MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình khoa học ở nước ngoài
1.2. Các công trình khoa học ở trong nước
1.3. Khái quát kết quả của các công trình nghiên cứu có liên quan và
những vấn đề luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
– NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Giáo dục trung học phổ thông, trường trung học phổ thông công
lập và đội ngũ hiệu trưởng của trường ở các tỉnh đồng bằng
sông Hồng
2.2. Chất lượng đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông công
lập ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng – khái niệm, tiêu chí đánh giá
Chương 3: CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CÔNG LẬP Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG
SÔNG HỒNG TỪ NĂM 2006 ĐẾN NAY – THỰC TRẠNG, NGUYÊN
NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng chất lượng đội ngũ hiệu trưởng trường trung học
phổ thông công lập ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng từ năm
2006 đến nay
3.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG
CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG CÔNG LẬP Ở CÁC TỈNH ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐẾN
NĂM 2025
4.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn và phương hướng nâng cao chất lượng
đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông công lập ở các
tỉnh đồng bằng sông Hồng đến năm 2025
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ hiệu trưởng
trường trung học phổ thông công lập ở các tỉnh đồng bằng sông
Hồng đến năm 2025
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1 66
12
21
24
24
50
63
63
92
105
105
113
144
147
149
161
199 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 412 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng đội ngũ hiệu trưởng trường trung học phổ thông công lập tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệu trưởng
trường THPT công lập các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long có trình
độ sơ cấp lý luận chính trị là 30/159, chiếm 18,9%, trình độ cao cấp lý luận
chính trị là 31/159, chiếm 19,5% [Phụ lục 7].
Đến năm học 2014-2015, hiệu trưởng trường THPT công lập ở 9 tỉnh
thuộc ĐBSH có trình độ cao cấp lý luận chính trị là 34/243, chiếm tỷ lệ
14%; hiệu trưởng trong cả nước có trình độ cao cấp lý luận là 394/1742,
chiếm 22,6%; hiệu trưởng trường THPT công lập ở vùng đồng bằng sông
86
Cửu Long có trình độ cao cấp lý luận chính trị là 66/309, chiếm tỷ lệ 21,4%
[Phụ lục 8].
Như vậy, hiệu trưởng trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH
năm 2008-2009 có trình độ sơ cấp lý luận chiếm tỷ lệ cao hơn so với ĐNHT
trường THPT công lập trong cả nước và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hiệu
trưởng trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH có trình độ cao cấp
lý luận chính trị chiếm tỷ lệ thấp hơn so với ĐNHT trường THPT công lập
trong cả nước và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đến năm học 2014-2015, tỷ
lệ trình độ sơ cấp trong ĐNHT trường THPT công lập ở các tỉnh vùng ĐBSH
có giảm xuống, nhưng trình độ cao cấp lý luận cũng giảm từ 18,8% năm học
2008-2009, xuống 14% [Phụ lục 8].
Trình độ quản lý giáo dục
Theo thống kê của Cục nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, năm
học 2008-2009, hiệu trưởng trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH
có trình độ quản lý giáo dục từ Bồi dưỡng quản lý giáo dục trở lên là 64/85,
chiếm tỷ lệ 75,3%; ĐNHT trường THPT trong các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng
sông Cửu Long có 123/159 hiệu trưởng, chiếm tỷ lệ 77,4% có trình độ quản lý
giáo dục từ Bồi dưỡng quản lý giáo dục trở lên [Phụ lục 7].
Đến năm học 2014-2015, hiệu trưởng trường THPT công lập ở các tỉnh
thuộc vùng ĐBSH có trình độ quản lý giáo dục từ Bồi dưỡng quản lý giáo dục
trở lên là 174/243, chiếm tỷ lệ 71,6%; ĐNHT trường THPT trong các tỉnh
thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 249/309 hiệu trưởng, chiếm tỷ lệ
80,6% có trình độ quản lý giáo dục từ Bồi dưỡng quản lý giáo dục trở lên
[Phụ lục 8].
Như vậy, tỷ lệ hiệu trưởng trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc vùng
ĐBSH có trình độ quản lý giáo dục từ Bồi dưỡng quản lý giáo dục trở lên thấp
hơn các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Sử dụng ngoại ngữ, sử dụng tiếng dân tộc thiểu số
Sử dụng ngoại ngữ:
87
Theo khảo sát, thống kê của Cục nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo
dục, năm học 2008-2009, ĐNHT trường THPT thuộc các tỉnh vùng ĐBSH có
19/85 hiệu trưởng sử dụng được 1 ngoại ngữ trở lên, chiếm tỷ lệ 22,4%; ĐNHT
trường THPT trong cả nước có 346/858 hiệu trưởng sử dụng được 1 ngoại ngữ
trở lên, chiếm tỷ lệ 40,3%; ĐNHT trường THPT trong các tỉnh thuộc vùng Bắc
Trung Bộ có 95/160 hiệu trưởng sử dụng được 1 ngoại ngữ trở lên, chiếm tỷ lệ
59,4% [Phụ lục 7].
Đến năm học 2014-2015, ĐNHT trường THPT thuộc các tỉnh vùng
ĐBSH có 123/243 hiệu trưởng sử dụng được 1 ngoại ngữ trở lên, chiếm tỷ lệ
22,4%; ĐNHT trường THPT trong cả nước có 899/1742 hiệu trưởng sử dụng
được 1 ngoại ngữ trở lên, chiếm tỷ lệ 51,6%; ĐNHT trường THPT trong các tỉnh
thuộc vùng Bắc Trung Bộ có 283/416 hiệu trưởng sử dụng được 1 ngoại ngữ trở
lên, chiếm tỷ lệ 68,0% [Phụ lục 8].
Các số liệu trên cho thấy, năm học 2008-2009, hiệu trưởng trường THPT
công lập ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH sử dụng được một ngoại ngữ trở lên có tỷ
lệ thấp hơn so với tỷ lệ trong cả nước và chưa bằng một nửa của vùng Bắc Trung
Bộ. Đến năm học 2014-2015 tỷ lệ này của vùng ĐBSH đã được tăng lên, nhưng
vẫn còn thấp hơn so với tỷ lệ bình quân của cả nước và vùng Bắc Trung Bộ.
Sử dụng tiếng dân tộc thiểu số:
Theo tổng hợp, thống kê của Cục Nhà giáo và Cán bộ quản lý cơ sở giáo
dục, năm học 2008-2009, ĐNHT trường THPT thuộc các tỉnh vùng ĐBSH có
1/85 hiệu trưởng sử dụng được một tiếng dân tộc trở lên, chiếm tỷ lệ 1,2%;
ĐNHT trường THPT trong cả nước có 49/858 hiệu trưởng sử dụng được một
tiếng dân tộc trở lên, chiếm tỷ lệ 5,7% và ĐNHT trường THPT thuộc các tỉnh
vùng đồng bằng sông Cửu Long có 4/159 hiệu trưởng sử dụng được một tiếng
dân tộc trở lên, chiếm tỷ lệ 2,5% [Phụ lục 7].
Đến năm học 2014-2015, ĐNHT trường THPT thuộc các tỉnh vùng
ĐBSH có 1/243 hiệu trưởng sử dụng được một tiếng dân tộc trở lên, chiếm tỷ lệ
0,4%; ĐNHT trường THPT trong cả nước có 96/1742 hiệu trưởng sử dụng được
88
một tiếng dân tộc trở lên, chiếm tỷ lệ 5,5% và ĐNHT trường THPT ở các tỉnh
thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long có 4/309 hiệu trưởng sử dụng được một
tiếng dân tộc trở lên, chiếm tỷ lệ 1,3% [Phụ lục 8].
Qua số liệu trên cho thấy, năm học 2008-2009, hiệu trưởng trường THPT
công lập ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH sử dụng được một tiếng dân tộc trở lên có
tỉ lệ thấp hơn so với tỉ lệ trong cả nước và thấp hơn cả các tỉnh thuộc vùng đồng
bằng sông Cửu Long. Đến năm học 2014-2015 tỷ lệ này của vùng ĐBSH không
những không tăng lên mà còn giảm đi, tỉ lệ này thấp hơn tỷ lệ của cả nước và các
tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Năng lực lãnh đạo, quản lý
Trong ĐNHT trường THPT công lập ở ĐBSH, vẫn còn một số hiệu trưởng
hạn chế về trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý nhà trường do mình phụ trách;
lúng túng trong xử lý những vấn đề mới phát sinh; khả năng định hướng, dẫn
dắt hoạt động của nhà trường do mình đứng đầu còn nhiều hạn chế; huy động
các đoàn thể trong trường vào hoạt động chuyên môn còn yếu, các phong trào
còn trầm lắng, chưa sôi nổi. Tầm nhìn chiến lược, tư duy sáng tạo của một số
hiệu trưởng còn hạn chế. Một số hiệu trưởng không biết kết hợp giữa phát huy
dân chủ với tăng cường kỷ cương, chấp hành pháp luật, giữa dân chủ với
quyết đoán.
Năm học 2015-2016, Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình đã nhận xét
“Nhiều nhà trường chưa quan tâm đúng mức đến việc tuyên truyền phổ biến
giáo dục pháp luật cho cán bộ, giáo viên và học sinh. Giáo viên không cập nhật
các văn bản mới, chưa nắm vững các quy định nên còn đơn thư vượt cấp, thắc
mắc không đúng quy định” [76, tr. 9].
Tỉnh ủy Hưng Yên đánh giá: "So với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới,
đội ngũ cán bộ, công chức còn nhiều yếu kém, bất cập. Số cán bộ tinh thông
nghiệp vụ, tâm huyết với nghề chưa nhiều. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo,
quản lý có năng lực điều hành yếu, chưa thể hiện rõ vị trí, vai trò của người
đứng đầu” [96, tr. 3]. Năm học 2014-2015, Sở Giáo dục - Đào tạo Hải
89
Dương đánh giá hạn chế của một số cán bộ quản lý: “Năng lực quản lý, điều
hành của một số cán bộ quản lý giáo dục còn yếu, không đảm bảo dân chủ,
kỷ cương, nhất là trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý nhân sự tài
chính tại cơ sở” [66, tr. 12].
Qua kết quả thăm dò ý kiến của 498 cán bộ, đảng viên và nhân dân ở
một số tỉnh ĐBSH về năng lực của ĐNHT trường THPT công lập hiện nay,
cho thấy: Năng lực công tác Đảng, đoàn thể vẫn còn xếp loại ở mức hạn chế
chiếm 6,02%. Uy tín với cán bộ cấp dưới và giáo viên xếp loại ở mức hạn
chế chiếm 1,00%. Uy tín với nhân dân, phụ huynh và học sinh xếp loại ở
mức hạn chế chiếm 7,23%. Khả năng đoàn kết, tập hợp lực lượng xếp loại
hạn chế chiếm 4,02%. Khả năng phát triển xếp loại hạn chế còn chiếm
1,20% [Phụ lục 21b, câu 2].
3.1.2.3. Về ý thức tổ chức kỷ luật và phong cách, lề lối làm việc
* Ý thức tổ chức kỷ luật
Trong ĐNHT trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH vẫn còn một
bộ phận hiệu trưởng ý thức tổ chức kỷ luật chưa cao, thể hiện qua việc chưa chấp
hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, những quy định của cấp ủy, chính quyền địa phương, quy chế làm
việc của ban giám hiệu. Biểu hiện như: Đi làm muộn, về sớm; quản lý cán bộ,
giáo viên lỏng lẻo dẫn đến giáo viên vi phạm pháp luật mới biết; quản lý nhà
trường thông qua báo cáo của cấp dưới; lạm dụng quyền hạn tổ chức dạy thêm
tràn lan, thu, chi không đúng quy định; chuyên quyền, độc đoán, không thực hiện
quy chế dân chủ trong nhà trường; không công khai tài chính của trường; thực
hiện họp giao ban, họp hội đồng, họp chuyên môn tuỳ tiện, vi phạm điều lệ
trường phổ thông. Năm học 2014-2015, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng Ninh
đánh giá hạn chế trong ngành giáo dục: “Vẫn còn có hiện tượng nhà giáo vi
phạm đạo đức nghề nghiệp đến mức phải xử lý kỉ luật” [74, tr. 9].
Năm học 2014-2015, Sở Giáo dục - Đào tạo Hải Dương đánh giá hạn chế
của ngành giáo dục: “Công tác quản lý giáo dục và đào tạo còn có mặt hạn chế,
90
tình trạng dạy thêm ở tiểu học, dạy thêm, học thêm, thu góp không đúng quy
định còn xảy ra ở một số cơ sở [66, tr. 12].
* Phong cách, lề lối làm việc
Khảo sát một số trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH cho
thấy, một bộ phận hiệu trưởng còn thụ động, lúng túng chưa xây dựng được một
phong cách làm việc phù hợp. Trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý còn có mặt
hạn chế, nên một số hiệu trưởng còn thiếu chủ động, sáng tạo trong giải quyết
công việc, chưa đề cao trách nhiệm cá nhân, làm việc còn dựa vào tập thể và cấp
trên, thiếu quyết đoán trong xử lý công việc.
Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, một số hiệu trưởng còn
có biểu hiện thiếu sâu sát, ít gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với cán bộ, giáo viên, nhân
viên dưới quyền; làm việc chủ yếu thông qua nghe báo cáo, ít kiểm tra, đôn đốc
và trực tiếp hướng dẫn cấp dưới thuộc quyền quản lý của mình làm việc hiệu
quả từ đó dẫn đến không nắm chắc tình hình nhà trường, nơi mình phụ trách.
Có những hiệu trưởng kiêm chức bí thư chi bộ đảng trong trường, soạn
thảo nội dung họp hội đồng và sinh hoạt chi bộ trùng lặp nhau. Trong ĐNHT
trường THPT công lập vẫn còn một số hiệu trưởng “nói nhiều, làm ít” hoặc “hứa
suông”; chưa thực sự nhúng tay vào việc để dìu dắt cấp dưới.
Một số hiệu trưởng còn thiếu công tâm, khách quan, chưa nhất quán giữa
lời nói với việc làm. Tính khoa học, tính kế hoạch chưa cao trong phong cách
làm việc của một số hiệu trưởng, khả năng vận động, thuyết phục quần chúng có
mặt còn hạn chế. Có hiệu trưởng còn biểu hiện bao biện, làm thay cả phó hiệu
trưởng, tổ trưởng, song cũng có hiệu trưởng còn làm chưa hết chức trách nhiệm
vụ của mình. Dẫn tới trong một số trường đã nảy sinh mâu thuẫn, năm học 2015
- 2016, Sở Giáo dục - Đào tạo Thái Bình đã đánh giá “có đơn vị mâu thuẫn trong
nội bộ nhà trường trở nên bức xúc dẫn tới hành vi “lệch chuẩn” trong ứng xử sư
phạm trong giáo dục” [76, tr. 9].
Công tác tham mưu với sở GD - ĐT, chính quyền địa phương còn nhiều
hạn chế trong việc xây dựng trường chuẩn quốc gia Đây là một trong những
91
hạn chế về chất lượng ĐNHT trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH
trong những năm qua. Năm học 2014-2015, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Quảng
Ninh đánh giá hạn chế trong ngành giáo dục: “Tiến độ xây dựng trường chuẩn
quốc gia ở các cấp học tuy đã có nhiều cố gắng nhưng còn chậm so với kế hoạch
do khó khăn về nguồn vốn đầu tư...” [74, tr. 9].
Qua khảo sát thực tiễn và đánh giá của các cấp uỷ đảng các tỉnh ĐBSH, sau
10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về Chiến lược cán bộ thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chất lượng ĐNCB trong đó có ĐNHT trường
THPT công lập chưa thực sự đáp ứng tốt yêu cầu thực hiện chức trách, nhiệm vụ
hiện tại và còn nhiều bất cập, yếu kém so với yêu cầu của những năm tới...
Qua kết quả thăm dò ý kiến của 498 cán bộ, đảng viên và nhân dân ở một
số tỉnh ĐBSH về ý thức kỷ luật, phong cách lề lối làm việc của ĐNHT trường
THPT công lập hiện nay, cho thấy: tính tiền phong gương mẫu xếp loại ở mức
hạn chế vẫn còn 6,22%; tính quyết đoán, dám chịu trách nhiệm xếp loại ở mức
hạn chế 7,23%; đấu tranh chống các tiêu cực trong trường xếp loại hạn chế
chiếm 15,6% [Phụ lục 21b, câu 2].
3.1.2.4. Về kết quả hoàn thành nhiệm vụ được giao
Một số hiệu trưởng chỉ đạo hoạt động giáo dục ở đơn vị mình phụ trách
chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đổi mới theo Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi
mới căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế ; việc giáo dục đạo
đức, lối sống cho học sinh trong nhà trường còn nhiều hạn chế, ở một số trường
hiệu trưởng chỉ đạo thiên về dạy chữ lập thành tích trong các cuộc thi, quên lãng
việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, đó là nguyên nhân chính làm cho
bạo lực học đường chưa được ngăn chặn kịp thời, ở một số nơi còn xảy ra hậu
quả nặng nề. Năm học 2014-2015, Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh Hải Dương đánh
giá hạn chế của ngành giáo dục “hiệu quả giáo dục pháp luật, tư tưởng, đạo đức,
kỹ năng sống cho học sinh chưa cao; bạo lực học đường, tình trạng học sinh bị
xử lý luật còn xảy ra ở một số cơ sở giáo dục” [66, tr. 13].
92
Những hiện tượng tiêu cực trong lạm thu, trong dạy thêm, học thêm chưa
được khắc phục triệt để. Có cơ sở giáo dục thực hiện chưa tốt chủ trương: Kỷ
cương nghiêm - Chất lượng thực; xuất hiện cạnh tranh không lành mạnh giữa
các cơ sở giáo dục trên cùng địa bàn. Năm học 2011-2012, Sở Giáo dục - Đào
tạo Ninh Bình đánh giá giáo dục phổ thông: “Việc đổi mới phương pháp dạy
học, giáo dục kỹ năng sống vẫn còn hạn chế; việc dạy thêm, học thêm chưa được
quản lý chặt chẽ. Chất lượng giáo dục toàn diện tuy có chuyển biến tích cực
nhưng còn thấp so với bình quân chung của khu vực ĐBSH’’ [70, tr. 9].
Qua kết quả thăm dò ý kiến của 498 cán bộ, đảng viên và nhân dân ở
một số tỉnh ĐBSH về kết quả hoàn thành nhiệm vụ của ĐNHT trường THPT
công lập hiện nay, cho thấy: kết quả hoàn thành nhiệm xếp loại hạn chế còn
chiếm 7,03% [Phụ lục 21b, câu 2].
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN GIẢI QUYẾT
3.2.1. Nguyên nhân
3.2.1.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, thành tựu công cuộc đổi mới, xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhất là
thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, về xây dựng Đảng đã cổ
vũ động viên các cấp uỷ tăng cường công tác cán bộ, ĐNHT vươn lên, đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ.
Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu, giữ vai trò
định hướng, chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng ĐNCB nói chung và xây dựng,
nâng cao chất lượng ĐNHT nói riêng. Cùng với những quan điểm, chủ trương
đúng đắn của Đảng về công tác cán bộ, những năm qua, công cuộc đổi mới đất
nước và sự nghiệp phát triển vùng ĐBSH tiếp tục thu được những thành tựu to
lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử, đã tạo nên một diện mạo mới, một vị thế mới
của nước ta trên trường quốc tế, kinh tế - xã hội phát triển, đời sống của các tầng
lớp nhân dân được nâng lên, văn hóa - xã hội và GD - ĐT được quan tâm, nhất là
kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI về xây dựng Đảng là nguồn
cổ vũ động viên to lớn các cấp ủy đảng, cán bộ, đảng viên tích cực tham gia vào
93
xây dựng đội ngũ và nâng cao chất lượng ĐNCB nói chung, ĐNHT trường
THPT nói riêng.
Hai là, Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, các
nghị quyết chuyên đề, các quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ, quan điểm,
nghị quyết của Đảng về GD - ĐT nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng
được ban hành kịp thời, cụ thể.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn quan tâm đến công tác cán bộ và sự
nghiệp GD - ĐT, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, Đảng càng chú trọng, quan tâm
xây dựng ĐNCB, đề ra các quan điểm, giải pháp lớn về đổi mới cán bộ, công tác
cán bộ và đổi mới GD - ĐT. Đảng đã xây dựng Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, qua 10 năm thực hiện, Đảng đã tổng kết việc thực
hiện Chiến lược này, bổ sung những nội dung mới. Đảng còn ban hành Nghị
quyết số 11-NQ/TW ngày 25-01-2002 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về luân
chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý; Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30-11-2004
của Bộ Chính trị (khóa VIII) về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý; kết
luận số 24-KL/TW ngày 05-6-2012 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh công tác quy
hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp
theo; quy chế đánh giá cán bộ, công chức theo Quyết định số 286-QĐ/TW, ngày
8/02/2010 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 14-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa
IV); Nghị quyết số 04-NQ/HNTW (khóa VII); Nghị quyết Hội nghị Trung ương
2 khóa VIII về định hướng Chiến lược phát triển GD - ĐT trong thời kỳ CNH,
HĐH; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
GD - ĐT; các quan điểm của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ, về GD - ĐT thể
hiện trong Văn kiện Đại hội X, XI, XII...
Trong các văn kiện, nghị quyết trên đưa ra những quan điểm, giải pháp,
như: bảo đảm số lượng; cơ cấu; phẩm chất; năng lực; quy hoạch; luân chuyển
cán bộ lãnh đạo, quản lý; quản lý; kiểm tra, giám sát cán bộ; phát triển đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý... Đây là cơ sở rất quan trọng để các tỉnh ủy ở ĐBSH
cụ thể hóa, lãnh đạo tổ chức thực hiện, làm cho chất lượng ĐNCB trong đó có
94
ĐNHT trường THPT công lập ngày càng được nâng cao đáp ứng thời kỳ CNH,
HĐH đất nước.
Ba là, các ban ngành, đoàn thể tỉnh, phần rất lớn cấp ủy, các tổ chức trong
hệ thống chính trị ở các huyện, thị xã, thành phố tích cực tham gia nâng cao chất
lượng ĐNHT.
Các ban ngành, đoàn thể tỉnh, phần rất lớn cấp uỷ, các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở các trường, huyện, thị xã, thành phố thuộc các tỉnh ĐBSH đã
nhận thức rõ về trách nhiệm của mình trong nâng cao chất lượng ĐNCB lãnh
đạo, quản lý nói chung và nâng cao chất lượng ĐNHT trường THPT công lập
nói riêng nên đã ra sức phấn đấu góp phần thực hiện nhiệm vụ này theo chức
năng, nhiệm vụ của mình.
Quan điểm của Đảng là: Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và
đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo
và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước. Phải coi
đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển... Để GD - ĐT phát
triển cần phải xây dựng được đội ngũ giáo viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý giáo
dục có chất lượng cao.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tỉnh uỷ, các ban ngành, đoàn thể tỉnh, cấp
uỷ, các tổ chức trong hệ thống chính trị ở các trường, huyện, thị xã, thành phố đã
tích cực thể hiện rõ vai trò của mình trong tham gia nâng cao chất lượng ĐNHT.
Vai trò ấy được thể hiện: tạo điều kiện thuận lợi cho hiệu trưởng trường THPT
công lập hoàn thành nhiệm vụ và trưởng thành; kiểm tra, giám sát hoạt động của
họ; thực hiện nghiêm và có hiệu quả chủ trương của Đảng về bỏ phiếu tín nhiệm
của cấp uỷ với các chức danh hiệu trưởng, phó hiệu trưởng trong trường.
Bốn là, các cấp uỷ sở GD - ĐT tỉnh dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp,
thường xuyên của ban thường vụ tỉnh uỷ ở các tỉnh ĐBSH trong công tác cán bộ
ngành GD - ĐT và nâng cao chất lượng ĐNHT.
Trên cơ sở quan điểm, giải pháp của Đảng về cán bộ và công tác cán bộ
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của ban thường vụ tỉnh ủy, các
95
đảng ủy sở GD - ĐT đã cụ thể hóa đối với ĐNCB lãnh đạo, quản lý giáo dục nói
chung, hiệu trưởng trường THPT công lập nói riêng của tỉnh. Đồng thời, các
đảng uỷ sở GD - ĐT đã coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy trực thuộc phối
hợp thực hiện các khâu: cụ thể hóa tiêu chuẩn, tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo,
bồi dưỡng, luân chuyển, quản lý, đánh giá, bổ nhiệm hiệu trưởng. Nhờ đó, chất
lượng ĐNHT trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH từng bước được
nâng lên.
Năm là, đa số hiệu trưởng trường THPT công lập chủ động tự tu dưỡng,
rèn luyện, nâng cao chất lượng bản thân đáp ứng yêu cầu chức trách, nhiệm vụ
được giao.
Cùng với sự quan tâm giáo dục, rèn luyện tổ chức, sự tích cực chủ động
phấn đấu vươn lên trong tự học tập, rèn luyện, bồi dưỡng nâng cao trình độ,
phẩm chất, năng lực và phong cách làm việc của ĐNHT trường THPT công lập
ở các tỉnh thuộc ĐBSH chính là một trong những nguyên nhân cơ bản, trực tiếp
quyết định đến chất lượng của chính đội ngũ này trong những năm qua. Thực tế
cho thấy, chất lượng ĐNCB nói chung và chất lượng ĐNHT nói riêng không
phải tự nhiên có, mà trước hết đó là kết quả của quá trình phấn đấu, rèn luyện
công phu, bền bỉ của từng hiệu trưởng và cả ĐNHT.
Nhận thức đúng về vấn đề nêu trên, trong những năm qua, dưới sự lãnh
đạo, chỉ đạo sâu sắc của các tỉnh ủy và các cơ quan chức năng, đa số hiệu trưởng
trường THPT công lập đã xác định động cơ, đề cao trách nhiệm, tích cực chủ
động phấn đấu, học tập, rèn luyện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi điều kiện hoàn
cảnh, mọi nội dung, hình thức, biện pháp tự học tập, tự bồi dưỡng nhằm không
ngừng nâng cao trình độ, phẩm chất, năng lực, xây dựng phong cách làm việc
đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của tình hình nhiệm vụ. Đây là một trong những
nguyên nhân cơ bản quyết định đến việc nâng cao chất lượng ĐNHT trường
THPT công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH trong thời gian qua.
3.2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, những hạn chế của
96
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tiêu cực ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và trong ngành GD - ĐT đã tác động đáng kể đến việc nâng cao chất
lượng ĐNHT trường THPT công lập.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước và đã thu được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường, mặt trái của nó đã tạo ra không ít những khó khăn, tiêu cực
như: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu,
những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục
diễn biến phức tạp” [23, tr. 173] đã tác động trực tiếp tới nhận thức, tư tưởng,
thái độ trách nhiệm, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên trong đó có ĐNHT trường THPT công lập và quần chúng nhân dân.
Các thế lực thù địch tìm mọi cách phá hoại đất nước ta, chúng lợi dụng
mặt trái của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để đẩy mạnh chiến lược
“diễn biến hoà bình”, làm biến đổi định hướng giá trị trong xã hội theo hướng
tăng thêm tính thực dụng trong nhiều hành vi, quan hệ xã hội; thúc đẩy sự gia
tăng lối sống thực dụng, vụ lợi, tính toán thiệt hơn, vun vén lợi ích cá nhân, xem
nhẹ lợi ích tập thể, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, thủ tiêu tự phê
bình và phê bình, cơ hội, xu nịnh cấp trên để mưu cầu danh lợi địa vị xã hội.
Những vấn đề nêu trên đã có tác động tiêu cực đến nhận thức tư tưởng của
cả chủ thể, đối tượng và lực lượng tham gia xây dựng ĐNCB nói chung và ĐNHT
trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH nói riêng, làm cho một bộ phận cán
bộ, đảng viên và bản thân một số hiệu trưởng trường THPT công lập mai một ý
chí phấn đấu, thiếu tinh thần trách nhiệm, làm việc cầm chừng, không tích cực tu
dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ, phẩm chất năng lực. Cá biệt còn có đồng chí
biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, tha hoá về phẩm chất, đạo đức, lối sống,
lợi dụng chức quyền để mưu cầu danh lợi. Đây là một trong những nguyên nhân
cơ bản dẫn đến hạn chế về chất lượng ĐNCB nói chung và ĐNHT trưởng THPT
công lập các tỉnh thuộc ĐBSH nói riêng trong những năm qua.
97
Thứ hai, một số khâu cơ bản trong công tác cán bộ như: đánh giá, quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý và thực hiện chính sách cán bộ đối với
ĐNHT chưa được tiến hành đồng bộ, có mặt còn bộc lộ hạn chế và bất cập.
Mặc dù trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến tích cực trong công
tác cán bộ, tuy nhiên, một số khâu, một số bước trong công tác này của một số
tỉnh thuộc ĐBSH vẫn còn những hạn chế, chưa theo kịp với sự phát triển mới
của tình hình nhiệm vụ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn
đến chất lượng ĐNHT trường THPT công lập còn có mặt hạn chế. Việc đánh
giá, phân loại hiệu trưởng hằng năm có nơi còn làm hình thức, chạy theo thành
tích, vì vậy kết quả đánh giá, phân loại hiệu trưởng chưa phản ánh đúng thực tế
về thực trạng chất lượng của ĐNHT. Điều này không những ảnh hưởng đến công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, mà còn ảnh hưởng đến
tâm lý, động cơ, thái độ trách nhiệm phấn đấu vươn lên của một bộ phận cán bộ,
giáo viên.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung, hiệu trưởng trường THPT
công lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH nói riêng nhìn chung còn chậm đổi mới và thiếu
đồng bộ.
Công tác quản lý cán bộ ở một số cấp uỷ làm chưa chặt chẽ, nhất là quản
lý công việc, quản lý các mối quan hệ của cán bộ từ đó dẫn đến tình trạng một
bộ phận cán bộ lãnh đạo quản lý trong đó có cả hiệu trưởng trường THPT công
lập ở các tỉnh thuộc ĐBSH có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, sa sút về
phẩm chất đạo đức, lối sống, thậm chí vi phạm kỷ luật làm ảnh hưởng đến lòng
tin của nhân dân. Bên cạnh đó còn phải kể đến một số chính sách đối với cán bộ
hiện nay còn bất cập, chưa thống nhất, thiếu đồng bộ, chậm được điều chỉnh, bổ
sung, sửa đổi. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới tâm tư tình cảm và tinh thần
phấn đấu vươn lên của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có hiệu trưởng
trường THPT công lập ở các tỉnh thuộc Đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_chat_luong_doi_ngu_hieu_truong_truong_trung_hoc_pho.pdf