MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 14
1.1. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề 14
1.2. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - gia đình làng nghề 18
1.3. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - nghề nghiệp làng nghề 22
1.4. Hướng nghiên cứu về cấu trúc xã hội - dân số làng nghề 26
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ
DÂN LÀNG NGHỀ34
2.1. Các khái niệm cơ bản 34
2.2. Một số lý thuyết 53
2.3. Một số quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước liên quan
đến đề tài61
Chương 3: THỰC TRẠNG CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂNLÀNG NGHỀ70
3.1. Một số đặc điểm của làng nghề đồng bằng sông Hồng 70
3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội và làng nghề ở huyện Thường tín 73
3.3. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Vạn Điêm và xã Duyên Thái 75
3.4.Các phân hệ cấu trúc xã hội của làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng
nghề sơn mài Hạ Thái80
3.5. Phân tích mô hình công ty nghề và mô hình gia đình nghề của làng
nghề gỗ Vạn điểm và làng nghề sơn mài Hạ thái107
Chương 4: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CẤU TRÚC XÃ HỘI
CƯ DÂN LÀNG NGHỀ VÀ GỢI Ý MỘT SỐ GIẢI PHÁP125
4.1. Một số yếu tố tác động đến cấu trúc xã hội cư dân làng nghề 125
4.2. Một số vấn đề đặt ra và gợi ý một số giải pháp 144
KẾT LUẬN 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156
191 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cấu trúc xã hội của cư dân làng nghề đồng bằng Sông Hồng hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên gần 4
km2 với dân cư hơn 4.000 người. Diện tích đất canh tác 385,4 ha, bình quân
ruộng đất trồng trọt cho một nhân khẩu trực tiếp sản xuất 300 m2, do đặc điểm
đồng ruộng cao, trũng đan xen nên trước kia đến 90% diện tích chỉ cấy được
một vụ lúa, đến nay cấy lúa cả hai vụ. Ngoài việc coi trọng nông nghiệp, từ
trước đến nay người dân Duyên Thái còn làm nhiều nghề phụ, phi nông nghiệp
như: đan tre, thợ mộc, thợ nề, thợ in, hàng vàng (làng Duyên Trường và Phúc
Am), nghề sơn mài (làng Hạ Thái) tùy theo độ tuổi, trình độ và sức khỏe của
mỗi nhóm dân cư.
79
Từ những năm 1950, nghề sơn mài truyền thống của xã khá phát triển.
Xã đã thành lập hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Bình Minh, có thời điểm cao nhất
thu hút trên 600 lao động chuyên sản xuất hàng xuất khẩu nổi tiếng ở các nước
xã hội chủ nghĩa (trước đây). Từ năm 1986, bắt đầu thời kỳ đất nước đổi mới
nghề sơn mài càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, làng nghề đã ứng dụng
công thức mới (đa phần chuyển từ sơn ta sang sơn dầu hạt điều trộn với đất phù
sa sông Hồng). Xã Duyên Thái có ba làng trong đó hai làng Hạ Thái và Duyên
Trường được công nhận là làng nghề (UBND tỉnh Hà Tây công nhận làng Hạ
Thái là làng nghề năm 2001. Làng Duyên Trường năm 2005) [5].
Về cấu trúc kinh tế của xã, bên cạnh sản xuất nông nghiệp, xã chú trọng
kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Bảng 3.2: Cấu trúc kinh tế - ngành theo giá trị và tỉ trọng sản lượng
của xã Duyên Thái, năm 2013
Ngành kinh tế
Tổng giá trị
sản phẩm năm
(Tỷ đồng)
Tỉ trọng phát
triển kinh tế
(%)
Nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi) 26,0 9,16
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 152,1 53,59
Thương mại, dịch vụ 105,7 37,25
Tổng 283,8 100
Nguồn: Báo cáo UBND xã Duyên Thái năm 2013 [101]
Theo báo cáo của UBND xã, năm 2013 thu nhập đầu người bình quân
trong xã ước đạt 20 triệu đồng/người/năm.
Người dân xã Duyên Thái trồng lúa và một số cây nông nghiệp khác với
giá trị sản phẩm cây trồng cao. Năm 2013, tổng sản phẩm kinh tế nông nghiệp
đạt 26 tỷ đồng. Ngoài ra, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng,
thương mại dịch vụ đạt 152,1 tỷ đồng, chiếm 53,59%.
Xã Duyên Thái có những bước chuyển dịch kinh tế đáng kể. Tuy nhiên,
từ năm 2010 trở lại đây, sản phẩm sơn mài của làng nghề giảm, ảnh hưởng
80
đến sự phát triển kinh tế của xã. Mặc dù vậy, các hoạt động trong xã vẫn được
triển khai đảm bảo sự ổn định. Tình hình trật tự an ninh xã hội, đảm bảo an
sinh xã hội, cuộc sống cư dân lành mạnh. Làng nghề sơn mài Hạ Thái có
doanh thu hàng năm ước đạt 70 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng chủ yếu trong cấu
trúc kinh tế xã Duyên Thái.
3.4. CÁC PHÂN HỆ CẤU TRÚC XÃ HỘI CỦA CƯ DÂN LÀNG NGHỀ ĐỒ
GỖ VẠN ĐIỂM VÀ LÀNG NGHỀ SƠN MÀI HẠ THÁI
3.4.1. Cấu trúc xã hội - dân số
3.4.1.1. Cấu trúc xã hội - giới tính
Năm 2013, làng Vạn Điểm có 708 hộ gia đình với tổng dân số là 2.328
người, trong đó là nam chiếm 48,75% (1.135 người), nữ chiếm 51,24% (1.193
người), trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm tới 58,73% tạo ra
nguồn nhân lực khá lớn để làm nghề và phát triển nghề. Làng Hạ Thái có 1.046
hộ gia đình, với tổng số nhân khẩu 3.618 người, với cấu trúc giới tính: nam
chiếm 53,01% (1.918 người), nữ chiếm 46,98% (1.700 người). (Bảng 3.3).
Bảng 3.3: Cấu trúc xã hội - giới tính của cư dân làng nghề
Làng nghề đồ gỗ
Vạn Điểm
Làng nghề sơn
mài Hạ Thái
Chung
Giới tính
Số người % Số người % Số người %
Nam 1135 48,75 1918 53,01 3053 51,35
Nữ 1193 51,24 1700 46,98 2893 48,65
Tổng số 2328 100 3618 100 5946 100
Nguồn: Số liệu thống kê của xã năm 2013
Tìm hiểu thực tế tại hai làng nghề, quan niệm của cư dân làng nghề hiện
nay ít có phân biệt giữa con trai và con gái, song có sự phân công lao động tương
đối rõ theo giới tính. Phỏng vấn sâu một chủ hộ gia đình làm nghề cho biết:
Ở làng nghề em, bây giờ quan niệm về sinh con trai hay con gái
không quá nặng nề, con nào cũng cần được ăn, học và rồi có công
ăn việc làm. Anh cứ đi quan sát cả làng em thì thấy, nếu là phụ nữ
81
thì có việc của phụ nữ như đánh giấy ráp, cho đến đứng điều khiển
máy đục vi tính, làm những việc phù hợp với sức phụ nữ, còn nam
giới làm thợ pha gỗ, thợ ngang. Làng mình có nghề nên nhiều nam
giới đến đây làm thợ rồi lấy vợ luôn tại làng nghề”. (PVS, nữ chủ
hộ gia đình, làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm).
Quan niệm của cư dân làng nghề sơn mài Hạ Thái, vị thế của phụ nữ
trong làng nghề được đánh giá cao. Khi hỏi về vấn đề này, một nghệ nhân
làng nghề sơn mài Hạ Thái cho rằng:
“Phụ nữ ở làng rất được nhân dân coi trọng, bởi nghề sơn mài lao
động nữ làm nhiều hơn nam giới, do vậy họ kiếm tiền chẳng kém gì
nam giới, với tính chịu khó và đôi tay khéo léo, phụ nữ làm nghề
sơn mài rất tốt, hiện nay trong số 4 nghệ nhân của làng được phong
tặng thì có 3 người là nữ”. (PVS, nghệ nhân Nguyễn Thị H, làng
nghề sơn mài Hạ Thái).
Ở cả hai làng nghề tác giả nghiên cứu, người thợ - cư dân làng nghề
đều dạy nghề cho cả con gái, kể cả những người địa phương khác đến học
nghề và làm thợ tại làng. Điều này thể hiện rõ nét qua những công ty nghề,
ngoài địa điểm đặt tại làng nghề, còn đặt ở một số địa phương khác, lấy lao
động ở địa phương đó luôn.
Một số cặp vợ/chồng trong làng nghề xây dựng gia đình trên cơ sở
quen biết qua quá trình học nghề, khi phỏng vấn về hoàn cảnh nào anh/chị
quen biết nhau và trở thành vợ/chồng một Giám đốc công ty TNHH sơn mài
cho biết thêm:
Thời kỳ trước năm 2008, làng nghề sơn Hạ Thái rất phát triển, do
vậy rất nhiều người học nghề sơn mài, lúc đó công ty mình có nhận
thợ về học và làm sơn mài, mình là người dạy vẽ, trong số những
người học thì có vợ mình bây giờ, vợ mình thì bên làng Duyên
82
Trường đến học nghề, có thể nói nhờ việc dạy nghề sơn mài vợ,
chồng mình lấy nhau”. (PVS nam, Giám đốc Công ty TNHH sơn
mài Th-S).
3.4.1.2. Cấu trúc xã hội - độ tuổi
Về độ tuổi của dân số làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm và làng nghề sơn mài
Hạ Thái được chia thành bốn nhóm tuổi: Làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm: dưới 15
tuổi có 22,56% ; từ 15-24 tuổi có 350 người, chiếm 15,03; từ 25-55 tuổi có
1017, chiếm 43,69, trên 55 tuổi có 436 người chiếm 18,72; làng nghề sơn mài
Hạ Thái: dưới 15 tuổi có 858 người, chiếm 23,7%; từ 15-24 tuổi có 470
người, chiếm 13,0%; từ 25-55 tuổi có 1673 người, chiếm 46,2%; trên 55 tuổi
có 617 người, chiếm 17,1%. (xem Biểu 3.1).
Đơn vị: %
22,56
23,7 23,3
15,03 13
13,7
43,69
46,2 45,3
18,72
17,1
17,7
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
Dưới 15
tuổi
Từ 15-
24 tuổi
Từ 25-
55 tuổi
Trên 55
tuổi
Làng Vạn điểm Làng Hạ Thái Chung
Biểu 3.1: Cấu trúc xã hội - tuổi của người dân làng nghề
Nguồn: Số liệu thống kê của luận án, năm 2013.
Có thể thấy rằng, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động ở cả hai làng khá cao,
làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm có 58,72% tỉ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15-55
tuổi và làng nghề sơn mài Hạ Thái, tỉ lệ người trong độ tuổi lao động từ 15-55 tuổi
là 59,2%. Cấu trúc xã hội - tuổi của hai làng nghề này là tương đối giống nhau.
83
Như vậy, cả hai làng có một nguồn nhân lực lao động dồi dào, đã tạo điều
kiện cho sẵn sàng cho các hoạt động nghề nghiệp của làng nghề, đồng thời đang
tiếp bước để làng nghề phát triển.
Cấu trúc xã hội - vị thế và vai xã hội của các thành viên gia đình
Tìm hiểu thực tế ở hai làng nghề, tác giả biết được cư dân làng nghề, ngoài
kính nể những người cao tuổi (giá trị trọng người già), thì độ tuổi từ 25-55 cũng rất
được coi trọng. Bởi vì, họ là những người truyền nghề cho con cháu, đồng thời là
những lao động chính trong làng nghề và một số còn là chủ doanh nghiệp giỏi.
Tìm hiểu vị thế, vai trò của thành viên gia đình cư dân làng nghề, kết quả thu
được như sau: Vị thế ông/bà có vai trò quyết định trong các việc của làng, dòng họ -
chiếm 30,5%; việc hiếu - chiếm 21,2%. Vị thế bố/mẹ có vai trò quyết định chính
trong sản xuất, kinh doanh - chiếm 93,0%; định hướng nghề nghiệp cho con cái -
chiếm 90,1%; mua sắp các đồ dùng đắt tiền - chiếm 89,5%. Vị thế con cái có vai trò
chủ yếu trong việc học tập (bảng 3.4).
Bảng 3.4: Cấu trúc vị thế - vai xã hội của các thành viên trong
gia đình làng nghề
Đơn vị: %, N=515
Công việc Ông/bà Bố/mẹ Con
cái
1. Sản xuất, kinh doanh 4,7 93,0 2,3
2. Học tập của con cái 4,9 28,2 67,0
3. Định hướng nghề nghiệp cho con/cháu 5,2 90,1 4,7
4. Trong việc hỷ 7,8 62,5 2,7
5. Trong việc hiếu 21,2 77,3 1,6
6. Mua sắm các đồ dùng đắt tiền 6,6 89,5 3,9
7. Công việc của làng, dòng họ 30,5 67,2 2,3
8. Xây nhà, sửa chữa nhà cửa 20,4 77,7 1,9
9. Chuyển đổi nghề nghiệp 17,5 76,1 6,4
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
84
Bảng 3.4, cho biết vị thế bố/mẹ có vai trò quyết định chính trong hầu hết
các công việc, song trong việc học tập của con cái thì ông/bà và bố/mẹ ưu tiên
quyền quyết định, đồng thời để con cái chủ động trong việc học tập của mình.
Nguồn hỗ trợ khi gặp khó khăn của chủ hộ gia đình chủ yếu dựa vào
người thân trong gia đình - chiếm 32,2% (166/515), người có uy tín trong
dòng họ - chiếm 27,6% (142/155); đặc biệt có đến 14,4% chủ hộ gia đình ý
kiến và nhờ chính quyền địa phương, các đoàn thể xã hội ở làng-xã, điều đó
cho thấy sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội trong hoạt động nghề
nghiệp ở làng nghề có vai trò quan trọng.
Vai trò của chủ hộ gia đình đối với gia đình, dòng họ và cộng đồng,
được chủ hộ gia đình tự đánh giá ở phạm vi gia đình là “rất quan trọng” có tỷ
lệ cao nhất - chiếm 71,1%, vai trò đối với dòng họ - chiếm 16,3% và với cộng
đồng làng nghề - chiếm 14,%.
Vốn xã hội ở làng nghề luận án nghiên cứu, chủ yếu thể hiện ở mạng
lưới các quan hệ gia đình, xã hội mà người lao động dựa vào đó để tìm kiếm
cơ hội việc làm và trợ giúp về tài chính lúc gặp khó khăn. Chẳng hạn những
gia đình thuộc diện khá giả, có thời gian làm nghề nhiều thế hệ, thâm niên
làm nghề lâu năm, chủ hộ gia đình có học vấn cao thì có thể có mạng lưới xã
hội đa dạng và họ sử dụng mạng lưới này cho các mục đích tìm việc làm hay
nguồn tài chính nhiều hơn so với người ở nhóm thấp hơn.
Ngoài ra các gia đình nghề và công ty nghề sử dụng mạng lưới xã hội,
vốn xã hội có được để vận động, tương tác trong hoạt động nghề. Điều này có
thể nhận biết thông qua phỏng vấn sâu một cán bộ xã:
Hiệp hội làng nghề và toàn thể nhân dân làm nghề trong thôn có
vai trò cốt yếu trong tổ chức các sự kiện quan trọng của làng.
Nhiều sự kiện, nhờ có đóng góp về nhân lực và kinh phí của họ mới
thành công (PVS, nữ, cán bộ xã Duyên Thái).
85
Điều này minh chứng cho lý thuyết hệ thống của Parson khi cho rằng
hệ thống xã hội tạo nên những vai trò khác nhau duy trì các mối quan hệ trong
hội trong mạng lưới xã hội.
3.4.1.3. Cấu trúc xã hội - học vấn
Có thể thấy rõ vẫn còn một số lượng không nhỏ lực lượng lao động
trong các làng nghề có trình độ ở mức phổ thông. Chung cho cả hai làng
nghề: trình độ tiểu học là 11,8%; THCS là 39,8%, THPT 33,1% và trình độ
cao đẳng, đại học chỉ có 4,8% (xem bảng 3.5). So với trình độ học vấn chung
của lực lượng lao động cả nước, cấu trúc trình độ học vấn của hai làng nghề là
gần tương đương nhau mặc dù tỉ lệ trình độ cao đẳng, đại học có thấp hơn
chút ít, rất có thể là do mẫu khảo sát có một tỉ lệ lớn những người từ trung
niên trở lên, những người này trước đây không có điều kiện đi học hết trung
học phổ thông hoặc không được học cao đẳng, đại học.
Khảo sát mẫu nghiên cứu 425 chủ hộ gia đình làm nghề thu được kết
quả như sau: trình độ tiểu học có 4%, THCS có 29,9%, THPT có 64%, trěnh
độ trung cấp trở lên có 2,1%. Trình độ học vấn của chủ hộ gia đình làm nghề
không cao và không đồng đều trong các hộ gia đình. Đa phần những cặp
vợ/chồng ở gia đình làm nghề đều có trình độ học vấn trung bình (chủ yếu
học hết THPT). Điều này được lý giải, do sản xuất hộ gia đình chủ yếu dựa
trên kinh nghiệm và thông qua tự học, nên họ quan niệm không nhất thiết học
đến trình độ trên THPT.
Như vậy, phần lớn nguồn lực của cả hai làng nghề tập trung ở trình độ
trung học cơ sở và trung học phổ thông. Xét ở trình độ học vấn cao đẳng, đại
học thì làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm lại có tỉ lệ dân số đạt trình độ học vấn cao
hơn so với làng nghề sơn mài Hạ Thái.
Có thể thấy, về mặt trình độ học vấn trong làng nghề chỉ đạt ở mức
trung bình, tức là mặt bằng chung là trung học phổ thông, khi phát triển lên
86
trình độ cao hơn thì ít hơn. Nguồn nhân lực trong làng nghề chưa thực sự
được coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn. Tuy nhiên, nguồn lực này lại
đầu tư để phát triển trình độ tay nghề, để trở thành nhóm thợ giỏi, một số trở
thành nghệ nhân của nghề.
Bảng 3.5: Cấu trúc xã hội - học vấn của cư dân làng nghề
Làng nghề đồ gỗ
Vạn Điểm
Làng nghề sơn
mài Hạ Thái
Chung
Trình độ học vấn Số
người
Tỉ lệ
%
Số
người
Tỉ lệ
%
Số
người
Tỉ lệ
%
Tiểu học 232 9,9 471 13,1 703 11,8
Trung học cơ sở 884 37,9 1483 41 2367 39,8
Trung học phổ thông 815 35,0 1157 31,9 1972 33,1
Cao đẳng, đại học 139 6,2 148 4,1 287 4,8
Chưa đi học và
không xác định
258 11,0 359 9,9 617 10,5
Tổng số 2328 100 3618 100 5946 100
Nguồn: Báo cáo thống kê (ước tính) của xã, năm 2013
Khi tìm hiểu về việc học tập và định hướng nghề nghiệp cho con cái, đa
số chủ hộ gia đình trong làng nghề được hỏi trả lời: tùy vào khả năng học tập của
con cái chiếm 59,4% (303/515); học đến cao đẳng, đại học 25,8% (133/515) và
chỉ có 14,8% (76/515) cho học nghề truyền thống của làng ( xem Biểu 3.2 ).
Trong đó, quan điểm của chủ hộ gia đình làng nghề sơn mài Hạ Thái
cho con cái học nghề truyền thống chỉ có 4,5%, song làng nghề đồ gỗ Vạn
Điểm tỷ lệ này có tới 26%. Có thể giải thích sự khác biệt này như sau: nghề
đồ gỗ có khả năng tiếp tục phát triển do nhu cầu sử dụng các sản phẩm gỗ của
các hộ gia đình Việt Nam vẫn tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong khi đó nghề sơn mài có thể khó có nhu cầu phát triển như nghề đồ gỗ
bởi vì sản phẩm sơn mài ít là sản phẩm tiêu dùng, sinh hoạt trong các gia
đình. Việc mong muốn cho con vào cao đẳng, đại học cũng là một yếu tố làm
giảm sút động cơ học nghề và làm nghề truyền thống của gia đình.
87
59,4%
14,8%
25,8%
Học nghề truyền thống của làng
Học cao đẳng, đại học
Tùy khả năng của con cái
Biểu 3.2: Định hướng nghề nghiệp cho con cái
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án, năm 2013
Thực tế cho thấy ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, số các em học sinh thi
đỗ vào các trường cao đẳng, đại học sau khi tốt nghiệp thường tìm kiếm được
công ăn việc làm, rồi thoát ly địa phương; còn ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
số tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp họ lại trở về làng nghề tiếp tục làm
nghề với tư duy của người có trình độ đã được đào tạo. Điều này rất tốt cho
sự phát triển của gia đình và của làng nghề. Khi tìm hiểu vấn đề này, tác giả
nhận được ý kiến của một Giám đốc Công ty đồ gỗ như sau:
Ở đây, rất nhiều người học cao đẳng, đại học xong không tìm được
việc làm ngay, thì trở về làng nghề tiếp tục sản xuất, kinh doanh,
nhưng số đó có tính toán tốt hơn, giao tiếp với khách hàng tốt hơn,
khi tạo dựng được cơ sở thì họ ở lại làm kinh tế gia đình, không có
ý định đi làm ở cơ quan, doanh nghiệp nữa. (PVS nam, Giám đốc
Công ty TNHH đồ gỗ V-Ph).
88
Còn ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, qua khảo sát tác giả nhận thấy, đa số
các gia đình trong làng nghề quyết tâm cho con cái học tập để có một nghề
nghiệp nhất định. Họ cho rằng làm nghề sơn mài tương đối vất vả và độc hại.
Đối với nhóm thanh niên ở làng nghề thì cũng có tâm lý đi làm việc gì khác,
nếu không học được nghề khác thì họ mới làm nghề truyền thống của làng.
Tóm lại: Nhóm cư dân được coi trọng trong làng nghề vẫn là các thợ
giỏi, nghệ nhân. Nhiều thợ giỏi, nghệ nhân trẻ đang được phát triển, mặc dù
vẫn phải đối mặt với xu hướng chênh lệch giới tính trong các gia đình làm
nghề. Trong làng nghề có một nguồn nhân lực dồi dào, đáp ứng cho sự phát
triển nghề của làng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong làng vẫn còn hạn chế
nhiều về trình độ học vấn. Do vậy, để phát triển nghề và nâng cao trình độ tay
nghề, cần nâng cao trình độ học vấn của cư dân làng nghề.
3.4.2. Cấu trúc xã hội - gia đình
3.4.2.1.Cấu trúc xã hội - gia đình, theo quy mô gia đình
Quy mô gia đình là đơn vị đo lường dùng để chỉ độ lớn, nhỏ của gia
đình cho thấy số thành viên cùng chung sống trong một hộ gia đình, thông
thường gồm ông/bà, bố/mẹ, con cái và những thành viên khác. Quy mô gia
đình ở đồng bằng sông Hồng nói chung phụ thuộc chủ yếu số nhân khẩu trong
gia đình, trên cơ sở số lượng sinh của các cặp vợ chồng và kiểu sống chung
giữa các thế hệ. Tuy nhiên, thực tế đối với trường hợp hai làng nghề tác giả
nghiên cứu, quy mô gia đình làm nghề còn bị chi phối bởi cách thức tổ chức
lao động trong gia đình.
Kết quả khảo sát cho thấy, có sự đa dạng về số nhân khẩu trong các hộ
gia đình ở làng nghề: có hộ gia đình 1 người, có hộ gia đình 2-3 người, có hộ
gia đình 4-5 người và có cả hộ gia đình trên 6 người. Tỷ lệ hộ gia đình có 4-5
người chiếm 42,6%; hộ gia đình có từ 2-3 người chiếm 39,4%. Quy mô gia
đình giữa hai làng nghề có sự khác biệt về. Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái số
89
nhân khẩu trong hộ gia đình tập trung chủ yếu có 2-3 người chiếm 56,1%; 4-5
người chiếm 40,1%; hộ có 1 người và trên 6 người đều bằng 1,9% (Bảng 3.6).
Song, ở làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm số hộ gia đình có trên 6 người
chiếm đến 36,5%, cao hơn nhiều so làng nghề sơn mài Hạ Thái. Điều này
được lý giải do các yếu tố kinh tế - xã hội làng nghề và tâm lý xã hội của mỗi
làng nghề khác nhau. Theo truyền thống ở làng nghề sơn mài Hạ Thái quá
trình tách hộ diễn ra thường xuyên, khi bố mẹ xây dựng hạnh phúc cho con
trai hoặc con cái thì sau một thời gian ngắn, bố mẹ cho tách hộ ra ở riêng khỏi
gia đình bố mẹ để những cặp vợ chồng mới cưới trở thành những hộ gia đình
mới. Tâm lý bố mẹ thường muốn sống cùng một trong những người con của
họ, ở làng nghề sơn mài Hạ Thái bố mẹ thường sống với gia đình con trai cả.
Ở làng nghề sơn mài Hạ Thái mình, gia đình nào có từ hai anh em
trai trở lên khi xây dựng gia đình xong, thì thường bố, mẹ cho ở
riêng để biết lo tính kinh tế, công việc làm nghề cũng bận, nhiều khi
đến nửa tháng mới đến nhà bố, mẹ thăm hỏi. (PVS, nam, 38 tuổi,
gia đình làm nghề Làng nghề sơn mài Hạ Thái).
Bảng 3.6: Cấu trúc xã hội - gia đình theo quy mô của làng nghề
Làng nghề đồ
gỗ Vạn Điểm
Làng nghề sơn
mài Hạ Thái
Chung
Số người
trong hộ Số hộ Tỷ lệ % Số hộ Tỷ lệ % Số hộ Tỷ lệ %
1 người 16 2,2 20 1,9 36 2.0
2-3 người 105 14,8 586 56,1 691 39.4
4-5 người 328 46,5 420 40,1 748 42,6
> 6 người 259 36,5 20 1,9 279 16,0
Tổng 708 100 1046 100 1754 100
Nguồn: Số liệu báo cáo UBND 2 xã, năm 2013
Cấu trúc xã hội - gia đình của làng nghề như vậy, cho thấy rõ sự pha
trộn và cùng chung sống của các thành phần gia đình về mặt kinh tế và cấu
trúc, loại hình gia đình. Bên cạnh đó, đa số cư dân làng nghề đồ gỗ Vạn Điểm
90
có tâm lý muốn sống nhiều người cùng một hộ gia đình; mặt khác do cách
thức sản xuất đồ gỗ theo mô hình hộ gia đình phần nào cũng làm cho số nhân
khẩu trong gia đình nhiều hơn.
Thực tế tìm hiểu tại làng nghề, tác giả được biết có nhiều thanh niên
nam giới từ địa phương khác đến làng Vạn Điểm học nghề, làm thợ mộc, rồi
cưới vợ là người làng nghề. Tỷ lệ này chiếm 10% số hộ gia đình làm nghề.
Như vậy, có sự chuyển biến trong quan niệm cư dân làng nghề về việc hôn
nhân - gia đình; nghĩa là vẫn duy trì khuôn mẫu hôn nhân “hướng nội”, hôn
nhân trong nội bộ làng nghề, song đã có đan xen, bổ sung hôn nhân “hướng
ngoại”, người của làng nghề lấy chồng người ngoài làng. Điều này góp phần
làm phong phú, đa dạng cấu trúc xã hội - hôn nhân của làng nghề trong xã hội
đang “mở cửa” hiện nay.
Cùng nói về chủ đề gia đình khi phỏng vấn sâu chủ cơ sở sản xuất đồ
gỗ làng nghề Vạn Điểm được biết:
Số gia đình làng em ở cùng ông/bà khá nhiều, phần thì đất ở làng
không rộng so với các làng khác, ông/bà cũng không có điều kiện
để mua đất thêm cho con cái khi xây dựng gia đình, nên việc ở
chung, ăn chung là bình thường, hơn nữa công việc làm mộc suốt
ngày bận rộn nên ở cùng ông/bà có rất nhiều thuận lợi, ông bà nấu
cơm và trông nom các cháu, xưởng nhà em ở đây chủ yếu là dành
cho thợ, còn các cháu ở trong nhà trong làng cùng ông/bà. (PVS,
nữ, gia đình làm nghề đồ gỗ, làng nghề Vạn Điểm).
3.4.2.2. Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề
Đối với gia đình nghề, những người thợ làm nghề phần lớn là các thành
viên của gia đình như bố, mẹ, con trai, con gái ở độ tuổi lao động trong gia
đình, tức là các thành viên của gia đình đều có thể tham gia vào một hoặc
nhiều khâu của quy trình sản xuất nghề nghiệp tùy theo trình độ tay nghề, giới
91
tính để làm những công việc phù hợp. Trong đó, thường chủ hộ gia đình là
người chịu trách nhiệm chính về kỹ thuật, quản lý, điều hành và giao dịch với
khách hàng và bạn nghề, gia đình nghề khác trong làng. Qua khảo sát cho
thấy, số người làm nghề truyền thống trong gia đình như sau: đa số có 2 người
làm nghề - chiếm 60,3%; 3 người làm nghề - chiếm 22,3%. Về cấu trúc nguồn
nhân lực của các gia đình làm nghề có sự khác nhau giữa hai làng nghề (xem
Bảng 3.7).
Bảng 3.7: Cấu trúc xã hội - gia đình nghề theo số lượng lao động nghề
Làng nghề đồ
gỗ Vạn Điểm
Làng nghề sơn
mài Hạ Thái Chung Loại hộ gia đình theo
số người làm nghề Số
lượng Tỉ lệ %
Số
lượng Tỉ lệ %
Số
lượng Tỉ lệ %
1 người 29 5,4 45 5,1 74 5,2
2 người 284 53,0 576 64,8 860 60,3
3 người 133 24,8 185 20,8 318 22,3
4 người 52 9,8 71 8 123 8,6
5 người 37 7,0 12 1,3 49 3,6
Tổng 535 100 889 100 1424 100
Nguồn: Kết quả phân tích báo cáo của UBND xã, năm 2013
Như vậy, bảng 3.7 cho thấy cấu trúc - xã hội của gia đình nghề ở làng
nghề đồ gỗ Vạn Điểm trong đó cấu trúc gồm 2 người chiếm 53,0%; cấu trúc
gồm 3 người làm nghề chiếm 24,8% và chỉ có 5,4% số gia đình có 1 người làm
nghề. Đặc biệt, có 16,8% số hộ có 4-5 người làm nghề. Ở làng nghề sơn mài Hạ
Thái cấu trúc này có tỷ lệ như sau: có 2 người làm nghề là 64,8%, có 3 người
làm nghề là 20,8% và chỉ có 5,1% số hộ có 1 người làm nghề. Số gia đình có 4-5
người là 9,3%. Các số liệu này chứng tỏ cấu trúc xã hội - gia đình nghề có quy
mô lao động rất nhỏ bé và phù hợp với loại gia đình hạt nhân ít người.
Việc phân công lao động của các thành viên trong gia đình làm nghề
đương đối ổn định, đồng thời tạo nên công bằng giới giữa vợ và chồng trong gia
đình. Thông thường, người chồng làm những công việc cần có sức lực hơn, còn
92
người vợ làm công việc nhẹ nhàng hơn. Khi phỏng vấn sâu một gia đình làm
nghề đồ gỗ, được biết:
Các công đoạn sản xuất từ đầu vào đến đầu ra chủ yếu là người
chồng làm, còn ở các hộ trong làng thì thường là chồng làm, vợ đánh
giấy ráp. (PVS nữ, 1980, gia đình làm nghề, làng Vạn Điểm).
Khi tìm hiểu về chủ đề này, một hộ gia đình chuyên làm vóc cho công
nghề ở làng nghề sơn mài Hạ Thái, cho biết một cách phân công lao động - hợp
tác bình đẳng có thể chấp nhận được:
Khi có hàng nhiều hoặc vội hàng, hai vợ chồng em có hôm làm vóc
đến tận 10 giờ đêm mới kịp để trả hàng, công việc vất vả nhưng đổi
lại làm nhiều thì gia đình lại có tiền công nhiều nên gia đình cảm thấy
chấp nhận được. (PVS, nam, 40 tuổi, chủ gia đình chuyên làm vóc,
làng Hạ Thái).
3.4.2.3. Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề
Về số thế hệ làm nghề truyền thống trong các gia đình nghề, tác giả
phát hiện thấy cấu trúc xã hội chủ yếu là gia đình 2 thế hệ, điều này có nghĩa
là nghề nghiệp được tái tạo, kế tục và phát triển từ thế hệ bố/mẹ sang thế hệ
con. Thực tế ở hai làng nghề, chủ sơ sở sản xuất hiện nay đa phần đã được
tiếp cận với nghề từ những năm học trung học phổ thông. Gia đình bố/mẹ làm
nghề nên khi đó ngoài thời gian đi học họ tiếp cận với nghề thông qua việc
đánh giấy ráp (làng nghề đồ gỗ), làm vóc, mài, đánh bóng (làng nghề sơn
mài) hoặc làm những việc nhẹ nhàng.
Do vậy, đến nay đa số chủ sơ sở sản xuất đều có trình độ tay nghề giỏi do
được học hỏi, tiếp thu nghề từ thế hệ bố mẹ. Điều đó, thể hiện sự tái cấu trúc xã
hội nghề nghiệp này từ thế hệ trước, họ kế thừa những kinh nghiệm, phương
thức sản xuất, những quy tắc trong nghề, đồng thời bổ sung những phương thức
mới giúp việc sản xuất kinh doanh tốt hơn. Số hộ gia đình 2 thế hệ ở làng nghề
93
đồ gỗ Vạn Điểm có tới 85% số hộ gia đình 2 thế hệ cùng làm nghề, như vậy có
sự tiếp nối nghề truyền thống của làng (xem bảng 3.8).
Bảng 3.8: Cấu trúc xã hội - thế hệ của gia đình nghề
Làng nghề đồ
gỗ Vạn Điểm
Làng nghề sơn
mài Hạ Thái Chung Loại hộ gia
đình Số hộ Tỉ lệ % Số hộ Tỉ lệ % Số hộ Tỉ lệ %
Một thế hệ 48 8,9 149 16,8 197 13,8
Hai thế hệ 454 85.0 651 73,2 1105 77.6
Ba thế hệ 33 6,1 89 10 122 8,6
Tổng 535 100 889 100 1424 100
Nguồn: Kết quả phân tích báo cáo của UBND xã, năm 2013.
Phỏng vấn sâu một c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_cau_truc_xa_hoi_cua_cu_dan_lang_nghe_dong_bang_song_hong_hien_nay_nghien_cuu_truong_hop_hai_lang.pdf