Khóa luận Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái

MỤC LỤC

 

 

MỞ ĐẦU 1

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Tình hình nghiên cứu vấn đề 2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 4

5. Phương pháp nghiên cứu 4

6. Kết cấu của đề tài 4

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH 5

1.1. Vai trò của đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp cách mạng 5

1.1.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công của cách mạng 5

1.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng 7

1.2. Nội dung của đại đoàn kết dân tộc 8

1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân 8

1.2.2. Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng 9

1.3. Nguyên tắc đại đoàn kết Hồ Chí Minh 11

1.3.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và các quyền thiêng liêng của con người 11

1.3.2.Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân 12

1.3.3. Đoàn kết tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại đoàn kết rộng rãi, lâu dài, đoàn kết chặt chẽ theo lập trường giai cấp công nhân 13

1.4. Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh 16

1.4.1. Phương pháp tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng 16

1.4.2. Phương pháp xây dựng, kiện toàn không ngừng phát triển hệ thống chính trị cách mạng 17

1.4.3. Phương pháp xử lý các mối quan hệ nhằm mở rộng tới mức cao nhất trận tuyến cách mạng và thu hẹp tới mức tối đa trận tuyến thù địch 19

Tiểu kết chương 1 20

CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN VĂN YÊN TỈNH YÊN BÁI 21

2.1. Đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân dân huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái 21

2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 21

2.1.2. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội 22

2.1.3. Đặc điểm tình hình nhân dân của huyện 26

2.2. Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên 27

2.2.1. Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện 27

2.2.2. Nhiệm vụ và yêu cầu của công tác đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện 31

2.2.3. Công tác tập hợp, tổ chức lực lượng toàn dân 33

2.2.3. Công tác củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân trong nhiệm vụ xây dựng và phát triển của địa phương 38

2.3. Thuận lợi và hạn chế của việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên 47

2.3.1. Thuận lợi 47

2.4.1. Một số lưu ý khi vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh 49

2.4.2. Giải pháp 49

Tiểu kết chương 2 51

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 55

 

 

doc58 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6462 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội * Tình hình kinh tế Huyện Văn Yên có 3 vùng kinh tế trọng điểm: + Vùng thâm canh lúa gồm 13 xã: Yên Hưng, Yên Thái, Ngòi A, Mậu A, Mậu Đông, Đông Cuông, Hoàng Thắng, Xuân Ái, Yên Hợp, An Thịnh, Yên Phú, Đại Phác và Tân Đồng (trong đó thị trấn Mậu A là trung tâm huyện lỵ). + Vùng trồng mầu và cây ăn quả gồm 6 xã: Lăng Thíp, Lâm Giang, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, An Bình, Đông An. + Vùng trồng quế gồm 8 xã: Phong Dụ Thượng, Phong Dụ Hạ, Xuân Tầm, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Quang Minh, Viễn Sơn và Đại Sơn. Nền kinh tế của huyện tăng trưởng bền vững, có sự chuyển biến rõ ràng, đạt được những thành tựu nổi bật. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của địa phương, bước đầu tạo ra vùng sản xuất hàng hóa tập trung phục vụ cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, đúng hướng, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Trong tổng 139.154,11 ha diện tích đất tự nhiên thì đất sản xuất nông nghiệp là 17.383,14 ha, lâm nghiệp là 104.421,53 ha. Sản xuất nông - lâm nghiệp được xác định là nghành kinh tế mũi nhọn của huyện. Mặc dù có điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế, nhưng nền kinh tề huyện Văn Yên vẫn còn khó khăn như xuất phát điểm nền kinh tế thấp, nhận thức về kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế, cơ sở kĩ thuật còn thiếu và lạc hậu, sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường kém, đời sống nhân dân trong huyện vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… thu nhập bình quân trên đầu người thấp đạt 1,996 triệu/năm. Tình trạng lao động chưa có việc làm hoặc có việc làm nhưng chưa ổn định còn lớn. Mặc dù năm 2009 đã có hàng ngàn hộ nông dân được vay vốn nhưng vẫn còn tới 50% số hộ thiếu vốn đầu tư sản xuất. * Tình hình văn hóa - xã hội - Về giáo dục: Hệ thống giáo dục của huyện khá hoàn chỉnh gồm các ngành học, bậc học. Có đội ngũ cán bộ giáo viên giỏi, có trình độ chuyên môn cao. Cơ sở hạ tầng phục vụ cho lĩnh vực giáo dục được đầu tư nhưng so với yêu cầu vẫn còn khó khăn, bất cập. Toàn huyện có 70 trường phổ thông trong đó có 41 trường tiểu học, 26 trường trung học cơ sở và 4 trường trung học phổ thông. Huyện có 27/27 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học - chống mù chữ. Tuy nhiên, công tác giáo dục vẫn còn yếu kém, phát triển chậm và không đều, mới khoảng 50% số người trong độ tuổi từ 6 - 9 đi học. Trong đó ở dân tộc Dao, Mông, Xa Phó tỷ lệ đi học thấp hơn nhiều. Đội ngũ giáo viên vùng cao vừa thiếu vừa yếu cả về năng lực sư phạm và tinh thần trách nhiệm. - Về y tế: Cơ sở y tế của huyện phát triển, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ bác sĩ, y tá đông đảo và có chuyên môn tay nghề giỏi. Tất cả các xã trong huyện đều có các trạm y tế, phòng y tế, trung tâm y học dự phòng... Có 22 xã, thị trấn đã được công nhận chuẩn quốc gia về y tế, đang thực hiện mới 3 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế trong năm 2010. Ngành y tế của huyện đã làm tốt công tác y tế dự phòng, phòng chống dịch bệnh, khống chế được dịch bệnh, không có dịch lớn xảy ra trên địa bàn. Làm tốt công tác khám chữa bệnh cho nhân dân, đã chú trọng, quan tâm khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc ít người, các xã vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, các đối tượng chính sách, người nghèo, người có công với cách mạng... Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, dân số được duy trì và thực hiện một cách có hiệu quả. Tuy nhiên chất lượng khám chữa bệnh chưa cao, tinh thần thái độ phục vụ của cán bộ y tế với nhân dân còn nhiều thiếu sót. Vẫn còn một số xã có cơ sở y tế hoặc có nhưng đã bị xuống cấp, một số nơi còn thiếu cán bộ y tế theo quy định. Tình trạng thiếu thuốc còn khá phổ biến. - Công tác văn hóa - thông tin và thể thao: đã có bước đẩy mạnh phát triển hơn trước, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đã tổ chức được nhiều phong trào, cuộc vận động lớn như: cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, cuộc vận động vì người nghèo “Ngày vì người nghèo”, cuộc vận động “Người Việt nam ưu tiên dùng hàng Việt nam”, tổ chức thành công các chương trình phục vụ lễ hội (đền Đông Cuông, đền Nhược Sơn…), lễ kỷ niệm 45 năm ngày thành lập huyện, tuyên truyền cho đại hội Đảng các cấp và tổ chức các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn trong năm, quản lý tốt các dịch vụ văn hóa trên địa bàn đảm bảo kinh doanh lành mạnh. Phong trào thể dục thể thao của huyện được thúc đẩy. Việc xây dựng nếp sống văn hóa đi vào nề nếp. Thường xuyên kiểm tra thực hiện đề án xây dựng xã văn hóa đối với các xã Yên Thái, Đại Phác, Yên Hưng và Xuân Ái, kiểm tra các hoạt động của làng văn hóa trên địa bàn huyện, củng cố và tăng cường các thiết chế văn hoá tại các cấp cơ sở. Công tác phát thanh truyền hình được đảm bảo, góp phần nâng cao nhu cầu nghe nhìn của nhân dân. Tổ chức hội nghị tập huấn điều tra thống kê hiện trạng phổ cập dịch vụ Internet, điện thoại và nghe nhìn năm 2010 cho 27 xã, thị trấn. Công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ được tăng cường, quản lý chặt chẽ các hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, chất lượng các mặt văn hóa, giáo dục còn thấp, đạo đức xã hội ở một bộ phận dân cư còn có biểu hiện xuống cấp, các tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan chưa được đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả. * An ninh - quốc phòng Do địa bàn của huyện nằm trên nhiều tuyến đường quan trọng, cho nên việc giữ vững an ninh là rất cần thiết, vì nó tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, thúc đẩy văn hóa - giáo dục ngày càng đi lên… Cho nên vấn đề cấp bách là phải giữ vững an ninh - quốc phòng. Huyện đã xây dựng được khu vực phòng thủ quân sự - quốc phòng, trong đó trọng tâm là xây dựng các xã, thị trấn vững mạnh toàn diện, an toàn là chính, cho nên an ninh - quốc phòng của huyện được củng cố vững chắc. Coi trọng nâng cao nhận thức cho lực lượng vũ trang nhân dân về chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên thường xuyên được huấn luyện, xây dựng vững mạnh về mọi mặt: 100% các đối tượng theo quy định được bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, trên 80% nhân dân được giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh, 100% các xã có đất thao trường cho công tác huấn luyện. Công tác tuyển quân hàng năm bảo đảm chi tiêu và chất lượng. Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được tăng cường, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. * Công tác tôn giáo Với đặc thù là địa phương có tỷ lệ giáo dân chiếm 17,5% dân số toàn huyện và chiếm gần 40% tổng số giáo dân toàn tỉnh, trên địa bàn huyện có 11 dân tộc anh em cùng sinh sống. Đảng bộ đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các cấp làm tốt công tác đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo. Tạo điều kiện cho dân tộc thiểu số phát triển bình đẳng về kinh tế, văn hóa xã hội, quan tâm xây dựng cơ sở hạ tầng, điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế, cho vay vốn phát triển sản xuất với lãi xuất ưu đãi, hướng dẫn làm ăn, chuyển giao khoa học kỹ thuật… góp phần từng bước ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng theo quy định của luật pháp đối với đồng bào có đạo. Tình hình hoạt động trong các tôn giáo tương đối ổn định, các hoạt động cơ bản thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tăng cường vận động giáo dân sống tốt đời, đẹp đạo. Đồng bào giáo dân sống tốt đời đẹp đạo luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, pháp luật Nhà nước và quy định của địa phương, ngăn chặn kịp thời các hoạt động tôn giáo trái phép. Như vậy trong tổng 27 xã, thị trấn của huyện có 13 xã thuộc vùng cao, 5 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn của cả nước (Nà Hẩu, Mỏ Vàng, Xuân Tầm, Quang Minh, Lang Thíp). Điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn so với nhiều địa phương khác, song nhờ truyền thống đoàn kết mà toàn Đảng và toàn dân trong huyện đã không ngừng vươn lên đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội đi tới ấm no, hạnh phúc và chủ nghĩa xã hội. 2.1.3. Đặc điểm tình hình nhân dân của huyện Dân số huyện Văn Yên đến năm 2010 là 114.235 người, mật độ là 82 người/km2 gồm 11 cộng đồng dân tộc đang chung sống như: người Kinh, người Dao, người Tày, người Mông, người Phù Lá, người Giáy, người Hoa, người Mường, người Nùng, người Thái và các dân tộc khác. Trong đó: + Dân tộc Kinh có 65.117 người chiếm 56,38% + Dân tộc Tày có 17.573 người chiếm 15,2% + Dân tộc Dao có 26.487 người chiếm 22,91% + Dân tộc H’mông có 4.480 người chiếm 3,87% + Dân tộc khác có 1.957 người chiếm 1,69% Do mật độ phân bố dân cư không đồng đều, nên phong tục tập quán sản xuất và sinh hoạt của các dân tộc khác nhau. Các dân tộc Kinh, Tày, Mường, Nùng chiếm 71,53% dân số. Dân tộc Dao chiếm 22,91% dân số, họ sống thành cộng đồng làng bản ở vùng thấp, có kinh nghiệm thâm canh lúa nước, cây lương thực, cây công nghiệp, kết hợp trồng trọt với chăn nuôi, trồng cây nguyên liệu và sản xuất thủ công nghiệp cho nên đời sống kinh tế văn hóa khá. Còn dân tộc H’mông và các dân tộc ít người khác chiếm tỷ lệ 3,87% dân số. Họ cư trú và sinh sống trên các sườn núi và thung lũng, chủ yếu trồng lúa nương, ngô, sắn, quế, chăn nuôi trâu bò, lợn, gia cầm… cho nên trình độ canh tác thấp, kinh tế phát triển chậm. Trước đây, dân cư Văn Yên thưa thớt. Đợt chuyển cư đông đảo nhất diễn ra trên địa bàn huyện vào những năm 1960 - 1970 khi chuyển dân vùng lòng hồ Thác Bà thì hàng vạn người dân các huyện Yên Bình, Lục Yên đến đây xây dựng quê hương mới. Cũng vào khoảng thời gian đó, theo tiếng gọi của Đảng, hàng ngàn người từ các tỉnh Hưng Yên, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình… đã lên Văn Yên xây dựng kinh tế - văn hóa miền núi. Dù là người bản địa hay người nơi khác đến, các dân tộc cư trú trên vùng đất Văn Yên không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng đều có truyền thống đoàn kết, yêu thương đùm bọc nhau trong sản xuất và chiến đấu. Họ cùng nhau sát cánh xây dựng nên quê hương giàu đẹp của mình. Mặc dù đông dân tộc với các phong tục tập quán khác nhau nhưng nhìn chung nhân dân các dân tộc trong toàn huyện đã yên tâm, phấn khởi tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, tích cực lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau đẩy mạnh phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Đời sống nhân dân ổn định, kinh tế phát triển, trật tự an toàn được giữ vững. Các dân tộc tôn giáo đoàn kết, gắn bó và chấp hành tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước. Nhân dân phát huy dân chủ, thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của công dân ở địa phương. Đây chính là điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tập hợp, củng cố xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng vững mạnh, từng bước đưa nội dung các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. 2.2. Vận dụng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên 2.2.1. Thực trạng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ quê hương, nhân dân các dân tộc trong địa bàn huyện Văn Yên đã nêu cao tinh thần yêu nước, đoàn kết, cần cù lao động tạo lập nên nhiều thành tích vẻ vang. Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên luôn quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng sáng tạo chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận dân tộc thống nhất. Huyện đã không ngừng phát huy vai trò và đề cao trách nhiệm của mình, đoàn kết toàn dân hàn gắn vết thương chiến tranh, tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ hậu phương, góp phần vào thành tựu chung của cả nước nhất là những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của 25 năm đổi mới đất nước. Kế tục và phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên luôn lấy mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào ở trong và ngoài huyện không phân biệt thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, quá khứ, ý thức hệ và chính kiến miễn là tán thành công cuộc đổi mới. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội. Mặt trận Tổ quốc các cấp đã không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, góp phần tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Mặt trận Tổ quốc, các cấp chính quyền huyện đã không ngừng tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhất là về đại đoàn kết toàn dân tộc, về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Mặt trận Tổ quốc và các cấp tăng cường vận động nhân dân đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Chăm lo sự nghiệp giáo dục - đào tạo, sự nghiệp y tế, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân và góp phần đảm bảo an ninh - quốc phòng, nhất là nâng cao chất lượng cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", cuộc vận động "Ngày vì người nghèo" và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần thiết thực chăm lo đời sống cho các tầng lớp nhân dân nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và người có công với nước. Thông qua phong trào thi đua để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tăng cường đồng thuận xã hội chung sức chung lòng cùng Đảng, Nhà nước vượt qua khó khăn thách thức nhất là kiềm chế lạm phát, ngăn chặn suy giảm kinh tế và duy trì tăng trưởng hợp lý. Mặt trận Tổ quốc các cấp ngày càng mở rộng, các tổ chức thành viên của Mặt trận ngày càng tăng cường tập hợp, thu hút thêm nhiều đoàn viên, hội viên mới góp phần tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân vào trong các tổ chức thích hợp. Mặt trận Tổ quốc các cấp luôn chú ý tới công tác vận động, phát huy vai trò các nhân sĩ, trí thức, người tiêu biểu trong các dân tộc thiểu số, chức sắc tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài trong công tác vận động, đoàn kết, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhiều năm qua, Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên đã tổ chức tốt “Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc” với nhiều nội dung, hình thức phong phú ở hầu khắp các khu dân cư trong huyện nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam. Ngày hội đã khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nước, tăng cường sự đồng thuận ở cộng đồng dân cư, là biểu hiện sinh động tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Qua 25 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng bộ huyện, toàn dân và toàn quân huyện Văn Yên đã tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, kiên trì phấn đấu, bằng trí tuệ, tài năng và nghị lực phi thường của mình đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử tạo nên thế và lực mới cho huyện có bước phát triển trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, bên cạnh đó huyện vẫn còn phải đương đầu với không ít khó khăn, vẫn còn những hạn chế, yếu kém tác động đến khối đại đoàn kết như: Một là, lòng tin vào Đảng bộ, Mặt trận Tổ quốc, các cấp chính quyền của huyện của một bộ phận nhân dân còn chưa vững chắc, phần vì giá cả vật tư chưa ổn định đặc biệt là các loại vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng và một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân vẫn tăng cao, trong khi đó các mặt hàng nông sản không những không tăng mà còn hạ giá, khó tiêu thụ. Mặt khác trên thị trường vẫn còn xuất hiện một số hàng hóa, vật tư kém chất lượng như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, thức ăn gia súc, thuốc chữa bệnh, thực phẩm… đã tác động, ảnh hưởng đến tâm lý của người sản xuất và người tiêu dùng. Cơ sở hạ tầng thiết yếu tuy đã được cải thiện song chưa đáp ứng với yêu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, đặc biệt là giao thông nông thôn và thủy lợi, phần vì bất bình trước tình trạng tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí còn nghiêm trọng. Đạo đức xã hội có mặt xuống cấp, trật tự an ninh toàn xã hội còn phức tạp. Hai là, vẫn còn một bộ phận nhân dân còn trông chờ, ỉ lại vào chế độ chính sách chỉ mong sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước đối với mình, bản thân không tự cố gắng vươn lên. Ba là, các vụ khiếu kiện đông người vẫn còn nhiều, có lúc rất gay gắt và số lượt ngày càng tăng. Đặc biệt là khiếu kiện của một số công dân đã được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết nhiều lần nhưng vẫn không nghe, cố tình gửi đơn lên huyện hoặc tỉnh. Cải cách hành chính theo cơ chế một cửa có cố gắng song vẫn còn bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nổi cộm nhất là nhu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc triển khai thực hiện một số chính sách đối với người nghèo, người cao tuổi và đồng bào dân tộc thiểu số ở các xã đặc biệt khó khăn, có nơi thực hiện chậm và chưa đầy đủ. Một số ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân chưa được giải quyết kịp thời. Một vài nơi xuất hiện tình trạng thiếu đồng tình đông người với một số việc, một số dự án đầu tư của Nhà nước cần sớm được chấn chỉnh. Bốn là, việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các đoàn thể, tổ chức xã hội còn nhiều hạn chế. Vì huyện có đông dân tộc anh em sinh sống với tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, và do địa bàn cư trú cũng khác nhau giữa thị trấn và các xã . Năm là, có nhiều thế lực phản động đã lợi dụng lòng tin của nhân dân đã tuyên truyền đạo trái luật, tìm mọi cách thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng do nhân dân trong huyện Văn Yên xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt khác các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết bằng cách lợi dụng để kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng và nhân dân trong huyện. Do vậy sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu. Đặc biệt, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, đây chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của huyện. 2.2.2. Nhiệm vụ và yêu cầu của công tác đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Văn Yên đã phát huy truyền thống đoàn kết, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, hình thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của huyện, khắc phục mọi khó khăn nỗ lực phấn đấu và đạt được những thành tựu quan trọng. Đây chính là những tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện cùng cả nước tiếp tục sự nghiệp cách mạng thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyện vọng chung của nhân dân trong huyện là: đề nghị Đảng, Nhà nước các cấp cần tiếp tục có những biện pháp hữu hiệu để ổn định tình hình thị trường, bình ổn giá cả, chống gian thương lợi dụng tăng giá, ép giá và đưa hàng giả, hàng kém chất lượng và hết hạn sử dụng đến nông thôn, vùng sâu, vùng xa để tiêu thụ. Tăng cường các biện pháp đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong tiêu dùng cũng như trong lưu thông, đẩy mạnh hơn nữa chương trình xóa đói giảm nghèo, thực hiện các chính sách an ninh xã hội, tiếp tục hỗ trợ phát triển giao thông, thủy lợi, điện, nước sinh hoạt ở nông thôn. Sớm xây dựng mới và nâng cấp trụ sở làm việc cho các xã đã có kế hoạch, tăng cường cơ sở vật chất cho các trạm y tế xã và các trường tiểu học, trường mẫu giáo. Các cấp chính quyền cần chú trọng hơn nữa biện pháp đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, có các biện pháp mạnh mẽ hơn nữa để bảo vệ, giữ gìn tài nguyên đất, rừng, khoáng sản và chống ô nhiễm môi trường. Nhà nước và các cấp cần có chính sách hỗ trợ kịp thời và thiết thực hơn nữa cho nông dân khi sản xuất bị thiệt hại do thiên tai gây ra, chăm lo hơn nữa đến đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng cao và chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân. Cán bộ cơ sở cần gần dân và sát dân hơn, thực hiện dân chủ ở các cơ quan, đơn vị, trường học và ở các xã, thị trấn cần được thực hiện một cách thiết thực hơn. Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Văn Yên khóa XIII trình Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XIV tháng 8 năm 2010 “Phát huy truyền thống đoàn kết, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, huy động mọi nguồn lực xây dựng Văn Yên trở thành huyện phát triển nhanh, bền vững” [21; 8]. Báo cáo đã chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém, hạn chế của khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn huyện là: Thứ nhất, Đảng bộ và cấp chính quyền của huyện chưa thấy rõ được sự biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã hội và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong nhân dân, đồng thời cũng chưa có chủ trương, giải pháp cụ thể khắc phục những mâu thuẫn ấy một cách đúng đắn kịp thời. Một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, thậm chí thoái hóa, hư hỏng; một số cấp ủy, đảng viên còn hẹp hòi, định kiến với những người ngoài Đảng, là người dân tộc thiểu số. Thứ hai, một số chủ trương, chính sách của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các cấp ngành của huyện còn chưa thể hiện đầy đủ quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc theo chủ trương, chính sách của tỉnh đề ra, hay việc thực hiện đôi khi còn thiếu sót chưa đi sâu, đi sát vào nhân dân. Thứ ba, hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở một số xã còn hình thức và nặng về hành chính, chậm đổi mới. Thứ tư, sự suy thoái về lối sống và tha hóa về phẩm chất đạo đức xã hội, sống thực dụng, chạy theo đồng tiền làm xói mòn tình làng, nghĩa xóm, ý thức công dân, ý thức chấp hành kỷ cương, chính sách pháp luật nên đã gây ra tình trạng mất đoàn kết trong một bộ phận dân cư. Thứ năm, một số thế lực chống đối phản cách mạng muốn chống phá khối đại đoàn kết của nhân dân huyện Văn Yên, chúng đã lợi dụng và dùng nhiều thủ đoạn như tuyên truyền đạo trái luật, kích động vấn đề dân chủ, nhân quyền… để gây ly gián, chia rẽ nhân dân, nội bộ Đảng, chính quyền của huyện làm cho nhân dân mất lòng tin vào Đảng và Nhà nước. Do vậy, yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay trên địa bàn huyện là phải củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Cụ thể là phải tăng cường xây dựng và mở rộng Mặt trận Tổ quốc huyện Văn Yên để tập hợp đông đảo quần chúng tham gia, xây dựng vững chắc khối liên minh giai cấp công nhân và giai cấp nông dân với đội ngũ tri thức, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình ủng hộ từ lực lượng bên ngoài nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu của mỗi thời kỳ. 2.2.3. Công tác tập hợp, tổ chức lực lượng toàn dân Đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu của dân tộc ta, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Sau khi nước ta tiến hành đổi mới đến nay, tình hình đoàn kết của các dân tộc trên địa bàn huyện Văn Yên đã có bước phát triển mới. Thực tế đó tiếp tục làm sâu sắc thêm và khẳng định mạnh mẽ giá trị và ý nghĩa của việc vận dụng tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ chức yêu nước phù hợp với từng giai tầng, từng giới, từng ngành nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo, hơn nữa còn phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng. Tổ chức bao trùm nhất, thể hiện khối đại đoàn kết dân tộc chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Người cho rằng muốn giành được thắng lợi của cách mạng nói chung và xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công thì phải đại đoàn kết dân tộc, nhưng muốn đại đoàn kết dân tộc thì phải tổ chức quần chúng thành Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Sự hình thành khối đại đoàn kết là một tất yếu và sự ra đời tổ chức Mặt trận cũng là một tất yếu khách quan. Theo Người Mặt trận dân tộc thống nhất là hình thức tập hợp quần chúng rộng rãi, đại diện cho đại đa số quần chúng, đại diện cho quyền lợi dân tộc, không có sự phân biệt đối xử “Từ Nam chí Bắc, ai là người tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ thì chúng ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ, thật sự hợp tác với họ, dù từ trước đến nay họ đã theo phe phái nào” [13; 49]. Vận dụng quan điểm đó, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể từ thị trấn đến cơ sở đã tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng về cơ sở, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dochao 1.doc
  • dochao.doc
Tài liệu liên quan