Từ 1986, với đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước; các hộ gia
đình trở lại vai trò là đơn vị kinh tế tự chủ. Sự thay đổi này cùng với sự biến
đổi tự thân của cuộc sống đã tác động sâu sắc đến các nghề thủ công của
làng. Đặc biệt, công cụ sản xuất được người Phương La cải tiến, đổi mới,
đáp ứng nhu cầu khách hàng về sản phẩm. Vì thế, sản phẩm của làng dệt
Phương La đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thành trong nước và ở nhiều nước
khác trên thế giới. Từ khoảng 1990, làng nghề Phương La có nhiều bước
phát triển mới. Đặc biệt, với sự năng động, dám nghĩ, dám làm cùng quyết
tâm nuôi khát vọng làm giàu của người Phương La; các công ty xuất hiện
ngày một nhiều, làm cho nghề, làng nghề Phương La càng giàu có.
27 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 653 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Biến đổi văn hóa làng dệt Phương la (huyện Hưng hà, tỉnh Thái bình), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ã hội
truyền thống và một số yếu tố văn hóa hiện nay nổi bật nhất, hình thành và
diễn biến dưới tác động của CNH - HĐH: 1/Nghề dệt và văn hóa vật chất
(không gian, cảnh quan; các di tích tín ngưỡng, tôn giáo); 2/Văn hóa xã hội,
đó là sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp; việc tách họ, dựng nhà thờ
mới và vấn đề an ninh - xã hội của làng; 3/Văn hóa tinh thần, những vấn đề
nổi bật là sự thay đổi lối sống; phong tục cưới xin, tang ma, hội làng.
1.2. Tổng quan về làng dệt Phƣơng La
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và lịch sử hình thành làng
1.2.1.1. Điều kiện địa lý tự nhiên: Phương La (tên Nôm là làng Mẹo)
thuộc xã Thái Phương, nằm ở phía Tây Nam huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình, có diện tích tự nhiên là 242,768 ha; hình thù làng giống một cái vó
bè, cả bốn góc đều có các đường dẫn vào làng.
1.2.1.2. Dân cư: Phương La là vùng đất cổ, nơi hội tụ của dân di cư từ
nhiều nơi khác đến. Làng có dân số đông, vào 1927, làng có 1528 dân,. Con
8
người nơi đây bôn ba, bươn trải, di cư qua nhiều vùng để mưu sinh nên rất
chăm chỉ, cần cù, sáng tạo; luôn thích ứng với điều kiện sống
1.2.1.3. Vài nét về lịch sử hình thành làng: Theo lưu truyền dân gian,
Phương La hình thành từ cuối triều Lý (cuối thế kỷ XII, đầu thế kỷ XIII)
trên vùng đất tự nhiên sông nước thuộc phủ Long Hưng, một trong 24 phủ
thời Trần, gắn với công lao của Hoằng Nghị Đại Vương, là thân sinh của
Thái sư Trần Thủ Độ. Quá trình lập làng gắn với sự chung lưng đấu cật của
10 dòng họ (Trần, Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh).
1.2.2. Nghề dệt làng Phương La trong xã hội truyền thống
1.2.2.1. Nguồn gốc nghề dệt
Nghề dệt ở Phương La có từ bao giờ và tổ nghề dệt là ai, đến nay, vẫn còn
là dấu hỏi. Chỉ biết rằng, từ thời Trần, dân làng Phương La đã phát triển
nghề dệt. Các bậc cao niên trong làng giải thích, có một thời, tên làng là
“Hương La”, nghĩa là lụa thơm. Loại lụa này nổi tiếng dùng để tiến vua, đối
ngoại với các nước láng giềng.
1.2.2.2. Nguyên liệu dệt: Ngay từ xưa, người Phương La đã biết tạo ra
nghề phụ, dệt được những tấm vải tơ lụa mềm mại để có thêm thu. Nguyên
liệu để dệt đơn giản là tơ tằm, mua của người các làng xã lân cận.
1.2.2.3. Công cụ dệt: Công cụ dệt của làng Mẹo xưa rất đơn giản, thủ
công, bao nhiêu năm vẫn là khung con phượng (còn gọi là khung con cò).
Bộ công cụ của nghề dệt bao gồm khung cửi, dụng cụ đánh sa, đánh suốt để
tạo nên những con thoi; bàn mắc, bàn tráng, tạo nên những hoa cửi
1.2.2.4. Tổ chức sản xuất và phân công lao động: Trong xã hội truyền
thống, việc tổ chức sản xuất của làng Phương La đều theo quy mô hộ gia
đình, tự sản, tự tiêu... Từ năm 1957-1958, người Phương La tổ chức sản
xuất theo mô hình HTX tiểu thủ công nghiệp; đến năm 1960, các tổ hợp sản
xuất hàng tiểu thủ công nghiệp ra đời. Năm 1980, làng nghề Phương La đã
thành lập được ba tổ hợp sản xuất hàng dệt.
1.2.2.5. Sản phẩm dệt: Sản phẩm của làng Mẹo xưa đơn giản chỉ là lụa,
vải vuông và các sản phẩm từ tơ tằm; những năm khó khăn 1959 -1960, làm
ruột bấc đèn dầu các loại, dệt thắt lưng Lụa của người làng Mẹo màu mỡ
gà vàng óng, mát mượt, mịn màng đẹp như ráng trời vàng mềm mại, đạt
trình độ mỹ thuật và thẩm mỹ cao đã hút hồn biết bao người.
9
1.2.2.6. Việc tiêu thụ và thu nhập: Hình thức tiêu thụ sản phẩm của
người làng Mẹo xưa rất đơn lẻ, tiêu thụ tại chợ làng. Người dân dùng khớp
cột đình để đo độ rộng hẹp của lụa. Trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc, có
người đã phải đổ máu, thiệt mạng khi mang hàng dệt đến các tỉnh xa để tiêu
thụ. Đến khi vải làng Mẹo trở nên nổi tiếng, thương lái ở các nơi tìm về mua
mang đi. Giai đoạn sau hòa bình, trong thời bao cấp, người làng nghề đem
hàng đi phải lén lút, lẩn tránh thuế vụ, nếu không may gặp họ thì không
những bị tịch thu hàng mà còn bị phạt vì tội buôn gian, bán lận.
1.2.2.7. Truyền nghề và học nghề: Người làng Mẹo luôn tôn trọng truyền
thống giữ bí quyết nghề và không tiết lộ cho bất cứ đối tượng nào; họ
truyền nghề theo kiểu “cha truyền con nối”, truyền nghề trực tiếp trên
khung dệt, chỉ truyền nghề cho con trai; chủ yếu là để giữ nghề.
1.2.3. Văn hóa làng Phương La trong xã hội truyền thống
1.2.3.1. Văn hóa vật chất
Không gian, cảnh quan làng: Làng Phương La xưa là một cộng đồng
bền chặt, tự trị, khép kín, được bao bọc bởi lũy tre làng. Người Phương La
sống, dựng nhà quây quần, tụ cư bên nhau theo địa vực, mỗi gia đình ở một
khoảnh đất riêng rộng rãi, xung quanh cũng được bao bọc bởi bờ tre hoặc
hàng rào. Các gia đình chọn vị trí trung tâm của làng để làm nhà. Không gian
của làng thoáng đãng với hệ thống đường làng, ngõ xóm dài ngoằn ngoèo;
vườn cây, ao chuôm rộng rãi; làng khép kín, “biệt lập” với bên ngoài.
Các di tích tín ngưỡng, tôn giáo: Làng Phương La có đủ cả đình, chùa,
miếu, nhà thờ họ; trong đó, còn nhiều cổ vật quý. Nổi bật trong các di
tích ấy là Đình Đông, chùa Ứng Mão, các đền, miếu và nhà thờ dòng họ.
1.2.3.2. Văn hóa xã hội của làng Phương La
Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của làng Phương La trước Cách mạng
tháng Tám 1945 gồm một hệ thống các thỉết chế dựa theo các hình thức tập
hợp người: dòng họ; xóm ngõ; giáp; kỳ mục và chức dịch, phường hội.
- Dòng họ: trước 1994, làng Phương La có 10 dòng họ là Trần,
Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh. Về sau, có thêm dòng
họ Ninh tới sinh sống. Họ Trần về lập ấp ở Phương La sớm nhất và là dòng
họ có nhiều chi, số đinh đông nhất, chiếm tới 33% dân số trong làng.
- Xóm, làng Phương La có bốn xóm, xóm Vượt là xóm có đình, có
10
chợ, ở trung tâm làng; xóm Đống; xóm Điếm và xóm Cầu Tiên. Trong thời
kỳ hợp tác hóa, các xóm ần lượt được đổii thành thôn Phương La 1, Phương
La 2, Phương La 3 và Phương La 4. Mỗi thôn có chi bộ, trưởng thôn, phó
thôn kiêm công an viên, ban công tác mặt trận và các chi hội đoàn thể
- Giáp: Theo các bậc cao niên thì xưa kia, bốn thôn của làng gồm có
tám giáp, giáp của làng Phương La được tập hợp theo dòng họ, nhưng cũng
có thể còn phụ thuộc vào cả số đinh trong giáp cùng với địa vực sống,
- Hội đồng kỳ mục: Một thời gian dài, làng Phương La là một khối
thống nhất. Về sau, do mâu thuẫn trong sinh hoạt đình trung, làng phân
thành hai khu, lấy đình Đông làm trung tâm: phía Đông Đình và phía Tây
Đình. Mỗi khu là một “thôn”, có bộ máy điều hành như một hội đồng kỳ
mục. Đây là hiện tượng chia tách không phổ biến ở vùng châu thổ Bắc Bộ.
- Bộ máy chức dịch: Trước Cách mạng tháng Tám 1945, làng Phương
La cũng là một xã, có một bộ máy chức dịch thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an
ninh, thu thuế, điều động binh dịch cho nhà nước phong kiến.
- Phường hội: Xưa, Phương La cũng có các tổ chức phường hội, như
hội Tư văn, hội Tư võ, hội Lão nhiêu... Ngoài ra, làng còn có các phường
nghề, phường tiền nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn.
Hệ thống ngôi thứ trong đình: Xã Hương La xưa (Phương La nay)
cũng quy định các thứ hạng để căn cứ vào thứ hạng mà hưởng bổng lộc và
thực hiện chức trách. Ngoài ngôi thứ dành cho những người có tiêu chuẩn
về bằng cấp, phẩm hàm, chức tước và tuổi tác, làng Mẹo còn có các ngôi
thứ dành cho những người bỏ tiền ra mua như lý trưởng, phó lý, chùm, giám
sự ... Những chức mua này, ra làng cũng được chia các phần biếu: Trùm được
chia đầu gà (hoặc má lợn); Lý trưởng được chia cẳng giò, phẩm oản; Giám
sự được chia miếng nây (miếng bụng) lợn.
1.2.3.3. Văn hóa tinh thần của làng Phương La
Việc cưới và việc tang
- Việc cưới: Ngày trước, con cái trong nhà đến tuổi lấy vợ, lấy chồng
đều do bố mẹ sắp đặt. Việc cưới quy định lệ nộp cheo và quy định rõ con
gái lấy chồng nộp tiền cheo, rượu, trầu cau; con gái không được đi lấy
chồng nơi khác. Con rể chưa cưới phải sêu Tết bố mẹ vợ tương lai vào
mùng năm tháng Năm, gồm một con ngỗng cùng năm cân đỗ xanh; dạm
11
ngõ phải có một gà trống và năm đấu gạo nếp.
- Việc tang (việc hiếu): các phong tục tập quán của làng Phương La
được ghi chép trong bản “Tục lệ xã Phương La” lưu giữ tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm. Văn bản được lập ngày 22 tháng Năm năm Tự Đức thứ 34
(1881), gồm 19 Điều, trong đó có 13 Điều liên quan đến việc tang. Việc
hiếu quy định từ việc báo tang, làm nhà tạm đến việc bắc rạp, hộ tang của
họ tộc, của giáp, lệ biếu giáp và mời đãi những người hộ tang...
Các lễ tiết và hội làng
- Các lễ tiết trong năm của làng Phương La xưa về cơ bản vẫn giống
như ở bao làng quê khác vùng châu thổ Bắc Bộ, gồm: Tết Nguyên Đán, Lễ
tế, Lễ hợp kỵ, Lễ Thượng nguyên
- Hội làng: Hội tại đình làng Phương La xưa kia được tổ chức từ ngày
20 đến ngày 25 tháng mười. Lễ hội tái hiện nhiều diễn xướng dân gian, trong
đó có mô thức mô phỏng tục truyền nghề ươm tơ dệt lụa.
Tiểu kết
Trên cơ sở kế thừa lý luận của các học giả đi trước, Luận án đã phân
tích và làm rõ thêm các khái niệm làng nghề, văn hóa làng nghề và biến đổi
văn hóa làng nghề. Phương La là một làng cổ được hình thành và phát triển
vào cuối triều Lý, gắn với công lao khai ấp, mở làng, lập chợ, truyền cho
dân nghề dệt của Trần Hoằng Nghị. Ngoài họ Trần, còn các dòng họ
Nguyễn, Đào, Phạm, Lê, Vũ, Đặng, Đỗ, Đoàn, Đinh cùng chung lưng đấu
cật để gây dựng và phát triển làng. Về sau, có thêm họ Bùi và họ Ninh.
Xưa, Phương La nổi tiếng là vùng đất trù mật, với sản xuất nông
nghiệp và nghề thủ công rất phát triển. Sản phẩm lụa của làng nổi tiếng
khắp vùng, từng được đem bán ở Kinh đô, là sản phẩm tiến vua và đối
ngoại khi bang giao với các nước làng giềng. Phương La là một làng cổ mà
ở đó còn lưu giữ được cả một quần thể di tích, công trình lịch sử văn hóa
như Đình Đông, chùa Ứng Mão, đền Sơn Du, đền Thiên Quan, đền Thiên
Quân và nhiều nhà thờ dòng họ như họ Trần, họ Vũ, họ Lê Hội làng
Phương La xưa có nhiều hoạt động phong phú, nơi tái hiện các nghi thức
của cư dân lúa nước; đồng thời cũng là nơi bảo lưu, trao truyền và thể hiện
những giá trị văn hóa của địa phương Tóm lại, có một văn hóa làng nghề
Phương La trên nền cảnh chung của văn hóa làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ.
12
Chƣơng 2
NGHỀ DỆT VÀ VĂN HÓA VẬT CHẤT
CỦA LÀNG PHƢƠNG LA HIỆN NAY
2.1. Nghề dệt của làng Phƣơng La hiện nay
2.1.1. Việc sử dụng và thu mua nguyên liệu dệt
Nhờ tư duy thích ứng nhanh của người Phương La đã giúp họ nhanh
chóng đổi mới nguyên liệu sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường. Nguyên liệu
rất phong phú đa dạng (bông tự nhiên, bông nhân tạo, tơ tằm..) và thông
dụng, có thể được mua từ nhiều nơi, hay nhập khẩu ở nước ngoài. Hình thành
thị trường nguyên liệu cung cấp sợi cho Phương La tại làng và các địa
phương khác theo hợp đồng có tính pháp lý, ổn định, bền vững.
2.1.2. Về công cụ dệt
Người Phương La không ngừng sáng tạo, đổi mới, cải tiến công cụ
dệt: từ thủ công thô sơ, đến các máy dệt hiện đại. Nhờ vậy, người thợ đỡ
mất sức lao động mà năng suất tăng nhiều lần. Việc chuyển từ lao động cơ
bắp sang lao động trí tuệ, từ lao động thủ công sang lao động công nghiệp
để kịp thời ứng xử với guồng dệt của máy móc đã giúp tư duy người thợ
cũng đổi mới từ chậm chạp, đủng đỉnh sang nhanh nhẹn, năng động hơn.
2.1.3. Về tổ chức sản xuất
Công cuộc Đổi mới, người Phương La mạnh dạn đổi mới cả trong tổ
chức sản xuất: sản xuất theo hộ gia đình, sản xuất theo tổ hợp và sản xuất
theo công ty, xí nghiệp. Quy trình sản xuất mới với công nghệ hiện đại,
năng suất, chất lượng cao mang lại cho người dân đời sống sung túc; đồng
thời, tạo cho người Phương La có tư duy quản lý, suy nghĩ vượt trội hơn
những người khác. Từ tư duy “trọng nông”, lấy lương thực làm đầu, cuộc
sống “tự cung, tự cấp”, “an phận” sang tư duy “kinh tế hàng hóa, thị
trường”, phấn đấu trở thành “ông chủ” Đây chính là những yếu tố góp
phần tạo nên sự biến đổi của văn hóa; hình thành lối sống, nét tính cách
của người Phương La.
2.1.4. Về sản phẩm
Từ năm 1990, người Phương La đã chuyển hướng chủ yếu dệt khăn
các loại cho thị trường trong nước và quốc tế. Sản phẩm của làng Mẹo chủ
yếu xuất đi nhiều nước cũng như trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
13
2.1.5. Về hình thức tiêu thụ sản phẩm
Các ông chủ của thời kỳ đổi mới phát huy trí tuệ, đẩy mạnh sản xuất,
ký kết hợp đồng với các tỉnh trong nước và các công ty nước ngoài để xuất
khẩu hàng khăn các loại với khối lượng lớn, đem lại thu nhập mỗi năm
hàng tỷ đồng cho các doanh nghiệp. Có điều kiện kinh tế, người Phương La
tăng cường được các mối quan hệ, tự tin khẳng định mình, tạo được niềm
tin trong làm ăn, tham gia các hoạt động xã hội, từ thiện góp phần hình
thành văn hóa tinh thần, lối sống của người Phương La.
2.1.6. Về cách thức truyền nghề và học nghề
Việc truyền nghề bây giờ đã “mở” hơn rất nhiều, truyền nghề cho mọi
người học việc, cạnh tranh những thợ có tay nghề cao để phát triển sản
xuất. Nhóm đối tượng được gia đình truyền nghề hiện nay chủ yếu là lao
động trẻ, thanh niên.
2.2. Văn hóa vật chất của làng dệt Phƣơng La hiện nay
2.2.1. Không gian, cảnh quan làng
Ao, vườn được san lấp làm nhà xưởng sản xuất, lượng cây xanh trong
làng và ngoài đường ít đi, không gian công cộng cũng bị thu hẹp. Đường
chính dẫn vào làng người đông tấp nập, thậm chí tắc đường. Phương La nhà
cửa san sát nhau, đường ngang ngõ dọc không khác thành phố là mấy. Bờ
rào, bờ dậu, vườn ao đã được thay thế bằng nhà xưởng, sân nền bê tông.
Nhà nào cũng kín cổng, cao tường, thể hiện sự riêng tư, độc lập của các gia
đình, biểu hiện lối sống đô thị độc lập, đề cao sở hữu cá nhân và sự riêng tư
của không gian sinh sống ở mỗi gia đình.
2.2.2. Việc phục dựng, tu bổ các di tích
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, hệ thống di tích đình, đền, chùa,
miếu ở Phương La được quan tâm dựng mới hoặc tôn tạo rất khang trang và
quy củ, góp phần giữ gìn, bảo lưu và phát huy giá trị văn hóa truyền thống
của địa phương; khơi dậy lòng tự hào, tinh thần cố kết cộng đồng, nhớ về
cội nguồn của người dân. Tuy nhiên, việc trùng tu cũng làm mất đi sự cổ
kính, tính đồng nhất của di tích; việc thực hiện các lễ nghi cũng có những
biến đổi, biện lễ của các dòng họ cũng có biểu hiện ganh đua
14
Tiểu kết
Nghề dệt phát triển, mang lại nguồn thu rất lớn cho người dân. Đặc
biệt, công cụ sản xuất được người Phương La luôn cải tiến, đổi mới, đáp
ứng nhu cầu khách hàng về sản phẩm. Do nhu cầu sản phẩm ngày một tăng,
truyền nghề không còn bó hẹp trong gia đình mà họ truyền cho tất cả những
người đến làm thuê. Ngày nay, nghề dệt khăn của làng Phương La phát
triển mạnh mẽ, thành lập được nhiều công ty, xí nghiệp, tổ hợp; nhiều nhà
tỷ phú thành đạt từ dệt khăn của làng. Sản phẩm của làng dệt có mặt không
chỉ trên thị trường trong nước mà cả nhiều nước trên thế giới. Đời sống
nhân dân trong xã nói chung, các hộ làm nghề dệt không ngừng được nâng
cao. Đây là một trong những yếu tố tác động góp phần tạo lên những vấn đề
nổi bật về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La.
Không gian cảnh quan làng biến đổi, nhiều biệt thự, vila, nhà cao tầng
mọc lên, đường làng, ngõ xóm không khác gì thành phố; ao hồ, vườn cây xanh
đã bị biến mất, thay vào đó là các nhà xưởng sản xuất, khu chứa nguyên liệu
Trên đây là một trong những yếu tố tác động góp phần tạo nên những vấn
đề nổi bật về văn hóa xã hội và văn hóa tinh thần của làng dệt Phương La
Chƣơng 3
VĂN HÓA XÃ HỘI VÀ VĂN HÓA TINH THẦN
CỦA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA HIỆN NAY
3.1. Văn hóa xã hội của làng dệt Phƣơng La hiện nay
3.1.1. Sự hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp
3.1.1.1. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp và vai trò của họ trong
đời sống kinh tế- xã hội và văn hóa của làng
A. Sự hình thành các chủ doanh nghiệp
Sản xuất phát triển, hình thành các công ty TNHH, các doanh nghiệp;
đồng thời, là sự hình thành và trưởng thành của đội ngũ giám đốc, các chủ
cơ sở sản xuất. Tại làng Phương La hiện có khoảng 50 doanh nghiệp. Họ có
vai trò ký kết hợp đồng, chủ động tìm nguồn nguyên liệu rẻ, hình thành hệ
thống tổ chức, sản xuất đảm bảo chất lượng, đảm bảo việc tiêu thụ sản
phẩm. Ba yếu tố trên thúc đẩy sản xuất phát triển.
15
B. Vai trò của các chủ doanh nghiệp ở Phương La trong đời sống kinh
tế - xã hội và văn hóa của làng
Các chủ doanh nghiệp ở Phương La đã tạo công ăn việc làm cho
78.000 người, ủng hộ tiền bạc và công sức để xây dựng các công trình phúc
lợi của làng xã, hỗ trợ phục hồi, trùng tu, xây mới các di tích. Họ là động
lực quan trọng để duy trì và thúc đẩy làng nghề phát triển, có vai trò với
làng xã ở nhiều phương diện của đời sốngTầng lớp chủ doanh nghiệp ra
đời cũng tạo ra những mặt trái cho xã hội. Đó là gia tăng sự phân hóa giàu
nghèo, hình thành các giai tầng xã hội khác nhau; tạo ra nhu cầu hưởng thụ
văn hóa khác nhau... dễ dẫn đến sự pha tạp, biến dạng của văn hóa tâm linh.
3.1.1.2. Các mối quan hệ xã hội mới xuất hiện trong quá trình làm nghề
Quan hệ trước đây của những người dân trong làng là mối quan hệ
dòng họ, huyết thống và quan hệ cộng đồng làng xóm, giờ đây hình thành
những mối quan hệ xã hội mới: quan hệ giữa những ông chủ doanh nghiệp,
giữa chủ doanh nghiệp với công nhân lao động, giữa chủ doanh nghiệp với
chủ đại lý tiêu thụ sản phẩm Việc xuất hiện các mối quan hệ mới góp
phần làm cho dân làng càng tự tin, năng động và chỉnh chu hơn trong ứng
xử và càng thận trọng giữ gìn các mối quan hệ.
3.1.2. Hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới
3.1.2.1. Nguyên nhân tách họ
Công cuộc Đổi mới cùng sự phát triển của kinh tế đã tạo điều kiện cho
việc phục hưng dòng họ. Phong trào “trở về nguồn, tìm về cội nguồn” xuất
hiện ở phần lớn các địa phương, các dòng họ. Việc sưu tầm tư liệu để dịch
lại, lập lại và bổ sung gia phả, tộc phả hoặc phả đồ; dựng lại hoặc tu bổ nhà
thờ họ, sửa sang mộ tổ, tổ chức lại các nghi thức tế lễ diễn ra phổ biến.
Qua thời gian, ở nhiều địa phương, một số dòng họ đã xảy ra tranh chấp về
thế thứ do không còn lưu giữ được gia phả; dẫn đến mâu thuẫn, không cùng
tổ chức các sinh hoạt chung của dòng họ, thậm chí có nơi từ tranh chấp thế
thứ và “đoạn tuyệt” quan hệ này dẫn đến tranh chấp nhà thờ họ, chính
quyền phải giải quyết.
Phương La là làng nghề, kinh tế phát triển, xuất hiện đội ngũ doanh
nhân giàu có, trong số họ, có một số người có tính thích phô trương, “thích
thể hiện” nên những đặc điểm tiêu cực trên đây của dòng họ dẫn đến tình
16
trạng cực đoan, một số chủ doanh nghiệp bỏ tiền ra dựng nhà thờ riêng,
giúp cho việc tách họ nhanh chóng được “hoàn thiện”.
3.1.2.2. Thực trạng hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới ở làng dệt
Phương La
Nghề dệt phát triển, kinh tế giàu có, đời sống vật chất của người dân
nâng cao, song cũng vì thế mà nảy sinh bất hòa, mâu thuẫn trong các mối
quan hệ ruột thịt, họ hàng, điển hình là sự mâu thuẫn trong các dòng họ, dẫn
đến hiện tượng tách họ, dựng nhà thờ mới, tổ chức cúng lễ riêng, sinh hoạt
họ cũng bị chia tách (như họ Trần, họ Đỗ, họ Đào ). Trên đây cũng là
biểu hiện của sự rạn nứt tính cố kết cộng đồng dòng họ, làng xã trong điều
kiện CNH - HĐH và hội nhập quốc tế.
3.1.3. Vấn đề an ninh - xã hội
Nghề phát triển, quá trình công nghiệp hóa cùng với sự xuất hiện của
những người lao động làm thuê đã khiến cho vấn đề an ninh - xã hội của
Phương La luôn tiềm ẩn những phức tạp. Làng quá tải về nhiều mặt: mật độ
dân số, sử dụng dịch vụ, hạ tầng cơ sở; tỷ lệ sinh con thứ ba, thứ tư cao; tiềm
ẩn trong một vài gia đình đã có con bị nghiện; mối quan hệ giữa người với
người chủ yếu là quan hệ kinh tế, luật pháp, nặng về lý còn cái tình đã
giảm; những dòng họ, những gia đình có kinh tế thường có sự ảnh hưởng
chi phối tới các hoạt động của làng
3.2. Văn hóa tinh thần của làng dệt Phƣơng La hiện nay
3.2.1. Lối sống, tâm lý của người Phương La
3.2.1.1. Sự hình thành nhịp sống và tác phong, lối sống công nghiệp
Nghề dệt chiếm ưu thế và chuyển sang sản xuất công nghiệp, người
dân từng bước thay đổi lối sống truyền thống, dần chuyển thành công nhân.
Từ nhịp sống mùa vụ, nông nghiệp sang nhịp sống công nghiệp chưa đầy
đủ, có sự pha trộn, đan xen, chưa hẳn là nhịp sống đô thị nhưng khẩn
trương, gấp gáp và năng động hơn. Cuộc sống có nhiều thay đổi, mối quan
hệ xã hội cũng đổi thay; lối sống đô thị, công nghiệp đã và đang hình thành,
tồn tại đan xen với lối sống nông nghiệp tình nghĩa làng quê trong làng
Phương La.
3.2.1.2. Tính cách người làm nghề
- Tính cần cù, kiên nhẫn
17
- Tính nhanh nhạy, sáng tạo, quyết tâm và khát vọng làm giàu
- Tính mưu mẹo, tính toán và tiết kiệm
- Tính cố kết cộng đồng
- Tính cách cư dân thành thị bước đầu hình thành
3.2.2. Phong tục cưới xin, tang ma
3.2.2.1. Việc cưới xin
Ngày nay, trai gái tự do hôn nhân, cưới ở Phương La đã khác trước rất
nhiều: việc mời cưới rất rộng, cỗ cưới được đặt sẵn, quà mừng cưới là tiền,
rước dâu bằng xe ô tô dù khoảng cách gần. Để tiết kiệm được thời gian tập
trung cho sản xuất, người Phương La tổ chức ăn cưới sớm vào khoảng 8 giờ
sáng. Việc cưới ở làng Phương La cơ bản vẫn giữ được những lễ nghi phù
hợp với truyền thống. Tuy nhiên, hiện tượng đón dâu hai lần diễn ra khá
phổ biến, trong tổ chức lễ cưới vẫn có biểu hiện ganh đua
3.2.2.2. Việc tang
Đối với việc tang ma cho người mất ở Phương La, về cơ bản các thủ tục
vẫn được duy trì, những tiết chính vẫn diễn ra theo đúng trình tự xưa. Các hủ
tục dần bị xóa bỏ để phù hợp với điều kiện, nhịp sống của làng nghề, không
còn tình trạng “người mất, lợn ngả theo”. Người Phương La vẫn chưa quen
việc hỏa táng, nhiều gia đình khi bố mẹ mất đi, coi trọng việc mời thầy địa lý
về xem đất để đặt mộ; mua đất xí phần, khoanh riêng khu an táng của dòng họ;
việc phúng viếng linh đình diễn ra mạnh mẽ.
3.2.3. Hội làng
Hội đình làng Phương La hiện nay vẫn diễn ra tại đình Đông từ ngày
20 đến ngày 25 tháng 10 âm lịch. Người trảy hội đình Đông cũng tăng lên
rất nhiều, thành phần tham gia lễ hội cũng phong phú hơn. Ngoài phần lễ và
một số trò diễn dân gian truyền thống, lễ hội đình Phương La đã phục hưng
được một số trò hội vốn đã bị mai một; từng bước đưa các sinh hoạt văn
hoá thể thao hiện đại vào lễ hội, thu hút đông đảo nhân dân tham gia. Tuy
nhiên, những trò chơi dân gian bị mai một dần, một số hoạt động đã không
còn duy trì nữa, như thi dệt vải, thi đấu gậy Đặc biệt, mỗi dòng họ, thậm
chí nhiều gia đình cũng biện lễ vào dâng, gia đình khá giả thì biện lễ càng
lớn và có đoàn tế riêng nên cầu kỳ, tốn kém và dễ dẫn đến làm biến dạng
hoạt động tâm linh, thay vào đó là thể hiện thế mạnh kinh tế của dòng họ.
18
Tiểu kết
Việc hình thành các công ty, doanh nghiệp làm cho làng nghề Phương
La ngày càng giàu có, nhiều tỷ phú nổi lên đã dẫn tới hình thành tầng lớp
chủ doanh nghiệp và xuất hiện các mối quan hệ mới trong làng nghề. Quá
trình CNH, đô thị hóa, nhất là kinh tế phát triển đã tác động đến đời sống
văn hóa - xã hội của làng. Vốn là làng cổ, các dòng họ về sinh sống đã được
nhiều đời, ngày một đông, cộng thêm sự tác động của các yếu tố kinh tế,...
đã dẫn đến việc tách họ, xây nhà thờ mới chi phối tới tính cố kết cộng đồng,
dòng họ; ảnh hưởng tới tâm lý và tình cảm của những người có cùng cội
nguồn. Nghề dệt phát triển kéo theo các vấn đề về an ninh - xã hội của
Phương La, làng luôn tiềm ẩn những vấn đề phức tạp, đặt ra cho các cấp
chính quyền phải giải quyết
Khi nghề dệt của làng Phương La chiếm ưu thế và chuyển sang sản
xuất công nghiệp, người dân thay đổi lối sống truyền thống, chuyển thành
người công nhân. Nhịp sống công nghiệp đã được biểu hiện rõ nét trong
làng Phương La, song sự cố kết cộng đồng vẫn được duy trì. Nhịp sống có
sự biến đổi nhưng các lễ tiết, phong tục vẫn được bảo lưu, coi trọng và thể
hiện theo mô thức, nhịp điệu của đời sống nông nghiệp mùa vụ nhưng
được đầu tư và tiến hành trang trọng hơn Tuy nhiên, trong thực hành lễ
nghi có những biểu hiện chưa đúng với truyền thống, một số giá trị văn hóa
trong lễ hội chưa được quan tâm đúng mức nên bị mờ nhạt hoặc không còn.
Chƣơng 4
NHỮNG VẤN ĐỀ RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU
BIẾN ĐỔI VĂN HÓA LÀNG DỆT PHƢƠNG LA
4.1. Những tác động của biến đổi văn hóa làng dệt Phƣơng La đến kinh
tế - xã hội và văn hóa của làng
Nghề phát triển, nhiều “ông chủ” ra đời dẫn đến phân hóa giàu nghèo
diễn ra mạnh mẽ, sâu sắc. Những vấn đề về xã hội nảy sinh, nhất là vấn đề
an ninh trật tự, không gian cảnh quan làng, giữ gìn môi trường, bảo vệ các
giá trị văn hóa, việc chấp hành chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước của người dân chưa cao. Biểu hiện suy giảm tính cộng đồng; xu
19
hướng tách họ, lập nhà thờ mới; xu hướng một bộ phận cư dân ít tham gia
vào các hoạt động chung, hình thành lối sống riêng... Bên cạnh đó, việc
kiến trúc thiếu đồng bộ, dẫn đến không gian làng không còn thoáng đãng
như xưa, thiếu cây xanh, ít khu vui chơi giải trí công cộng.
4.2. Dự báo xu hƣớng văn hóa làng dệt Phƣơng La trong thời gian tới
4.2.1. Xu hướng chú trọng, đề cao các giá trị văn hóa truyền thống
“Phú quý sinh lễ nghĩa”, vì thế, các lễ nghi được tăng cường, khôi
phục, các lễ n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3_tom_tat_tieng_viet_477_1853667.pdf