MỞ ĐẦU. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN . 6
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC . 6
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI . 21
1.3. KẾT QUẢ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU. 25
Chương 2: CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI GIAI ĐOẠN HIỆN NAY – NHỮNG
VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN. 28
2.1. CÁC TỈNH, TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG VÀ XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở CÁC TỈNH VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG HIỆN NAY . 28
2.2. CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI - KHÁI NIỆM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC. 52
Chương 3: XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI -
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM . 64
3.1. THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở CÁC TỈNH VÙNG ĐỒNG
BẰNG SÔNG HỒNG . 64
3.2. CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM . 74
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG
HỒNG ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI ĐẾN NĂM 2025 . 106
4.1. DỰ BÁO NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI . 106
4.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC
TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐỐI VỚI XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI ĐẾN NĂM 2025 . 117
KẾT LUẬN. 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ. 146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 147
PHỤ LỤC . 162
192 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 431 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo xây dựng nông thôn mới giai đoạn hiện nay - Đào Thanh Lưỡng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i, nước sạch,
bảo vệ môi trường sinh thái ở nông thôn. Đây vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chí
đánh giá chất lượng, hiệu quả của chương trình xây dựng NTM. Các tỉnh ủy ở
vùng ĐBSH đều nhận thức rõ rằng: không thể có một vùng gọi là NTM mà công
tác giáo dục, đào tạo không đạt chuẩn, nông dân không được chăm sóc y tế,
không có nước sạch, môi trường sinh thái bị ô nhiễm nặng, an sinh xã hội không
được đảm bảo. Để lãnh đạo thực hiện được các mục tiêu này, các tỉnh ủy đã trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo các cấp, ngành, đồng thời phải huy động sự tham gia của
toàn xã hội, của các lực lượng trong địa bàn tỉnh.
Một số địa phương đạt được kết quả khả quan trong xây dựng NTM về
các nhóm tiêu chí về giáo dục, y tế, môi trường. Đến năm 2015, tỉnh Quảng
Ninh có 80% số xã đạt tiêu chí về giáo dục, 78,26% số xã đạt tiêu chí về y tế,
60,87% số xã đạt tiêu chí số 16 về văn hóa, 64,35% số xã đạt tiêu chí số 17 về
môi trường [16]. Năm 2015, tỉnh Ninh Bình có 67 xã đạt chuẩn tiêu chí trường
học, chiếm 56%, tăng 37 xã so với năm 2011; có 42 xã đạt tiêu chí cơ sở vật
chất văn hóa, chiếm 35%, tăng 39 xã so với năm 2011 [15].
Thứ sáu, các tỉnh ủy đã tập trung lãnh đạo xây dựng HTCT cơ sở nông
thôn vững mạnh, giữ vững QP, AN, trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn.
80
Lãnh đạo xây dựng HTCT cơ sở là nội dung, nhiệm vụ quan trọng mà các
tỉnh ủy đầu tư nhiều công sưc, trí tuệ trong xây dựng NTM. Các tỉnh ủy chú
trọng đổi mới cả nội dung, phương thức lãnh đạo các tổ chức trong HTCT, đảm
bảo các tổ chức này thực hiện đúng và tốt nhiệm vụ, chức năng được quy định;
củng cố chính quyền các cấp; chỉ đạo kiện toàn tổ chức và đổi mới phương thức
hoạt động của MTTQ và các tổ chức CT-XH trong tỉnh. Tỉnh ủy Quảng Ninh
chỉ đạo 115 xã thực hiện Đề án 25-ĐA/TU của Tỉnh ủy "Nâng cao năng lực, sức
chiến đấu; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tinh giản bộ máy, biên chế”
nên đã nâng cao được chất lượng của HTCT. Đến năm 2015, tỉnh Quảng Ninh
có 64,35% số xã đạt tiêu chí hệ thống tổ chức CT-XH vững mạnh; có 97,39% số
xã đạt tiêu chí an ninh trật tự [16].
Các tỉnh ủy đặc biệt chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng, phát huy vai
trò của đội ngũ cán bộ các cấp từ tỉnh đến cơ sở, nhất là tập trung đào tạo, tập
huấn cho đội ngũ cán bộ tham gia thực hiện Chương trình xây dựng NTM. Đến
năm 2015, các đơn vị trong toàn tỉnh Ninh Bình đã tổ chức được 377 lớp tập
huấn cho 39,924 học viên [15].
* Về phương thức lãnh đạo
Một là, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đã xây dựng và sử dụng các nghị quyết,
chủ trương, định hướng mục tiêu, giải pháp, chương trình tổng thể xây dựng
NTM để lãnh đạo xây dựng NTM trong tỉnh.
Các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đã ban hành nghị quyết chuyên đề về xây dựng
NTM, hoặc ban hành các văn bản như chương trình, kế hoạch để lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng NTM ở địa phương. Trên thực tế, các các văn bản này của tỉnh
ủy đã trở thành cơ sở, căn cứ để các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ
chức CT-XH xác định nội dung, nhiệm vụ lãnh đạo xây dựng NTM mà tỉnh ủy
đã đề ra. Căn cứ nghị quyết, chương trình, kế hoạch của tỉnh ủy, đảng đoàn
HĐND tỉnh lãnh đạo HĐND tỉnh ban hành các nghị quyết xác định rõ mục tiêu,
nhiệm vụ xây dựng NTM và thực hiện nhiệm vụ giám sát việc thực hiện của
UBND tỉnh; ban cán sự đảng UBND tỉnh lãnh đạo UBND tỉnh cụ thể hóa thành
81
chương trình, kế hoạch và ban hành các quy định đrr thực hiện nghị quyết của
tỉnh ủy, HĐND tỉnh liên quan đến xây dựng NTM. Các cấp ủy đảng trực thuộc
tỉnh ủy, các đảng đoàn của MTTQ và các tổ chức CT-XH – theo chức năng,
nhiệm vụ của mình – triển khai công việc. Trong quá trình chỉ đạo, kiểm tra,
giám sát và khi sơ kết, tổng kết, tỉnh ủy đối chiếu tình hình thức tế với yêu cầu,
nhiệm vụ nêu trong nghị quyết, chương trình, kế hoạch của tỉnh ủy để đánh giá
việc thực hiện của các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc.
Hai là, các tỉnh ủy tăng cường công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận
động các tổ chức khác trong HTCT, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân
thực hiện tốt các nghị quyết, chủ trương của tỉnh ủy về xây dựng NTM.
Các tỉnh ủy đã tổ chức cho các cơ quan chính quyền, MTTQ và các tổ
chức CT-XH, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghiên cứu, quán triệt
các chủ trương của Đảng và Nhà nước, của tỉnh về xây dựng NTM; từ đó xác
định trách nhiệm của các tổ chức, cơ quan và từng cán bộ, đảng viên và người
dân trong công cuộc mang tính cách mạng này ở nông thôn. Đối với các đại biểu
HĐND, cán bộ MTTQ và các tổ chức CT-XH, tổ chức xã hội - nghề nghiệp
không là đảng viên, ban thường vụ tỉnh ủy, các đảng đoàn trong từng tổ chức
này tiến hành phân tích, thuyết phục để tán thành với chủ trương của tỉnh ủy.
Thông qua công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, các tổ chức đến từng
hộ gia đình ở nông thôn đã có sự thay đổi nhận thức, tư duy, nếp nghĩ, lối sống
và sản xuất kinh doanh. Công tác tuyên truyền, vận động được tiến hành một
cách thường xuyên, khoa học, phù hợp với từng đối tượng, đem lại tác dụng hết
sức quan trọng, mang tính mở đường cho việc triển khai các chủ trương, kế
hoạch xây dựng NTM.
Tỉnh ủy Quảng Ninh lãnh đạo công tác tuyên truyền về NTM, phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan báo chí, duy trì hiệu quả họp báo thường kỳ để định
hướng dư luận; tuyên truyền, vận động nhân dân, tạo sự đồng thuận cao trong
triển khai thực hiện chương trình NTM. Nhờ vậy, đã khắc phục một bước tư
tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, khơi dậy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
82
trong nhân dân, tạo động lực to lớn đưa Chương trình trở thành một phong trào
ngày càng lan rộng. Tỉnh ủy phối hợp với các cơ quan báo chí của Trung ương,
chỉ đạo cơ quan báo chí của tỉnh xây dựng các chuyên đề, chuyên trang tuyên
truyền với những nội dung đa dạng, phong phú, phản ánh những cách làm hay,
mô hình mới, gương điển hình ở mỗi địa phương, đơn vị. Tỉnh ủy huy động cả
HTCT vào cuộc, phát huy vai trò của MTTQ và các tổ chức CT-XH, các lực
lượng vũ trang chung tay xây dựng NTM, đưa điện lưới ra đảo Cô Tô và các đảo
thuộc huyện Vân Đồn; bảo vệ môi trường nông thôn; di dân làng chài trên Vịnh
Hạ Long lên bờ; di dân ra Đảo Trần sinh sống... Tỉnh ủy lãnh đạo đẩy mạnh các
cuộc vận động, các phong trào: phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư", gắn với xây dựng NTM; phong trào "5 không, 3
sạch"; phong trào "Nông dân giỏi sản xuất kinh doanh giỏi"; phong trào "Thanh
niên Quảng Ninh chung sức xây dựng NTM"; phong trào “Thắp sáng làng quê”
của hội cựu chiến binh; phong trào thi đua “Quân đội chung sức xây dựng
NTM”; phong trào “Thành thị giúp đỡ nông thôn”; phong trào “Công nông liên
minh trong xây dựng NTM”; phong trào “Nông dân tự lực sáng tạo trong xây
dựng NTM”; phong trào “Doanh nghiệp đồng hành xây dựng NTM” nghiệp;
v.v.. Các phong trào đó đã có những đóng góp to lớn, tích cực vào thành quả xây
dựng NTM của toàn tỉnh Quảng Ninh. Phong trào thi đua “Quân đội chung sức
xây dựng NTM” đã huy động được trên 75.000 ngày công làm trên 180 km
đường giao thông các loại. Phong trào “Thành thị giúp đỡ nông thôn” đã hỗ trợ
bằng các công trình, hiện vật cụ thể với tổng giá trị là 15.193 triệu đồng (thành
phố Hạ Long hỗ trợ huyện Ba Chẽ 9.193 triệu đồng; thành phố Uông Bí hỗ trợ
huyện Hoành Bồ 6.000 triệu đồng). Trong phong trào “Công nông liên minh
trong xây dựng NTM”, các doanh nghiệp đã giúp nông dân tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp, tạo đầu ra ổn định cho nông dân như Công ty cổ phần Than Hà
Lầm tiêu thụ miến dong cho huyện Bình Liêu; Công ty cổ phần Than Mông
Dương tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp và tiếp nhận lao động vào làm việc tại
công ty với huyện Đầm Hà; Công ty cổ phần Than Hà Tu cam kết tiêu thụ sản
83
phẩm nông nghiệp cho huyện Ba Chẽ; Công ty than Mạo Khê, Công ty Nhiệt điện
Đông Triều, Công ty than Khe Chàm bao tiêu sản phẩm cho huyện Đông Triều;
Công ty cổ phần Thương mại và dịch vụ Bình Liêu hàng năm thu mua nguyên
liệu cho các hộ dân huyện Bình Liêu. Trong phong trào “Nông dân tự lực sáng tạo
trong xây dựng NTM”, các cá nhân, hộ gia đình được vay vốn hơn 8.000 tỷ đồng
từ các tổ chức tín dụng để sản xuất kinh doanh, vươn lên thoát nghèo. Trong
phong trào “Doanh nghiệp đồng hành xây dựng nông thôn mới”, các doanh
nghiệp đã ủng hộ 12.690 tấn ximăng, 1.525.000 viên gạch chỉ và 2.000 m² gạch
lát nền; ủng hộ xây dựng lưới điện Cô Tô trên 205 tỷ đồng; hỗ trợ công trình với
phương thức “Chìa khóa trao tay” với trên 30 công trình với tổng kinh phí trên
104 tỷ đồng; hỗ trợ giảm 10% giá các nguyên vật liệu xây dựng. Doanh nghiệp
đầu tư hạ tầng vùng sản xuất và liên doanh, liên kết với các hộ dân như Công ty
cổ phần Đầu tư và Xây dựng Việt Long (sản xuất rau tại thị xã Quảng Yên), Công
ty trách nhiệm hữu hạn Thuấn Quỳnh (sản xuất chè tại huyện Hải Hà).
Ba là, các tỉnh ủy đã thành lập và phát huy vai trò của Ban chỉ đạo
chương trình xây dựng NTM của tỉnh và các cấp ủy, tổ chức đảng trong HTCT,
các cấp, các ngành trong tỉnh, đặc biệt là chính quyền tỉnh.
Các tỉnh trong vùng ĐBSH đều thành lập Ban chỉ đạo chương trình xây
dựng NTM do bí thư tỉnh ủy hoặc chủ tịch UBND tỉnh làm trưởng ban. Ban chỉ
đạo này của các tỉnh đều thành lập bộ phận giúp việc là Văn phòng điều phối
NTM tỉnh. Cấp huyện đều thành lập ban chỉ đạo huyện do bí thư huyện ủy hoặc
chủ tịch UBND huyện làm trưởng bchỉ đạo do bí thư đảng ủy xã làm trưởng ban
và Ban quản lý xây dựng NTM do chủ tịch UBND xã làm trưởng ban. Hệ thống
chỉ đạo mạnh, đồng bộ như đã nêu trên là yếu tố quan trọng thúc đẩy triển khai
thực hiện chương trình xây dựng NTM ở các tỉnh. Ban chỉ đạo chương trình xây
dựng NTM các cấp làm nhiệm vụ tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về các chủ
trương và phối hợp với các cấp ủy, cơ quan chính quyền trực tiếp triển khai các
nghị quyết, chủ trương của tỉnh ủy về xây dựng NTM; đề xuất giải quyết các
vấn đề phát sinh.
84
Ngay sau khi tỉnh ủy ban hành nghị quyết, chương trình hành động xây
dựng NTM, ban thường vụ tỉnh ủy giao đảng đoàn HĐND tỉnh và ban cán sự
đảng UBND tỉnh lãnh đạo HĐND và UBND tỉnh cụ thể hóa, thể chế hóa thành
chương trình, kế hoạch, quy chế, quy định để thực hiện. Các ủy viên ban thường
vụ tỉnh ủy, tỉnh ủy viên - theo chức trách, nhiệm vụ được phân công - quán triệt
chủ trương của tỉnh ủy, chỉ đạo của ban thường vụ tỉnh ủy để triển khai công
việc, trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc phát sinh; kịp
thời phản ánh tình hình với ban thường vụ tỉnh ủy và Ban chỉ đạo xây dựng
NTM của tỉnh.
Thông qua hệ thống các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn
thể các cấp, những chủ trương, nghị quyết của tỉnh ủy về xây dựng NTM được
cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch, nhiệm vụ cụ thể của các tổ chức
trong HTCT từng cơ sở, trong đó xác định rõ nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, đảng
viên, đoàn viên, hội viên bảo đảm cho những chủ trương, nghị quyết của tỉnh
ủy được thực hiện đồng bộ, rộng rãi và có hiệu quả.
Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của toàn bộ hệ thống các tổ chức
đảng thuộc đảng bộ tỉnh.
Để lãnh đạo trực tiếp, toàn diện nhiệm vụ xây dựng NTM, các tỉnh ủy chú
trọng phát huy vai trò của hệ thống cấp ủy, tổ chức đảng cấp huyện, cấp xã đến
chi bộ thôn, xóm. Tỉnh ủy yêu cầu các huyện ủy, đảng ủy xã coi lãnh đạo xây
dựng NTM là một nhiệm vụ trọng tâm trong lãnh đạo KT-XH, vừa là nhiệm vụ
cấp bách, trước mắt, vừa là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, do đó phải quán triệt
sâu sắc chủ trương của Trung ương, của tỉnh, phát huy tinh thần chủ động, sáng
tạo để đề ra phương hướng, nhiệm vụ sát hợp với địa phương, lãnh đạo chính
quyền, MTTQ và các tổ chức CT-XH địa phương thực hiện tốt nghị quyết, chủ
trương của tỉnh ủy. Tỉnh ủy yêu cầu các huyện ủy phải xác định rõ chỉ tiêu số xã
đạt tiêu chuẩn NTM, số xã đạt 15-18 tiêu chí, số xã đạt 10-14 tiêu chí cho từng
nhiệm kỳ, từng năm và coi mức độ đạt được chỉ tiêu là một tiêu chí đánh giá
việc hoàn thành nhiệm vụ của đảng bộ huyện. Theo đó, từng huyện ủy cũng giao
85
chỉ tiêu phấn đấu cho các đảng ủy xã để lãnh đạo thực hiện. Dưới sự lãnh đạo
của tỉnh ủy, các cấp ủy các cấp trong đảng bộ tỉnh đã thực hiện đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ của mình trong lãnh đạo chính quyền, MTTQ và các tổ chức
CT-XH cùng cấp thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM theo đúng nghị quyết, chủ
trương của tỉnh ủy.
Năm là, các tỉnh ủy đều xây dựng các mô hình thí điểm, điển hình NTM,
sơ kết, tổng kết nhân rộng điển hình tiên tiến.
Trong những năm đầu, theo chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ,
căn cứ tình hình thực tế của địa phương, mỗi tỉnh ủy đều chọn một số xã để thí
điểm xây dựng NTM. Riêng tỉnh Quảng Ninh, tỉnh ủy quyết định triển khai xây
dựng NTM ngay từ đầu ở tất cả các xã. Đối với các xã điểm xây dựng NTM,
tỉnh ủy giao các ban, ngành của tỉnh, huyện hướng dẫn xã xây dựng đề án chi
tiết, xác định rõ nhiệm vụ, bước đi, các nguồn lực bảo đảm, phương án sử dụng
các nguồn kinh phí hỗ trợ, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và người dân.
Các cơ quan chức năng cấp tỉnh, cấp huyện bám sát cơ sở, kịp thời tháo gỡ
những vướng mắc, khó khăn và uốn nắn những lệch lạc. Qua lãnh đạo, chỉ đạo
thí điểm, tỉnh ủy sơ kết và đi tới chủ trương tiến hành đại trà. Trong quá trình
lãnh đạo, nhiều tỉnh ủy đã xây dựng những điển hình xã NTM để các xã khác
học tập kinh nghiệm và tỉnh ủy sơ kết, tổng kết, khẳng định các chủ trương, biện
pháp phù hợp, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện trong toàn tỉnh.
Sáu là, các tỉnh ủy đã bố trí đúng cán bộ, phát huy tốt vai trò tiên phong,
gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong các tổ chức đảng, cơ quan chính quyền,
MTTQ và các tổ chức CT-XH trong xây dựng NTM.
Các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH chăm lo xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ
các cấp, trong HTCT tỉnh, nhất là chất lượng cán bộ tham gia Ban chỉ đạo xây
dựng NTM các cấp. Tỉnh ủy lựa chọn và bố trí đúng các chức danh cán bộ,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt của HTCT tỉnh; chú trọng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ; quản lý chặt chẽ toàn diện; kiểm tra, giám sát việc
thực hiện nhiệm vụ của cán bộ trong xây dựng NTM. Các tỉnh ủy đầu tổ chức
86
các lớp bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ về xây dựng NTM; biên soạn các tài
liệu hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ xây dựng NTM cung cấp cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong tỉnh; tổ chức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp huyện, cấp xã đến tham quan các xã trong và ngoài tỉnh thành công trong
xây dựng NTM.
Bảy là, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát tổ
chức đảng, đảng viên trong thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng, Nhà
nước và tỉnh ủy về xây dựng NTM.
Xác định lãnh đạo xây dựng NTM là nhiệm vụ chính trị trung tâm, quan
trọng và lâu dài của các đảng bộ, nhưng là công việc lớn và khó khăn, các tỉnh ủy
đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với các cấp ủy đảng trực thuộc
trong việc thực hiện chủ trương này. Tỉnh ủy yêu cầu các đồan kiểm tra của tỉnh
ủy, của huyện ủy phải nắm vững chủ trương của tỉnh ủy, qua kiểm tra, giám sát
phải khẳng định được địa phương nào thực hiện tốt, có các cách làm sáng tạo, đạt
kết cao; chỉ ra được các địa phương triển khai chậm, không thật sự chủ động, tích
cực; phát hiện được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn và đề xuất được
các giải pháp tháo gỡ. Từ đó, tỉnh ủy có hình thức biểu dương đối với các cấp ủy
thực hiện tốt; đôn đốc, chấn chỉnh các cấp ủy làm chưa tốt; có kết luận điều chỉnh,
hoàn thiện chủ trương và đề ra các giải pháp cụ thể để thúc đẩy nhanh quá trình
thực hiện nghị quyết, chủ trương của tỉnh ủy về xây dựng NTM.
3.2.1.2. Hạn chế
* Về nội dung lãnh đạo
Một là, lãnh đạo thực hiện một số nhiệm vụ của chương trình xây dựng
NTM còn chậm, nhất là công tác quy hoạch xã NTM, công tác giải ngân vốn
Nhìn chung, trong thực hiện các nội dung xây dựng NTM, các địa phương
chỉ tập trung cao cho xây dựng kết cấu hạ tầng, còn các nội dung về phát triển
sản xuất, phát triển ngành nghề truyền thống, củng cố hợp tác xã chưa được
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệ; công tác chuẩn bị đầu tư đầu tư chậm, nên
chuyển biến về sản xuất chưa rõ nét.
87
Đặc biệt, việc giải ngân nguồn vốn hỗ trợ cho chương trình của các địa
phương rất chậm. Đến nay, toàn tỉnh Quảng Ninh mới giải ngân được 50 tỷ
đồng, đạt gần 17% [16]. Từ đầu năm đến nay, nguồn vốn hỗ trợ chương trình
NTM ở các địa phương phân khai chậm, nhất là việc giải ngân hỗ trợ phát triển
sản xuất đạt được rất thấp, chỉ đạt 8,48% [16]. Nguyên nhân là do công tác phối
hợp phân bổ vốn ở cấp huyện chậm, khi phân bổ còn lúng túng trong việc lựa
chọn mục tiêu, mô hình, dự án. Việc hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc của cấp
huyện đối với các xã, các chủ đầu tư chưa sâu sát. Mặt khác, công tác chuẩn bị
đầu tư lập các dự án, đề án phát triển sản xuất của các địa phương còn lúng túng.
Điển hình là, khi thông báo vốn mới tiến hành họp dân, lấy ý kiến và tiến hành
các bước lập, triển khai dự án. Cùng với đó, các công trình xây dựng kết cấu hạ
tầng và dự án phát triển sản xuất đã có khối lượng công trình, nhưng chưa hoàn
thiện hồ sơ để giải ngân. Hết tháng 6-2014, theo báo cáo của các địa phương,
khối lượng hoàn thành ước đạt 120 tỷ đồng, đạt trên 40% kế hoạch vốn [16].
Đáng chú ý là, đến nay chưa có chính sách hỗ trợ cho việc thực hiện các
dự án, đề án phát triển sản xuất tập trung, bởi các tỉnh mới đang chỉ vận dụng
các chính sách khuyến nông, khuyến công, ứng dụng khoa học - công nghệ...,
nên chỉ hỗ trợ cho mô hình mới. Khi mô hình thành công, chuyển sang giai đoạn
nhân rộng cũng chỉ được hỗ trợ kinh phí tập huấn, tuyên truyền... Một hạn chế
nữa là do sản xuất nông nghiệp trên địa bàn còn mang nặng tính thời vụ, dẫn đến
nhu cầu về vốn cũng chỉ mang tính thời vụ...
Hai là, lãnh đạo xây dựng quy hoạch xây dựng NTM chậm, quy hoạch
chưa thật khoa học và hợp lý.
Trong những năm qua, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH chưa chú trọng đúng
mức, chưa tập trung cao độ vào việc lãnh đạo công tác quy hoạch NTM, nên
còn có tình trạng: trong giai đoạn lập quy hoạch chung, nhiều địa phương còn
có tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại vào cấp trên; chất lượng đội ngũ tư vấn xây dựng
quy hoạch thiếu và yếu, dẫn đến đồ án phải điều chỉnh nhiều lần, không bảo
đảm tiến độ, chất lượng; nhiều địa phương phải điều chỉnh quy hoạch. Công
88
tác xây dựng, thực hiện kế hoạch chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến đầu
tư dàn trải, kém hiệu quả. Việc công bố đề án còn mang tính chiếu lệ, chưa
kịp thời. Nhiều địa phương chỉ thực hiện công bố, chưa công khai, dẫn đến
việc thực hiện một số dự án chưa bám sát nội dung quy hoạch. Ngoài ra, công
tác cắm mốc quy hoạch – một nội dung cần thiết trong công tác quy hoạch
NTM cũng như trong công tác xây dựng NTM nói chung; góp phần hiệu quả
cho việc quản lý xây dựng NTM theo quy hoạch - mặc dù đã được hướng dẫn
và đôn đốc nhiều lần, nhưng các địa phương hầu như chưa thực hiện.
Việc lấy ý kiến của nhân dân về quy hoạch NTM cũng chưa được thực
hiện theo đúng quy định. Ở một số địa phương, chính quyền đã thực hiện việc
phát phiếu khảo sát đến từng hộ dân để lắng nghe ý kiến đóng góp, tuy nhiên
không phải tất cả người dân đều hiểu rõ về việc quy hoạch, chủ yếu mới tập
trung vào các nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của cấp xã, lập dự án xây dựng công
trình hạ tầng công cộng, chưa quan tâm triển khai các nhiệm vụ của cấp thôn và
cấp hộ gia đình: thôn NTM, gia đình NTM
Ba là, chưa lãnh đạo huy động được các nguồn lực, phát huy tốt tiềm
năng, thế mạnh của địa phương trong xây dựng NTM.
Trong lãnh đạo huy động các nguồn lực xây dựng NTM, nhiều vấn đề quan
trọng chưa được các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH quan tâm như: tính đa dạng trong huy
động nguồn lực, tính ưu tiên trong việc phân bổ nguồn lực, tính khả thi trong huy
động nguồn lực từ cộng đồng, tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực, tính
công khai và minh bạch trong quản lý nguồn lực Bên cạnh đó, những yếu tố có
tác động đến quá trình huy động và phân bổ nguồn lực xây dựng NTM chưa được
các tỉnh ủy và các cấp ủy đảng quan tâm chỉ đạo kịp thời. Tình trạng chung là, các
tỉnh ủy chưa xác định rõ các nguồn lực ngoài phần kinh phí hỗ trợ của Trung ương
cho xây dựng NTM; các nguồn lực về nhân lực, vật lực; cơ cấu các nguồn lực; kinh
phí có và kinh phí vay ngân hàng; thời điểm có các nguồn lực và phương án sử
dụng các nguồn lực; v.v.. Nhiều địa phương đã huy động sự đóng góp của người
dân quá mức, vay vốn ngân hàng vượt xa khả năng trả nợ lãi và vốn vay.
89
Bốn là, lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa hiệu quả,
chậm cải thiện mức thu nhập của nông dân.
Nhìn chung, sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh vùng ĐBSH có chuyển biến,
nhưng vẫn còn manh mún, khó áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chưa tháo gỡ
được những khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả chưa cao. Cơ cấu lao động
nông thôn chuyển dịch chậm, cơ bản vẫn là thuần nông. Năng suất, chất lượng
và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu và
chuyển giao khoa học - công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm. Việc sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm và
lúng túng. Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước ở khu vực nông thôn, liên
quan đến nông nghiệp còn thấp. Doanh nghiệp tư nhân là động lực quan trọng
trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn,
nhưng quy mô nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị,
hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng.
Khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và
nông thôn đang có xu hướng ngày càng giãn ra. Nhiều vùng nông thôn thiếu nước
sinh hoạt, thiếu các dịch vụ công cộng tối thiểu. Đáng quan tâm nhất ở nông thôn
là tình trạng thiếu việc làm đang rất nghiêm trọng, không chỉ trong những tháng
nông nhàn, mà ngày càng nghiêm trọng tại những vùng đất đai chuyển sang công
nghiệp hoặc dịch vụ, người dân sau khi nhận được một số tiền đền bù ít ỏi đã trở
nên “trắng tay”, không nghề nghiệp, buộc phải di chuyển ra thành thị. Cái nghèo
bám theo họ từ nông thôn ra thành thị, làm tăng thêm số người nghèo vốn đã khá
đông ở thành thị. Hàng chục vạn phụ nữ nông thôn phải dời xa quê hương, kể cả
đi lao động ở nước ngoài, đi kiếm tiền gửi về nuôi sống gia đình.
Năm là, lãnh đạo phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường sinh thái
chưa đáp ứng yêu cầu đề ra.
Là các địa phương có điều kiện thuận lợi trong phát triển giáo dục và y tế,
trong quá trình lãnh đạo xây dựng NTM, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đã tiếp tục phát
90
huy thế mạnh này của địa phương. Hầu hết các xã đều đạt tiêu chí về phổ cập giáo
dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi;
phổ cập giáo dục trung học cơ sở; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở được
tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, trung cấp) đạt trên 90%. Tuy nhiên, ở
nông thôn các tỉnh vùng ĐBSH đang có tình trạng tồn tại nhiều cơ sở khám chữa
bệnh, các trung tâm y tế; ở các tỉnh có các huyện miền núi hình thành hệ thống
điểm trường với chất lượng, hiệu quả giáo dục thấp. Nhiều xã khó đạt tiêu chí tỷ lệ
người dân tham gia bảo hiểm y tế trên 85%; xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế; tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, thể thấp còi (chiều cao theo tuổi) dưới 26,7%
theo quy định. Các tỉnh ủy còn lúng túng trong lãnh đạo giải quyết tình trạng này.
Trong 19 tiêu chí quy định trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng NTM,
vấn đề môi trường thuộc tiêu chí 17; trong đó, có 5 nội dung: tỷ lệ được sử dụng
nước sạch hợp vệ sinh theo quy chuẩn quốc gia; các cơ sở sản xuất kinh doanh
đạt tiêu chuẩn về môi trường; không có các hoạt động gây suy giảm môi trường
và có các hoạt động phát triển môi trường xanh, sạch, đẹp; nghĩa trang được xây
dựng theo quy hoạch; chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo quy định.
Tuy nhiên, sự lãnh đạo của các tỉnh ủy về thực hiện tiêu chí này nhìn chung còn
yếu, môi trường nông thôn đang có nhiều vấn đề bức xúc, nhiều nơi có xu
hướng ô nhiễm nhiều hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người dân cũng
như mục tiêu phát triển nền nông nghiệp sạch.
Văn hóa nông thôn chậm chuyển biến, nhưng chưa được các tỉnh ủy quan
tâm đúng mức. Nếp sống văn minh, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao ở
khu vực nông thôn vẫn chậm được cải thiện. Chất lượng gia đình văn hóa, làng
văn hóa ở nhiều nơi chưa đảm bảo. Một số tệ nạn xã hội, hủ tục lạc hậu vẫn
chưa có xu hướng giảm.
Sáu là, HTCT cơ sở nông thôn chưa thật sự vững mạnh, QP, AN, trật tự,
an toàn xã hội ở nông thôn chưa thật vững chắc.
Nhìn chung, HTCT ở nông thôn chưa thực sự vững mạnh. Các tỉnh ủy
lãnh đạo sự phối hợp giữa các các tổ chức trong HTCT các cấp còn yếu. Việc
91
quản lý theo pháp luật nhiều nơi còn lúng túng, hiệu quả thấp, có nơi để xảy ra
tiêu cực. Ở m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_cac_tinh_uy_o_vung_dong_bang_song_hong_lanh_dao_xay.pdf