MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan . i
Lời cảm ơn . ii
Mục lục . iii
Danh mục chữ viết tắt . vi
Danh mục bảng . ix
Danh mục hình . xi
Danh mục sơ đồ . xiii
Trích yếu luận án . xiv
Thesis abstract . xvi
Phần 1. Mở đầu . 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài . 1
1.2. Mục tiêu . 2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài . 2
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu . 2
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu . 2
1.4. Những đóng góp mới của đề tài . 3
1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài . 3
1.5.1. Ý nghĩa khoa học . 3
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn . 3
Phần 2. Tổng quan tài liệu . 4
2.1. Sự di truyền tính trạng số lượng . 4
2.1.1. Bản chất di truyền của các tính trạng số lượng . 4
2.1.2. Ước tính giá trị giống . 5
2.1.3. Tính trạng số lượng . 6
2.1.4. Hệ số di truyền . 7
2.1.5. Một số thành phần phương sai . 8
2.2. Cơ sở khoa học của việc đánh giá năng suất ở gà . 9
2.2.1. Một số tính trạng sinh trưởng . 9
iv
2.2.2. Một số tính trạng sinh sản . 11
2.3. Gà bản địa . 14
2.3.1. Cải tiến gà bản địa . 14
2.3.2. Gà bản địa của Việt Nam . 15
2.4. Chọn lọc và nhân giống gà . 19
2.4.1. Lịch sử phát triển của công tác chọn lọc gia cầm . 19
2.4.2. Nhân dòng thuần . 20
2.4.3. Hệ thống công tác giống gà . 22
2.4.4. Nội dung công tác nhân giống gà . 23
2.5. Ứng dụng công nghệ sinh học phân tử trong chọn lọc giống gà . 24
2.5.1. Công nghệ gen . 24
2.5.2. Một số thành tựu trong nghiên cứu SNPs trong công tác giống gà . 25
2.5.3. Phương pháp tiếp cận gen ứng viên (Candidate Gene) . 28
2.5.4. Kiểu gen GH và INS liên quan đến tính trạng sản xuất của gà . 29
2.6. Ứng dụng một số hàm số toán học trong chăn nuôi gà thịt . 33
2.7. Tình hình nghiên cứu đa hình gen trong và ngoài nước. 35
2.7.1. Tình hình nghiên cứu về đa hình gen ở gà trên thế giới . 35
2.7.2. Tình hình nghiên cứu về đa hình gen trên các giống gà bản địa ở Việt Nam . 38
2.7.3. Một số thông tin về gà Mía - đối tượng nghiên cứu . 40
196 trang |
Chia sẻ: minhanh6 | Ngày: 13/05/2023 | Lượt xem: 1027 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chọn lọc nâng cao năng suất sinh trưởng của gà mía bằng chỉ thị phân tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cưa trên mào tương đối khác nhau:
Hình 4.5. Mào 5 thùy răng cưa đơn Hình 4.6. Mào 5 thùy răng cưa kép
62
Hình 4.7. Mào có 6 thùy răng cưa
đơn
Hình 4.8. Mào có 7 thùy răng cưa
đơn
Kiểu mào được tìm thấy ở gà Mía trống và mái bao gồm kiểu mào cờ 5
thùy đơn (Hình 4.5), kiểu mào cờ 5 thùy kép (Hình 4.6), mào cờ 6 thùy đơn
(Hình 4.7), mào cờ 6 thùy kép, mào cờ 7 thùy đơn (Hình 4.8). Trong các kiểu
mào trên thì mào cờ đơn 6 thùy là chiếm ưu thế ở cả 2 tính biệt với tỷ lệ 33,00%
đối với con trống, và 34,85% đối với con mái (Bảng 4.1). Kiểu mào cơ kép 7
thùy có tỷ lệ rất thấp trong tổng đàn (3% đối với gà trống và 1,3% đối với gà
mái). Theo các tác giả Nguyễn Huy Đạt & cs. (2004); Hồ Xuân Tùng & cs.
(2009a); Ngô Thị Kim Cúc & cs. (2016); Nguyễn Duy Vụ & cs. (2016) cho
biết gà Mía có mào cờ rất phát triển, nhưng hầu hết các tác giả trên chỉ mới
dừng lại ở việc mô tả kiểu mào, chưa đi sâu vào mô tả chi tiết các thùy của
mào gà Mía.
Tích gà: tích gà Mía tương đối phát triển và cân đối, phù hợp và tương thích
với kiểu mào phía trên, tạo cho gà Mía, nhất là con trống có đầu giống như đầu
của một “quan văn” rất đẹp và hài hòa.
Gà Mía chuẩn được ưa chuộng nhất là có mào đơn, răng cưa đơn dựng đứng,
nhọn, màu đỏ tươi, dày dặn, chắc chắn cùng với bộ tích vừa phải (hình 4.9).
63
Hình 4.9. Đầu gà Mía đẹp được ưa chuộng nhất
c. Mỏ gà
Gà Mía phổ biến có mỏ to vừa phải, cân đối, tương đối ngắn với 2 màu chính
là màu trắng ngà (Hình 4.10) và màu vàng nâu (Hình 4.11). Tần suất xuất hiện
của những màu này là tương tự nhau giữa gà trống và mái. Đối với gà trống,
hai màu xuất hiện với tỷ lệ tương đương nhau là 49,28% và 50,72%; trong khi
ở gà mái, mỏ có màu vàng nâu chiếm tỷ lệ cao hơn (55,58% so với 44,42%).
Hình 4.10. Mỏ gà màu trắng ngà Hình 4.11. Mỏ gà màu vàng nâu
d. Chân gà
Gà Mía có đôi chân to vừa phải, cân đối so với thân hình gà, chủ yếu có màu
vàng nhạt ở cả con trống và con mái). Đặc biệt má ngoài của chân có hai hàng ca
rô màu đỏ tươi (hình 4.12); vẩy sừng (hình 4.13); ngón chân dài vừa phải, da ở kẽ
giữa các ngón chân có màu hồng nhạt (hình 4.14). Đó là đặc điểm đặc trưng của
chân gà Mía.
Hình 4.12. Hàng chấm đỏ ca rô trên chân gà Mía
64
Hình 4.13. Vẩy sừng trên chân gà Mía
Hình 4.14. Kẽ các ngón chân của gà Mía có màu hồng nhạt
Hình 4.15. Đàn gà Mía sinh sản trưởng thành
4.1.1.2. Sự phát triển ngoại hình gà Mía từ mới nở đến trưởng thành
a. Ngoại hình gà Mía 1 ngày tuổi
Mỗi giống gà đều có màu lông đặc trưng khi mới nở. Ví dụ: gà Ri phổ biến
có màu vàng rơm; gà Trọi có màu đen và xám; nhóm gà thân to (gà Đông Tảo, gà
Hồ, gà Chọi, gà Móng, gà lạc Thủy,...) có màu trắng sáng. Gà Mía 1 ngày tuổi có
2 màu lông chủ đạo là màu trắng tinh (Hình 4.16) và màu trắng hơi vàng ở vùng
lưng và đầu (Hình 4.17); mỏ và chân màu hồng nhạt.
65
Hình 4.16. Gà Mía 01 ngày tuổi
Hình 4.17. Đàn gà Mía 01 ngày tuổi
b. Gà Mía 04 tuần tuổi
Gà Mía trống thay lông chậm, bộ lông tơ cơ bản vẫn còn, mào non mọc khá
rõ, riêng đôi cánh có hàng lông cánh chính thứ cấp và sơ cấp khá phát triển, màu
đen sẫm. Chân khá to, màu hồng nhạt (Hình 4.18).
Gà Mía mái thay lông nhanh hơn, bộ lông tơ cơ bản đã rụng hết (trừ vùng
đầu và cổ) và thay bằng bộ lông non màu nâu sáng (Hình 4.19). Mào phát triển
chậm hơn gà trống.
Hình 4.18. Gà Mía trống 04
tuần tuổi
Hình 4.19. Gà Mía mái 04
tuần tuổi
66
Gà Mía 4 tuần tuổi có thể dễ dàng phân biệt trống và mái (hình 4.20).
Hình 4.20. Đàn gà Mía 04 tuần tuổi
c. Gà Mía 08 tuần tuổi
Ở 8 tuần tuổi gà Mía trống và mái khác hẳn nhau (Hình 4.21, hình 4.22; hình
4.23). Gà trống thay lông chậm, bộ lông tơ cơ bản đã rụng hết, mào non khá to;
lông cổ màu nâu, ba vùng lông ở cánh, vai và phần cuối cẳng chân (phần dùi trống)
đều có lông màu đen sẫm khá phát triển. Các vùng dưới cổ, thân của cánh, diều,
lườn, đuôi và cẳng trên đã rụng hết lông tơ nhưng chưa mọc lông non, lộ rõ phần
da màu đỏ đậm. Chân gà khá to, màu hồng nhạt.
Gà mái thay lông nhanh hơn, bộ lông non màu nâu sáng đã cơ bản phủ kín
toàn thân. Vùng sau cổ có màu nâu nhạt, chót đuôi có màu đen; lông ở vùng bụng
dưới và cẳng chân có lông tơi màu trắng sáng. Mào phát triển chậm hơn gà trống.
Chân gà khá to, màu hồng nhạt.
Hình 4.21. Đàn gà mái Mía 08 tuần tuổi
67
Hình 4.22. Gà Mía trống 08 tuần tuổi Hình 4.23. Gà Mía mái 08 tuần tuổi
Các đặc điểm hình thái mô tả và minh họa ở trên cho thấy, gà Mía có sự đa
dạng tương đối về màu sắc lông. Tuy nhiên, so với nhiều giống gà bản địa khác
của Việt Nam như gà Ri, gà Tàu vàng, gà H Mông, ... màu lông của gà Mía ổn
định hơn nhiều và tương tự như màu lông của gà Hồ, gà Đông Tảo, gà Lạc Thủy
và gà Móng Tiên Phong. Kết quả này cũng tương tự như công bố từ nghiên cứu
của (Bui Huu Doan & Nguyen Van Luu, 2006). Sự tương đối đa dạng về màu sắc
lông của gà Mía cho thấy sự biến đổi di truyền trong quần thể của giống gà này.
Trải qua thời kỳ lịch sử lâu đời, gà Mía được nuôi trong điều kiện hộ gia đình của
các vùng nông thôn Việt Nam, nơi có nhiều giống gà khác nhau được nuôi trong
cùng một địa bàn, chúng có thể tự do đi từ hộ này sang hộ khác mà không có hàng
rào ngăn cách, nghĩa là việc lai giống giữa các giống bản địa chưa được kiểm soát.
Tuy nhiên, một số mục tiêu nhân giống của người dân đã được định hình và duy
trì qua nhiều thế hệ, từ đó mà hình thành nên giống gà rất đặc trưng ngày nay mà
người dân luôn theo đuổi. Thực tế, những giống gà bản địa này là sản vật truyền
thống của mỗi vùng miền, được thực hành trong các nghi lễ quan trọng gắn liền
với đời sống tâm linh của người Việt (Phuong & cs., 2015). Gà trống có màu lông
sẫm thường được chọn để cúng tế (Luan, 2014). Kết quả nghiên cứu này đã chỉ ra
rằng màu cánh gián ở gà Mía trống chiếm ưu thế tuyệt đối trong quần thể gà Mía.
Phát hiện này tương tự với kết quả nghiên cứu trên gà Hồ của Bui Huu Doan &
Nguyen Van Luu (2006) và Lê Thị Thúy (2010). Màu lông ở gà Mía mái được
chia thành ba nhóm riêng biệt rõ ràng. Nói chung, gà mái có màu lông nhạt hơn,
tương tự như gà mái của 4 giống thuộc nhóm gà thân to đã bình luận ở trên là Hồ,
gà Đông Tảo, gà Lạc Thủy và gà Móng Tiên Phong.
Ở vùng đồng bằng sông Hồng, miền Bắc Việt Nam, gà mái ít được sử dụng
trong các nghi lễ truyền thống, chúng được nuôi chủ yếu để lấy trứng và sản xuất
gà con giống. Người chăn nuôi thường chọn những con gà mái có màu lông nhạt
68
hơn vì họ cho rằng chúng sẽ có năng suất sinh sản cao hơn. Nghiên cứu này đã chỉ
ra rằng những con gà có màu lông sáng chiếm ưu thế trong quần thể gà Mía mái.
Keambou & cs. (2007) ghi nhận rằng những con gà mái bản địa vùng nhiệt đới có
bộ lông sáng hơn cho phép chúng có khả năng thích nghi tốt hơn với điều kiện thời
tiết trên lãnh thổ.
Màu sắc chân của gà Mía là màu vàng với tỷ lệ là 100% ở cả con trống và con
mái. Theo tác giả Nguyen Van Duy & cs. (2015), trong quần thể gà Hồ, tính trạng
chân vàng chiếm tỷ lệ thấp (3,70% ở gà trống và gà mái là 5,94%). Theo truyền thống
ẩm thực và thị hiếu tiêu dùng của người Việt, đôi chân gà đóng một vai trò quan trọng
trong các nghi lễ truyền thống như Tết dân tộc và các sự kiện cưới hỏi (Luan, 2014).
Bên cạnh đó, nhiều người Việt Nam thích ăn chân gà như một thú vui. Kết quả quan
sát cho thấy, mảng da ở kẽ giữa các ngón chân của gà Mía có màu hồng nhạt. Kết quả
này tương tự như công bố của Nguyen Van Duy & cs. (2015). Có thể đây là đăc điểm
chung của nhóm 5 giống gà thân to ở vùng Đồng bằng Bắc bộ.
Bảng 4.1. Thống kê một số tính trạng hình thái của gà Mía
(Đvt:%)
Tính trạng Trống (n=1000) Mái (n=6000)
Màu lông
- Mã mận 100 -
- Mã thó - 44,58
- Mã nhãn - 41,60
- Mã sẻ - 13,82
Màu da chân
- Vàng 100 100
- Kẽ ngõn chân màu hồng nhạt 100 100
- Hàng vẩy có hình caro đỏ 100 100
Số lượng thùy trên mào
- Mào cờ 5 thùy đơn 23,15 23,85
- Mào cờ 5 thùy kép 10,85 9,85
- Mào cờ 6 thùy đơn 33,00 34,85
- Mào cờ 6 thùy kép 11,85 12,72
- Mào cờ 7 thùy đơn 18,15 17,42
- Mào cờ 7 thùy kép 3,00 1,32
Màu mỏ
- Trắng ngà 49,28 44,42
- Vàng nâu 50,72 55,58
69
Bảng 4.2. Một số chiều đo cơ thể của gà Mía ở 8 và 38 tuần tuổi
(n=600)
Chỉ tiêu Đvt
8 tuần tuổi 38 tuần tuổi
Gà trống
LSM± SE
Gà mái
LSM± SE
Gà trống
LSM± SE
Gà mái
LSM± SE
Khối lượng cơ thể
g
759,89±14,28
589,56±9,2
1
2689,13±34,7
8 1695,56±23,19
Dài thân cm 28,54±0,23 27,31±0,10 44,25±0,13 39,35±0,18
Vòng ngực cm 19,05±0,17 18,12±0,09 32,85±0,17 26,46±0,11
Tỷ lệ VN/DT - 0,67±0,01 0,66±0,01 0,74±0,01 0,67±0,01
Dài lườn cm 8,55±0,08 8,19±0,06 15,01±0,08 11,49±0,06
Dài sải cánh cm 25,88±0,20 21,16±0,16 49,88±0,30 42,61±0,16
Dài lông cánh cm 13,93±0,09 12,89±0,10 18,59±0,09 16,98±0,10
Cao chân cm 7,37±0,03 6,11±0,03 9,07±0,03 7,91±0,03
Chu vi bàn chân cm 4,13±0,09 3,02±0,07 5,39±0,09 4,52±0,07
Gà Mía là một trong những giống gà địa phương ở Việt Nam có khối lượng
lớn. Khi trưởng thành (38 tuần tuổi), khối lượng cơ thể trung bình của gà trống và
gà mái lần lượt là 2.689,13g và 1.695,56g. Khối lượng này cũng tương tự như kết
quả đã công bố trong một số nghiên cứu trước đây của Nguyễn Huy Đạt & cs.
(2004); Hồ Xuân Tùng & cs. (2009a); Ngô Thị Kim Cúc & cs. (2016); Nguyễn
Duy Vụ & cs. (2016). Tại thời điểm 38 tuần tuổi, gà Mía trống và mái có chiều dài
thân trung bình lần lượt là 44,25cm và 39,35cm. Chiều dài lườn của gà trống là
15,02cm; gà mái là 11,49cm; vòng ngực gà trống là 32,85cm và gà mái là 26,46cm.
Gà Mía có đôi chân dài và to vừa phải. Cao chân của gà Mía dao động từ 7,91cm
đối với con mái đến 9,09cm đối với con trống; chu vi vòng ống chân của gà trống
và gà mái lần lượt là 5,37cm và 4,52cm.
Kích thước các chiều đo cơ bản của gà Mía trong nghiên cứu này ở trong
khoảng của TCVN 12469-2:2018 đã được công bố.
Theo Nguyen Van Duy & cs. (2015) chiều dài thân, dài lườn và vòng ngực
của gà Hồ trống lần lượt là 55,25cm, 21,05cm và 36,13cm; và tương ứng là
46,84cm, 17,32cm và 33,30cm đối với gà mái. Lê Thị Thu Hiền & cs. (2015a) cho
biết, chiều dài lưng và vòng ngực của gà Đông Tảo trống lần lượt là 23,67cm và
70
34,76cm; gà mái là 22,82cm và 31,18cm. Nguyễn Trọng Tuyển (2017) cho biết,
gà Móng Tiên Phong trống có chiều dài thân là 22,20 - 22,70cm; gà mái có chiều
dài thân là 19,65 - 19,95 cm; vòng ngực gà trống từ 30,03 - 30,57cm và gà mái từ
26,27 - 26,77cm. Gà Móng Tiên Phong có chiều dài đùi gà trống là 22,48 -
22,77cm; gà mái là 19,40 - 19,81cm, vòng ống chân con trống từ 8,68 - 8,95cm,
trong khi con mái từ 6,26 - 6,40cm. Như vậy, các chiều đo cơ bản của gà Mía đều
thấp hơn so với gà Hồ, gà Đông tảo và gà Móng Tiên Phong của các tác giả vừa
dẫn. Điều đó cho thấy, gà Mía nằm trong nhóm 7 giống gà bản địa thân to là gà Hồ;
Đông Tảo; Móng; Chọi, Liên Minh, Lạc Thủy nhưng có thân hình cân đối hơn các
giống gà trong nhóm này. So với gà Ri, gà Mía có khối lượng và kích thước một số
chiều đo cao hơn hẳn: chiều dài lưng trung bình của Ri chỉ từ 17,85 - 19,18cm (gà
trống) và từ 14,66 - 15,26cm (gà mái); chiều dài cơ thể trung bình từ 36,65 -
38,85cm (gà trống) và từ 30,54 - 32,96cm (gà mái) (Moula & cs., 2012).
4.2. ĐA HÌNH CỦA GEN INSULIN (INS), GROWTH HORMONE (GH) VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA CHÚNG ĐẾN KHẢ NĂNG SINH TRƯỞNG Ở GÀ MÍA.
4.2.1. Xác định đa hình gen, kiểu gen, tần số kiểu gen, alen của gen INS và
GH trên đàn gà Mía
Sử dụng phương pháp PCR-RFLP để xác định đa hình của các gen INS và
gen GH trong đàn gà Mía cho thấy, đối với đa hình A3971G của gen INS, đã xác
định được 2 alen với kích thước đặc trưng là 281bp đối với alen A, còn đối với
alen G có kích thước đặc trưng là 233bp và 49bp. Ở đa hình này, alen A không bị
cắt nên giữ nguyên kích thước với 281bp; trong khi alen G bị cắt thành 2 đoạn với
kích thước lần lượt là 233bp và 48bp. Với đa hình này xuất hiện 3 kiểu gen với các
kích thước đặc trưng: kiểu gen AA (1 băng 281bp); AG (3 băng có kích thước
281bp, 233bp và 48bp) và GG (2 băng có kích thước 233bp và 48bp) với tần số
xuất hiện của các kiểu gen tương ứng là 29%; 55% và 16%; và tần số xuất hiện
alen A và G tương ứng là 57% và 43%.
Kết quả một số nghiên cứu gần đây cho biết, tần số kiểu gen GG của đa hình
A3971G/INS trên gà Liên Minh chỉ là 7% (Trần Thị Bình Nguyên & cs., 2019),
gà Tàu vàng, gà Nòi và gà Cobb 500 lần lượt là 20%, 15% và 18% (Do Vo Anh
Khoa & cs., 2013). Một số tác giả khác cho thấy, alen G có ảnh hưởng đến việc
cải thiện khối lượng cơ thể ở gà nhưng xuất hiện với tần số thấp từ 5 đến 8% (Lei
71
& cs., 2005; Qiu & cs., 2006).
Đối với đa hình T3737C của gen INS đã tìm thấy có 2 alen với kích thước
đặc trưng là 372bp đối với alen T, đối với alen C có kích thước đặc trưng là 234bp
và 138bp và đã xác định được 2 kiểu gen với các kích thước đặc trưng CT (3 băng
có kích thước 372bp, 234bp và 138bp), TT (1 băng 372bp) với tần số xuất hiện
tương ứng là 67% và 33%; tần số các alen T và C lần lượt là 89% và 11%; không
tìm thấy kiểu gen CC.
Trong các nghiên cứu trước đây, kiểu gen CC được quan sát với tần suất khá
thấp: 1% ở giống Cob và 3% ở giống gà Nòi (Do Vo Anh Khoa & cs., 2013). Heba
& cs. (2017) cũng không tìm thấy kiểu gen CC ở trên gà bản địa Dokki-4 và El-
Salam của Ai Cập. Arini & cs. (2022) cho biết trên quần thể gà Pelung bản địa của
Indonesia cũng chỉ xuất hiện 2 kiểu gen CT (44,44%) và TT (56,56%) đối với đa
hình C1549T. Như vậy, Alen T là chủ yếu trong quần thể gà Mía ở nghiên cứu này,
M AA GG AA GG AA GG GA AA AA GA
Hình 4.24. Sản phẩm cắt đoạn gen
INS tại điểm A3971G bằng enzyme
MspI
281 bp
233bp
Hình 4.25. Sản phẩm cắt đoạn gen INS
tại điểm T3737C bằng enzyme MspI
372bp
234bp
138bp
Hình 4.27. Sản phẩm cắt đoạn gen GH
tại điểm C423T bằng enzyme PaI
Hình 4.26. Sản phẩm cắt đoạn gen
GH tại điểm G662A bằng enzyme
MspI
240bp
226bp
125bp
115bp
M AA AA AA AG AA GG AG AA GG
M CT TT CT TT TT TT CT TT
72
phù hợp với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên.
Bảng 4.3. Tần số xuất hiện một số kiểu gen của gen INS và GH trên gà Mía
Gen
Kiểu
gen/
Alen
Chung trống mái
n
Tần số
phân
tích (%)
Tần số lý
thuyết
(%)
Cân bằng
Hardy-Weinberg
χ² P value
INS (A3971G)
AA 267 29 32 10,84 0,0044
AG 501 54 49
GG 153 17 19
A 56
G 44
INS (T3737C)
CC 0 0 79 11,25 0,0036
CT 203 22 20
TT 718 78 01
C 11
T 89
GH (G662A)
AA 470 51 51 1,13 0,56
AG 369 40 41
GG 82 09 08
A 71
G 29
GH (C423T)
CC 312 34 32 5,99 0,05
CT 415 45 49
TT 194 21 19
C 56
T 44
Kết quả nghiên cứu trên gen GH cho thấy, đa hình G662A đã tìm thấy có 3
kiểu gen: AA (2 băng có kích thước là 240bp và 226bp); AG (4 băng có kích thước
là 240bp, 226bp, 125bp, và 115bp) và GG (3 băng có kích thước là 226bp, 125bp,
115bp) với tần số xuất hiện tương ứng là 51%; 40% và 9%. Từ đó, có thể tính được
tần số xuất hiện các alen A và G tương ứng là 74% và 26%. Kiểu gen AA xuất
hiện với tần số rất cao (51%) trong khi kiểu gen GG chỉ có 9%. Kết quả này tương
đương với công bố của một số tác giả khác khi nghiên cứu trên gà Tàu Vàng là
11% (Do Vo Anh Khoa & cs., 2013) và gà Qingyuan Partridge của Trung Quốc
(Shu & cs., 2011).
Đối với đa hình C423T, kết quả sản phẩm PCR cắt bằng enzyme giới hạn
PagI với alen T không bị cắt nên sản phẩm giữ nguyên kích thước là 518bp; trong
khi alen C cho 2 đoạn có kích thước là 308bp và 210bp, tương ứng với các kiểu
gen TT (518bp), TC (518bp, 308bp, 210bp) và CC (308bp, 210bp) với tần số xuất
hiện tương ứng là 21%, 45% và 34%; tần số các alen T và C lần lượt là 56% và
73
44%. Kiểu gen CC có tần số cao hơn TT.
Thakur & cs. (2009) cho biết tần số kiểu gen AA, AB và BB của đa hình
GH/MspI trên gà bản địa Kadaknath lần lượt là 32,08%, 50,94% và 16,98%. Tác giả
Jafari & cs. (2015) chỉ ra rằng, trên intron 1 của đa hình gen GH/MspI ở giống gà bản
địa Isfahan của Iran cũng tìm thấy ba alen A1 (414, 217, 125 bp), A2 (125, 147, 137,
267bp) và alen A3 (237, 539bp) với tần số tương ứng là 60%, 21% và 19%. Khi
nghiên cứu trên quần thể gà bản địa của Việt Nam, nhóm tác giả Lưu Quang Minh
& cs. (2016a) cho biết tần số alen G tại điểm đa hình G1705A trên cGH-int3 ở gà
Mía (95,5%), gà Ri (92,7%), gà Chọi lai (93,0%) và gà Móng (92,0%) (Nguyễn
Trọng Tuyển & cs., 2017). Hầu hết các tác giả này cũng cho biết, đa hình G3037T
trên cGH-int4 có tính đa dạng cao, cụ thể tần số alen T và alen G ở gà Mía (31,0%
và 69,0%), gà Móng (53,2% và 46,8%), gà Chọi lai (49,5% và 50,5%) và gà Ri
(29,3% và 70,7%). Ở gà Liên Minh, kiểu gen AA/GHi3 xuất hiện với tần số rất
cao (94,0%), kiểu gen AG rất thấp (6,0%) tương ứng tần số alen A là 97%, còn
alen G chỉ có 3%(Trần Thị Bình Nguyên & cs., 2019).
Kết quả kiểm định cho thấy, tần số các kiểu gen của đa hình G662A gen GH
tuân theo định luật Hardy-Weinberg và không có sai khác thống kê so với kiểm
định lý thuyết (P>0,05).
Kết quả xác định tần số các đa hình gen của gà Mía được thể hiện qua 4 sơ
đồ dưới đây.
Hình 4.28. Tần số đa hình gen của gen INS và GH của gà Mía
74
Với gen GH, tác giả Nguyen Thi Lan Anh & cs. (2015) khi nghiên cứu về gà bản
địa Thái Lan cho thấy đa hình G1705A trên cGH-int3 có tương quan dương đến khối
lượng cơ thể và sự phát triển của hệ xương ở gà: ở 10 tuần tuổi, cá thể mang kiểu gen
GG có khối lượng là 2,472g trong khi cá thể mang kiểu gen AA chỉ là 2,162g. Tác giả
Mehdi & Reza (2012) cũng cho nhận xét tương tự. Đối với đa hình C423T, cho đến
nay chưa thấy công bố nào về mối tương quan đến sinh trưởng ở gà.
Một số nghiên cứu gần đây trên thế giới cũng đã chỉ ra rằng, trong 6 kiểu gen AA,
AG, GG; TT, CT và CC ở gà, chỉ có kiểu gen GG là có mối tương quan chặt với tốc độ
sinh trưởng mà thôi. Điều đó có thể cũng sẽ đúng với gà Mía vì tần số xuất hiện kiểu
gen này rất thấp, chỉ từ 10-20% đối với gen INS và 6-10 % đối với gen GH. Nghĩa là,
trong quần thể gà Mía, chỉ có từ 6% - 20% cá thể có tiềm năng sinh trưởng nhanh , điều
đó cần được kiểm định trong các nghiên cứu tiếp theo.
Nhận xét, với gen INS; đa hình A3971G có 3 kiểu gen AA, GA và GG; trong
khi đa hình T3737C chỉ có 2 kiểu gen TT và CT; không tìm thấy kiểu gen CC. Với
gen GH, đa hình C423T có 3 kiểu gen là TT, CT và CC. Đa hình G662A xuất hiện
3 kiểu gen: AA, AG và GG; tần số xuất hiện kiểu gen GG - gen có tiềm năng sinh
trưởng nhanh ở gà Mía tương đối thấp, chỉ từ 6 - 20% tùy tính biệt. Tần số xuất
hiện các kiểu gen AA, AG, GG và các alen A, G trong quần thể gà Mía tuân theo
định luật Hardy-Weinberg và không có sự sai khác đáng kể so với kiểm định lý
thuyết của định luật này (P > 0,05).
4.2.2. Ảnh hưởng của các kiểu gen của gen INS và GH đến khối lượng của gà
Mía
4.2.2.1. Ảnh hưởng của các kiểu gen của gen INS đến khối lượng gà Mía
a. Ảnh hưởng của các kiểu gen thuộc đa hình A3971G gen INS đến khối lượng gà Mía
Ảnh hưởng của các kiểu gen thuộc đa hình A3971G gen INS đến khối lượng
gà Mía được thể hiện ở bảng 4.4.
Số liệu ở bảng 4.4 cho thấy, đàn gà Mía có khối lượng cơ thể tăng dần theo
tuổi, theo đúng quy luật sinh trưởng. Lúc 20 tuần tuổi, khối lượng gà mang các
kiểu gen AA, AG và GG lần lượt là 1.717,72g; 1.729,07g và 1.744,91g. So sánh
thống kê cho thấy, gà Mía mang 3 kiểu gen AA, AG và GG của đa hình A3971G
INS không có sự khác nhau đáng kể về khối lượng (P>0,05); nghĩa là đa hình
75
A3971G thuộc gen INS trong nghiên cứu này không ảnh hưởng đáng kể đến khả
năng sinh trưởng ở gà Mía.
Ảnh hưởng di truyền cộng gộp (a) và di truyền trội (d) của đa hình A3971G
của gen INS trên gà Mía tại 20 tuần tuổi lần lượt là 13,59g và -2,24g. Kết quả cũng
chỉ ra rằng ảnh hưởng di truyền cộng gộp (a) và di truyền trội (d) của các kiểu gen
thuộc đa hình A3971G đối với tính trạng tăng khối lượng cơ thể ở gà Mía là không
có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Như vậy, việc chọn lọc và sử dụng gà Mía mang các
kiểu gen khác nhau của đa hình này không làm ảnh hưởng tới tính trạng tăng khối
lượng cơ thể.
Bảng 4.4. Khối lượng cơ thể gà Mía từ mới nở đến 20 tuần tuổi
mang kiểu gen của đa hình A3971G của gen INS (LSM±SE)
(Đvt: g)
Tuần
tuổi
AA (n=267) AG (n= 501) GG (n=153) a±SE d±SE
01 NT 29,28±0,26 29,25±0,18 29,30±0,34 0,01±0,21 -0,04±0,28
1 53,15±0,66 53,09±0,47 54,34±0,88 0,59±0,53 -0,66±0,72
2 105,46±1,44 107,72±1,03 109,34±1,91 1,93±1,16 0,32±1,57
3 161,68±2,36 164,15±1,68 167,88±3,12 3,10±1,89 -0,62±2,56
4 241,80±3,22 243,48±2,30 250,74±4,26 4,47±2,59 -2,79±3,50
5 318,35±3,99 322,36±2,85 327,08±5,27 4,36±3,20 -0,34±4,33
6 404,54±4,67 408,46±3,33 413,62±6,17 4,54±3,75 -0,62±5,07
7 494,92±5,39 499,74±3,85 507,44±7,12 6,25±4,32 -1,43±5,85
8 601,92±6,13 607,85±4,38 612,62±8,10 5,34±4,92 0,57±6,65
9 701,58±6,94 709,69±4,96 716,17±9,18 7,29±5,58 0,81±7,54
10 798,15±7,95 805,26±5,68 811,65±10,50 6,75±6,38 0,36±8,62
11 905,47±8,52 915,87±6,09 920,95±11,26 7,73±6,84 2,65±9,25
12 1000,42±9,47 1010,85±6,76 1015,77±12,52 7,67±7,60 2,76±10,28
13 1103,24±10,09 1108,26±7,20 1119,89±13,33 8,32±8,10 -3,31±10,95
14 1193,67±10,70 1197,56±7,64 1207,28±14,14 6,80±8,59 -2,91±11,61
15 1285,76±11,32 1291,96±8,09 1297,16±14,97 5,70±9,09 0,49±12,29
16 1376,81±11,86 1384,65±8,47 1393,64±15,68 8,41±9,52 -0,57±12,87
17 1465,28±12,23 1472,12±8,74 1485,28±16,17 9,99±9,82 -3,15±13,28
18 1551,30±12,66 1558,83±9,04 1571,88±16,73 10,28±10,17 -2,76±13,74
19 1633,07±13,14 1644,41±9,39 1654,43±17,38 10,68±10,56 0,66±14,27
20 1717,72±13,51 1729,07±9,65 1744,91±17,86 13,59±10,85 -2,24±14,67
Chú thích: a- ảnh hưởng cộng gộp (additive effect); d-ảnh hưởng trội (dominance effect) đối với tính
trạng khối lượng.
76
Khi nghiên cứu trên gà bản địa Xinghua của Trung Quốc, tác giả Lei & cs.
(2007) cho thấy, đa hình A3971G của gen INS có mối quan hệ mật thiết với khối
lượng khi gà mới nở, 28, 56 ngày tuổi; thành phần thân thịt và mật độ sợi cơ. Trong
đó, alen G của đa hình A3971G có ảnh hưởng đến khối lượng rõ rệt: gà mang kiểu
gen GG ở 56 ngày tuổi có khối lượng là 928,97g trong khi đó cá thể mang kiểu
gen AA chỉ là 795,2g (cao hơn 133,77g).
Trần Trần Thị Bình Nguyên & cs. (2021) cũng tìm thấy sự ảnh hưởng của
kiểu gen GG của đa hình A3971G/INS với khối lượng cơ thể của gà Liên Minh
mái tại 14 và 16 tuần tuổi và ở gà Liên Minh trống lúc 18 tuần tuổi. Tuy nhiên,
theo Qiu & cs. (2006), trên gà lai Xinghua x White Recessive Rock, thì đa hình
A3971G chỉ có ảnh hưởng đến tính trạng khối lượng cơ thể của gà ở giai đoạn 4
và 8 tuần tuổi. Từ kết quả của các nghiên cứu trên cho thấy, đa hình A3971G chỉ
ảnh hưởng đến khối lượng cơ thể của gà tại một số thời điểm nhất định. Nhưng
nhìn chung, đa hình A3971G không có ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng tăng khối
lượng của gà Mía trong cả giai đoạn.
b. Ảnh hưởng của các kiểu gen thuộc của đa hình T3737C gen INS đến khối lượng
gà Mía
Ảnh hưởng của các kiểu gen thuộc đa hình T3737C gen INS đến khối lượng
của gà Mía được thể hiện ở bảng 4.5.
Kết quả ở bảng 4.5 cho thấy, tại 20 tuần tuổi, khối lượng trung bình của gà Mía
mang kiểu gen CT và TT lần lượt là 1.714,38 g/con và 1.1731,98 g/con. So sánh thống
kê cho thấy, không tìm thấy sự sai khác đáng kể về khối lượng của gà Mía mang kiểu
gen CT và TT (P>0,05); nghĩa là đa hình T3737C thuộc gen INS trong nghiên cứu
này không ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh trưởng ở gà Mía.
Lei & cs. (2007) cho biết đa hình T3737C không ảnh hưởng đến khối lượng
cơ thể nhưng có ảnh hưởng đến khối lượng mỡ bụng của gà Xinghua Trung Quốc:
gà có kiểu gen CC thì khối lượng mỡ bụng là 70,62g; gà có kiểu gen TT thì có
khối lượng mỡ bụng chỉ là 45,15g. Một số tác giả cũng xác định được các kiểu gen
này có ảnh hưởng đến khối lượng thân thịt: gà có kiểu gen CC có khối lượng thân
thịt là 1.513g trong khi gà có kiểu gen TT có khối lượng thân thịt chỉ là 1.419g
(Lei & cs., 2007; Qiu & cs., 2006).
77
Bảng 4.5. Khối lượng cơ thể gà Mía từ mới nở đến 20 tuần tuổi
mang kiểu gen thuộc đa hình T3737C của gen INS (LSM ± SE)
(Đvt: g)
Tuần tuổi CT (n=203) TT (n=718)
01NT 29,28±0,29 29,26±0,16
1 52,40±0,76 53,53±0,40
2 105,88±1,65 107,72±0,88
3 163,22±2,69 164,24±1,44
4 243,23±3,68 244,33±1,97
5 406,50±5,32 408,58±2,85
6 406,50±5,32 408,58±2,85
7 498,00±6,15 499,97±3,30
8 602,51±6,98 608,09±3,75
9 697,47±7,91 711,31±4,24
10 791,45±9,05 807,63±4,85
11 904,21±9,71 916,27±5,21
12 996,54±10,79 1011,91±5,79
13 1101,40±11,50 1110,51±6,17
14 1191,16±12,19 1199,73±6,54
15 1286,35±12,91 1292,25±6,92
16 1380,62±13,52 1384,67±7,25
17 1467,69±13,95 1473,39±7,48
18 1549,63±14,43 1561,10±7,74
19 1632,86±14,99 1645,39±8,04
20 1714,38±15,40 1731,98±8,26
Như vậy, số liệu từ các bảng 4.4 và 4.5 cho thấy, về cơ bản 5 kiểu gen: GG,
AG, AA, TT, CT của 2 đa hình A3971G và T3737C gen Insulin không ảnh hưởng
đến sinh trưởng của gà Mía. Trong điều kiện cụ thể (môi trường gà Mía trong thí
nghi