mỗi dân tộc đều ý thức được rằng, ngôn ngữ dân tộc không thể hoàn toàn tự túc, không có giao lưu, tiếp xúc giữa các ngôn ngữ sẽ mất đi sự cân bằng trong việc phát triển ngôn ngữ. Trên con đường hình thành, tồn tại và phát triển, tiếng Việt và tiếng Hán có sự tiếp xúc sâu rộng và lâu dài với nhau, bao gồm suốt 10 thế kỉ đầu tiên SCN, mà trong đó có tính chất quyết định nhất là thời kì nhỏ bao gồm hai thế kỉ VIII và thế kỉ IX. Mặc dù tiếng Việt và tiếng Hán không cùng nguồn gốc; một ngôn ngữ thuộc ngành Môn Khơ Me - họ Nam Á, một ngôn ngữ thuộc họ Hán Tạng, nhưng hai ngôn ngữ lại có cùng một loại hình: ngôn ngữ đơn lập, phân tích tính. Đặc điểm này đã tạo cho tiếng Việt và tiếng Hán vay mượn nhau một cách dễ dàng hơn, khi thực dân Pháp đánh chiếm nước ta (1858), số lượng từ Hán Việt vay mượn vào nước ta tăng lên đáng kể, với sự xuất hiện của các mục từ thuộc các lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của các nhân tố chính trị, khoa học, xã hội, mặc dù vốn từ cơ bản thuần Việt đang được phát triển và sáng tạo nhằm thay thế bộ phận từ vay mượn, nhưng từ Hán Việt với những ưu thế của nó vẫn cùng với bộ phận từ thuần Việt tiếp tục chứng tỏ hiệu lực sử dụng ngày càng mạnh hơn, đáp ứng nhu cầu sử dụng, giao tiếp và tư duy của xã hội Việt Nam. Điều này góp phần lí giải cho tỉ lệ từ Hán Việt trong Việt Nam Tự Điển khá cao, với 12.193 từ (47,06%), chiếm gần một nửa trong tổng số 25.912 mục từ của Việt Nam Tự Điển.
2. Từ gốc Ấn - Âu
Các từ Ấn - Âu chiếm số lượng không đáng kể trong toàn bộ cấu trúc vĩ mô của Việt Nam Tự Điển: 41/25.912.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dưới ách thống trị của chúng (1861-1945), trên diễn đàn văn hóa Việt Nam có ba ngôn ngữ là tiếng Pháp, tiếng Việt, văn ngôn Hán và bốn văn tự là Pháp, Quốc ngữ, Nôm và Hán. Sự tranh chấp của ba ngôn ngữ diễn ra theo hướng tiếng Pháp vươn lên chiếm vị thế số một, vai trò của văn ngôn Hán ngày càng giảm, vị thế của tiếng Việt càng ngày càng được nâng cao. Đây cũng là thời kì thay thế tiếng Hán bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Tiếng Pháp chẳng những được dùng trong công văn, giấy tờ của Nhà nước bảo hộ mà còn được dùng làm phương tiện giảng dạy ở trường học. Do đó những từ ngữ Pháp đã du nhập vào tiếng Việt ngày càng nhiều.
Tuy vậy, khảo sát trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi chỉ thu được 41 mục từ Ấn - Âu được thu thập (chiếm tỉ lệ 0,16%). Đó là các mục từ:
+ Từ chỉ tên món ăn: Bơ
+ Từ chỉ chất liệu: Den, kền, tơ
+ Từ chỉ tên kinh đô, quốc gia, các châu lục: Á tế á, Á phi lợi gia, Á mĩ lợi gia, Âu, Ba Lan, Ba Lê, Ba Tư, Bá Lâm, La Mã, Luôn Đôn, Mĩ, Pháp Lan Tây, Tây Bá Lợi Á, Tây Ban Nha, Phổ lỗ Sĩ, Thụy Điển, Thụy Sĩ, í Đại Lợi
+ Từ chỉ đơn vị đo lường : Lít, lô, mét.
+ Từ chỉ đồ vật: Ba lông, bom, bơm, đầm 1, lò xo, xu,
+ Từ chỉ liên quan đến tôn giáo: A men, ba la mật, phật, da tô
+ Từ chỉ chức danh: Ách, bồi, đầm 2
+ Từ chỉ công sở: Đoan
+ Từ chỉ tiếng kêu: Ếp
+ Từ chỉ trạm xe lửa: Ga
Như đã nói ở trên, chính sách của nhà cầm quyền Pháp đối với Việt Nam là đồng hóa về ngôn ngữ và văn hóa. Mọi quyết sách đưa ra đều nhằm mục đích cuối cùng và tối thượng là làm cho người Việt Nam chấp nhận sử dụng tiếng Pháp, chữ Pháp, chấp nhận văn hóa, chính trị Pháp; lấy tiếng Pháp thay thế tiếng Hán trên toàn cõi Việt Nam, hạn chế tối đa ảnh hưởng của văn hóa Hán đối với Việt Nam. Như chính Etienne Aymonier, một công sứ Pháp ở Bình Thuận năm 1886 đã viết: “Chúng ta phải gieo rắc vào người An Nam rằng cái nhu cầu hiểu biết một ngôn ngữ bác học, một ngôn ngữ cao cấp; việc không thể chối cãi được là sự học hỏi tiếng Pháp phải chính thức thay thế sự học hỏi tiếng Trung Quốc...”
[13,tr.29]. Điều này phần nào giải thích cho việc tại sao lại có sự xuất hiện của những từ gốc Ấn - Âu trong hệ thống từ vựng tiếng Việt.
Về các mục từ Ấn - Âu trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi có một số nhận xét sau:
1. Trong số 41 mục từ gốc Ấn Âu, các mục từ chỉ tên quốc gia, châu lục chiếm số lượng nhiều nhất, gồm 18 mục từ. Còn lại các mục từ thuộc các lĩnh vực khác chiếm số lượng rất ít. Ngoài ra, dựa vào phần giải thích nghĩa các mục từ, chúng tôi nhận thấy hầu hết các từ tiếng Việt vay mượn từ Ấn Âu trong Việt Nam từ điển là các từ của tiếng Pháp, phiên âm qua âm Hán Việt, ví dụ : Á phi lợi gia, Á mĩ lợi gia, Ách, Âu, Ba lông, Ba Lê, den, đoan, ga, kền, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ,....
2. Khi du nhập vào tiếng Việt, nghĩa của các từ ngữ gốc Ấn - Âu hầu như không thay đổi và không làm nảy sinh những đối lập, khác biệt như là ở các từ ngữ Hán Việt. Tuy nhiên, về mặt ngữ âm của chúng lại có nhiều thay đổi. Cơ cấu âm thanh trong từ Ấn - Âu khác, thậm chí khác xa so với cơ cấu âm thanh của từ tiếng Việt. Điều này được thể hiện ở các mục từ Ấn Âu trong Việt Nam Tự Điển như sau:
+ Các từ Ấn - Âu được đọc (nói) theo cách đọc (nói) của người Việt. Có nghĩa là các từ được phân chia thành âm tiết tách rời (nếu là từ dài) và phát âm theo cơ cấu ngữ âm của âm tiết tiếng Việt. Người Việt thêm thanh điệu cho các âm tiết đó, bỏ bớt âm trong các tổ hợp phụ âm, hoặc lại chuyển âm này thành âm khác cho phù hợp với cách phát âm của mình.
Ví dụ:
Asia - Á tế á, Amèrique - Á mĩ lợi gia, Afrique - Á phi lợp gia, Prusse - Phổ lỗ sĩ, Suisse - Thụy Sĩ, Suuuefde - Thụy Điển, Paramita - Ba la mật, gare - ga, dentella - den, dame - đầm, London - Luân Đôn,....
+ Với những từ gốc Ấn Âu ngắn, người Việt thường chỉ cấu trúc hóa lại cho thành một âm tiết theo kiểu Việt.
Ví dụ:
Boy - bồi, bombe - bom, douane - đoan, gare - ga, bleu - lơ, lot - lô, litre - lít, sou - xu,....
+ Bên cạnh đó, các từ dài thường được rút ngắn đi.
Ví dụ:
Adjudant - ách, beurre - bơ, pomper - bơm, dentelle - den, nickel -kền, ressort - lò xo, meftre - mét, bouddha - phật,.....
3. Một điều đặc biệt nữa mà chúng tôi nhận thấy ở đây là những từ nào vốn là từ đơn tiết hoặc được đơn tiết hóa thì khả năng nhập vào hệ tiếng Việt rất mạnh. Chúng cũng tương tự như những từ gốc Hán đã được Việt hóa hoàn toàn. Ví dụ , trong Việt Nam Tự Điển có các từ như: bom, bồi, bơ, bơm, den, đầm, lít, lơ, lô, su...Những từ này cho đến nay vẫn được sử dụng phổ biến trong tiếng Việt, mà ít ai để ý đến nguồn gốc Ấn - Âu của nó. Ngược lại, những từ đa tiết thì dấu ấn ngoại lai còn khá rõ, ví dụ: Á tế á, Á phi lợi gia, Á mĩ lợi gia, Ba la mật, Ba lê, Ba tư, Bá lâm, í đại lợi, Luân đôn, Phổ lỗ sĩ,....
4. Khảo sát từ Ấn - Âu trong công trình này, chúng tôi thấy việc vay mượn giữa từ gốc Ấn - Âu và tiếng Việt được chia làm hai kiểu:
+ Kiểu thứ nhất: là các từ tiếng Việt vay mượn từ Ấn - Âu được phiên trực tiếp (có cải biến, Việt hóa), không qua một ngôn ngữ nào khác. Theo kết quả thống kê của chúng tôi trong Việt Nam Tự Điển, những từ thuộc loại này gồm 20 từ, chiếm tỉ lệ 48,78% tổng số từ Ấn - Âu, trong đó có hai từ không được ghi chú dạng thức Ấn - Âu tương ứng. Đó là các từ sau:
Từ Ấn Âu
Từ tiếng Việt
(tương ứng)
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Adjudant
Ách
Chức phó quản về lính tây
Ballon
Ba lông
Một thứ khinh khí cầu thể lên cao được
Bombe
Bom
Một thứ trái phá
Boy
Bồi
Người hầu hạ
Beurre
Bơ
Bơ sữo
Pomper
Bơm
Dùng ống thụt mà cho không khí vào vật gì , hoặc lấy ở vật gì ra
Dentelle
Den
Nói chung các thứ hàng hóa bằng chỉ
Dame 1
Đầm 1
Một thứ đồ dùng để nện cho dẽ xuống
Dame 2
Đầm 2
Đàn bà
Douane
Đoan
Sở thương chính
Gare
Ga
Trạm xe lửa
Nickel
Kền
Kim loại sắc trắng
Litre
Lít
Đơn vị đo lường
Lot
Lô
Một khu, một phần
Ressort
Lò xo
Thứ ruột gà, làm bằng thép để nện vào giường hoặc xe cho êm
Bleu
Lơ
Thứ bột xanh để hồ áo
Mètre
Mét
Thước tây
Sou
Xu
Đồng tiền bằng 1/10 đồng hào
´
A men
Xin được như nguyện
´
Ếp
Tiếng kêu để người ta tránh
+ Kiểu thứ hai: là những từ tiếng Việt vay mượn gián tiếp và phiên âm qua ngôn ngữ thứ 3, là tiếng Hán. Theo thống kê của chúng tôi trong cuốn tự điển này có 21 từ Ấn - Âu xếp vào loại thứ 2, chiếm tỉ lệ 52,22%. Bao gồm các từ sau:
Từ Ấn Âu
Từ Tiếng Việt
( tương ứng)
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Asia
Á tế á
Tên một đại châu, thường gọi là Á Châu hay Châu Á
Amerique
Á mĩ lợi gia
Tên một đại châu, thường gọi là Mĩ Châi hay Châu Mĩ
Afrique
Á phi lợi gia
Tên một đại châu, thường gọi Phi Châi hay Châu Phi
Europe
Âu
Tên một đại châu trong ngũ đại châu, ở về phía tây Châu Á
Pologne
Ba Lan
Tên một nước ở Trung Bộ Âu Châu.Có khi gọi là Phó Lan Mã
Pari
Ba lê
Tên kinh đô nước Pháp
Perse
Ba Tư
Tên một nước ở phía tây Châu Á
Berlin
Bá Lâm
Tên kinh đô nước Đức
Jesus
Datô
Tên đức giáo tổ đạo Thiên chúa
Italia
í đại lợi
Tên một nước ở Châu Âu, thường gọi là nước Ý
Rome
La Mã
Tên nước í đại lợi xưa, nay là kinh thành nước í
London
Luân Đôn
Kinh thành Anh Cát Lợi
Amérique
Mĩ
Á mĩ lợi gia nói tắt
France
Pháp Lan Tây
Tên một nước ở Âu Châu(nước Pháp)
Sibéria
Tây Bá Lợi Á
Khu đất ở về phía bắc nước tàu, nay thuộc về nước Nga
Espage
Tây Ban Nha
Tên một nước ở phía Tây Nam Châu Âi
Pusse
Phổ lỗ sĩ
Tên một nước ở Trung Âu,kinh đô là Bá Linh
Suède
Thụy Điển
Một nước ở Bắc Âu Châu
Suisse
Thụy Sĩ
Một nước ở Trung Bộ Âu Châu
Paramita
Ba la mật
Chỉ một thứ phép mầu trong đạo Phật
Bouddha
Phật
Nghĩa là giác, một bậ tu hành đã sáng suốt thấu hết cả mọi sự lý trong vũ trụ, không sót tí gì cả
5. Trong số các mục từ Ấn - Âu trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi còn thấy có những mục từ mà ngày chúng ta ít thấy nhắc đến trong tiếng Việt. Chúng đã trở nên cũ kỹ. Đó là các từ: Á tế á, Á phi lợi gia, Á mĩ lợi gia, Ách, Ba la mật, Ba lông, Ba Lê, Bá Lâm, Đoan, Ếp, í đại lợi, Kền, Pháp Lan Tây, Phổ Lỗ Sĩ, Tây Bá Lợi Á (trong số này phần lớn là các từ tên gọi kinh đô và các quốc gia trên thế giới). Vì thế, ngày nay chúng đã được thay thế bằng các từ khác, ví dụ: Á tế á - Châu Á, Á Phi lợi Gia - Châu Phi, Á Mĩ Lợi Gia - Châu Mĩ, Pháp Lan Tây - Pháp, Ba Lê - Pari,.....Vì vậy, việc tìm hiểu các từ tên riêng kiểu này có ý nghĩa quan trọng không những trong việc nghiên cứu từ Ấn - Âu, mà còn giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong việc tìm hiểu các tên gọi cũ.
Khi thống kê, phân tích từ vựng tiếng Việt trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi thấy số lượng từ Ấn - Âu thấp hơn rất nhiều lần từ Hán Việt. Điều đó là tất nhiên. Các mục từ thuộc các lĩnh vực chính trị, quân sự, âm nhạc, khoa học kỹ thuật hoàn toàn không có trong Việt Nam Tự Điển. Hầu hết các từ Ấn - Âu trong Việt Nam Tự Điển đều là những từ của tiếng Pháp. Điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi lẽ, khi thực dân Pháp chiếm Việt Nam làm thuộc địa, người Pháp có ý thức gay gắt trong việc đưa tiếng Pháp lên vị trí độc tôn, để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa của họ. Vì vậy, thực dân Pháp đã mở hàng loạt các trường thông ngôn, các trường Pháp - Việt. Báo chí bằng tiếng Việt có dùng lẫn tiếng Pháp và một phần tiếng Hán là những bước chuẩn bị. Trong nhà trường việc chúng dùng tiếng Pháp để dạy học, tiếng Việt chỉ được dạy với một số giờ và cách dạy như một ngoại ngữ cũng là điều dễ hiểu trong tình hình ấy. Đây là một bước chuyển đổi rất quan trọng để rồi tiếng Pháp ngay khi đó được dùng để giao thiệp công văn, giấy tờ, khế ước, dùng trong các công trình nghiên cứu...như các nhà nho ta dùng chữ Hán vậy. Khi đó, tiếng Việt dù đã có chữ La tinh ghi âm dễ đọc, dễ học, là tiếng mẹ đẻ của hàng chục triệu người, nhưng chỉ được dùng để giao tiếp trong cuộc sống hằng ngày hay trong thông tin và vẫn chỉ giữ vị trí thứ yếu. Việc các từ Ấn Âu được đưa vào Việt Nam tự điển không nhiều, không có nghĩa là tiếng Việt giai đoạn những năm 30 không có các từ gốc Ấn - Âu. Việc đưa nhiều hay ít bộ phận từ ngữ nào đó vào từ điển là do quan niệm và cách thức xác lập cấu trúc vĩ mô của các tác giả làm từ điển.
Việc thu nhận và xử lí các từ gốc Ấn - Âu trong tiếng Việt đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thời sự; nhất là trong bối cảnh chúng ta đang mở rộng quan hệ hợp tác với thế giới như hiện nay về nhiều mặt. Hiện nay, các từ ngữ gốc Ấn Âu có xu thế tăng nhanh về số lượng và chất lượng, đặc biệt là sự xuất hiện của hàng loạt các thuật ngữ thuộc các lĩnh vực: quân sự, âm nhạc, khoa học kĩ thuật...Điều này cần được tiếp tục theo dõi và nghiên cứu thêm.
3. Từ Địa Phương
Từ địa phương không chỉ phản ánh tình hình sử dụng ngôn ngữ mà còn lưu giữ những giá trị văn hóa của mỗi vùng, miền trên đất nước ta. Phản ánh đúng đặc điểm này của tiếng Việt, trong Việt Nam Tự Điển, các tác giả Hội Khai Trí Tiến Đức đã thu thập và giải thích 95 mục từ là từ địa phương. Khảo sát những mục từ này chúng tôi thấy đây là những mục từ đại diện cho từ vựng của cả 3 vùng phương ngữ: Phương ngữ Bắc Bộ (PNBB), phương ngữ Trung Bộ (PNTB) và phương ngữ Nam Bộ (PNNB). Đó là các từ sau:
STT
Mục từ trong Việt Nam tự điển
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
1
Ăn sỉ
Mua lẻ
2
Ấp
Một xóm, một làng
3
Ầy
Ế
4
Ba
Hoa
5
Ba ba
Đàn bà lai
6
Ba nài
Người láo xược
7
Ba tôi
Chúng tôi
8
Bả
Sợi, tơ, vải để buộc diều, đan lưới
9
Bài chài
Hỗn độn
10
Bài xài
Ăn vận xười xĩnh
11
Bán bớt
Người đàn bà đã có chồng mà còn ngoại tình
12
Bán mắc
Bán đắt
13
Bặn
Vắt lên cái sào hay cái dây
14
Bắng
Húc
15
Bậu
Cũng như tiếng em,mày, có ý thân thiết như anh chị nói với em, chồng nói với vợ
16
Bầm
Mẹ
17
Bấy nhấy
Sức yếu
18
Ben
Bì kịp
19
Bể
Vỡ ra, rơi ra từng mảnh
20
Bể nghể
Sự đau xương, đau mình
21
Bệ
Đau mỏi rời rã
22
Bóng
Ảnh (chụp ảnh)
23
Bu
Mẹ
24
Bư
Tiếng gọi ông lão bà già vùng Sơn, Hưng
25
Bủng rủng
Bủn rủn
26
Bứ sứ
Bự sự
27
Bửng
Ngăn, chắn ngang
28
Bươn
Lật đật
29
Binh
Bênh
30
Cói
Cò bợ
31
Cố
Gọi người già có con làm quan
32
Cớ trêu
Diễu cợt
33
Chà và
Gọi người Ấn Độ
34
Chàng hàng
Vờ vĩnh
35
Chảng
Mở rộng ra
36
Chành dồi
Đồ thợ rèn, hình như cái búa, dùng để tán đinh
37
Cháo ráo
Trỏ bộ người kinh sợ không yên
38
Chăm
Ngay thẳng
39
Chặm
Lau chùi cho khô ráo
40
Chằn
Yêu quái
41
Chầm vầm
Bộ mập mạp
42
Che
Máy ép mía
43
Chẻm
Quá lắm
44
Chén
Đồ dùng bằng sánh sứ
45
Chệt
Gọi người tài
46
Chi
Gì
47
Chiếu du
Chiếu dệt bằng tơ
48
Chình
Cái chĩnh nhỏ
49
Chóc ngóc
Ngóc đầu lên
50
Chôm bôm
Miện ngậm đầy lúng búng
51
Chôm chôm
Một loại trái cây có nhiều lông
52
Chồm ố
Tham
53
Chơm bơm
Đầu tóc rối bù
54
Chuôm ao
Cành cây thả xuống cho cá tụ
55
Chừ
Bây giờ
56
Chưn
Chân
57
Chụt
Vũng nhỏ tựa ghềnh, có thể cho ghe thuyền tránh gió
58
Chí
Chấy
59
Dát
Không bạo
60
Dăm
Vài, số đếm trên dưới năm
61
Dức
Nhức
62
Dòm
Trong, trông qua chỗ hổng như cái cửa, cái ống, cái lỗ
63
Dốt
Bỏ vào lồng hay vàa cũi không cho ra
64
Dơ
Cũng nói là nhơ, bẩn
65
Dù
Một thứ lọng nhỏ lợp bằng vải hay lụa, người ta cầm để che đầu
66
Dùa
Vun, vơ
67
Đàng
Lối đi
68
Đanh
Đồ làm bắng sắt, đồng hay tre, mình tròn, đầu nhọn, dùng để đóng vào vật gì
69
Đoi
Trôn
70
Đọi
Cái bát
71
Ghe
Cái thuyền
72
Giắm
Nhắm
73
Kéc
Loài vẹt lớn
74
Khu
Đít, trôn, mông
75
Heo
Con lợn
76
Hèn chi
Cớ chi
77
Hóa
Người đàn bà chết chồng hay đàn ông chết vợ
78
Họa
Có chăng, hoặc là ít khi có
79
Huống chi
Phương gì
80
Măng cụt
Thứ cây ở xứ nóng quả như quả bứa vị ngọt
81
Mần
Làm
82
Mô
Đâi
83
Ni
Này
84
Rày
Nay, lúc bây giờ
85
Răng
Thế này, sao
86
Ri
Thế này
87
Rứa
Thế vậy
88
Sầu riêng
Thứ cây có quả giống như quả mít, thổ sản ở Nam Kỳ
89
Tê
Kia ấy
90
Tề
Kia
91
Tràm
Thứ cây có nhiều lần vỏ mỏng như giấy, lá có mùi thơm, cay
92
Trốc
Tốc, lật lên
93
Vọp bẻ
Ngồi hoặc nằm lâu, thình lình bắp thịt co lại làm cho đau.Có nơi gọi là chuột rút
94
Vô
Vàa
95
Ốm
Gỗy
Phân tích các mục từ địa phương trong Việt Nam Tự Điển, chúng tôi có một số nhận xét như sau:
1. Trong số 95 từ địa phương thì có tới 56 mục từ được ghi chú giới hạn phạm vi sử dụng của từ thuộc vùng phương ngữ nào đó. Điều này chứng tỏ các tác giả của Việt Nam Tự Điển đã rất có ý thức trong việc thu thập các mục từ. Việc ghi chú này sẽ giúp ích rất nhiều cho người tra cứu. Đó là các mục từ sau:
- Mục từ thuộc phương ngữ Bắc Bộ: Ăn sỉ, bầm, bu, dừ, dử, nhòm, dòm, dốt,....
- Mục từ thuộc phương ngữ Trung Bộ: Ban nài, ba tôi, đàng, đọi, ...
- Mục từ thuộc phương ngữ Nam Bộ: Ba ba, bán bớt, bán mắt, ben, bể, cớ trêu, chàng hàng, chảng, chăm, chặm, chôm chôm,....
- Mục từ thuộc tiếng Đường Trong: Ba, bả, bặn, bấy nhấy, chà và, chào,ráo , chằn, che, chóc ngóc,....
- Mục từ thuộc tiếng vùng Sơn, Hương: Bủng
- Mục từ thuộc tiếng Nghệ An: Ầy
- Mục từ thuộc tiếng Nghệ Tĩnh: Bắng, cói
2. Trong Việt Nam Tự Điển có khá nhiều mục từ thể hiện một cách trung thực sự khác biệt về mặt ngữ âm của một phương ngữ nào đó so với cách phát âm toàn dân. Các mục từ này chủ yếu thuộc các phương ngữ Bắc Bộ và Nam Bộ. Đó là các mục từ sau:
+ Sự lẫn lộn /z/ - / / (d - nh ) ở phương ngữ Bắc Bộ
. dát - nhát
. dòm - nhòm
. dức - nhức
. dốt - nhốt
.........
+ Sự lẫn lộn ở phần vần trong phương ngữ Nam Bộ
. binh - bênh
. dòm - nhòm
. đanh - đinh
...........
3. Trong trạng thái từ vựng tiếng Việt hiện tại nói chung, từ vựng ở các phương ngữ nói riêng, chúng tôi thấy có 4 loại từ địa phương khác nhau. Khảo sát trong Việt Nam tự điển, kết quả ở đây cho thấy có cả 4 loại. Cụ thể là :
+ Loại 1: Những mục từ gọi tên cho sự vật chỉ có ở một vài địa phương nhất định. Loại này, trong từ vựng chung không có từ tương ứng với chúng. Đó là các mục từ sau:
Mục từ trong Việt Nam tự điển
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Chôm chôm
Nói về loại trái có nhiều lông
Măng cụt
Thứ cây ở xứ nóng quả như quả bứa vị ngọt
Tràm
Thứ cây có nhiều lần vỏ mỏng như giấy, lá có mùi thơm, cay
Sầu riêng
Thứ cây có quả giống như quả mít, thổ sản ở Nam Kỳ
+ Loại 2: Những mục từ cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng với từ vựng chung, nhưng hai từ khác nhau hoàn toàn về mặt ngữ âm. Những từ địa phương này chiếm số lượng lớn trong Việt Nam Tự Điển. Đó là các từ sau:
Mục từ trong Việt Nam tự điển
Nghĩa trong Việt Nam tự điển
Ăn sỉ
Mua lẻ
Ấp
Một xóm, một làng
Ầy
Ế
Ba
Hoa
Ba ba
Đàn bà lai
Ba nài
Người náo xược
Ba tôi
Chúng tôi
Bả
Sợi, tơ, vải để buộc diều, đan lưới
Bài chài
Hỗn độn
Bài xài
Ăn vận xười xĩnh
Bán bớt
Người đàn bà đã có chồng mà còn n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NN20 (21).doc