MỞ ĐẦU . 1
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. 7
1.1. Tình hình nghiên cứu về chủ thể của tội phạm. 7
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu liên quan đến chủ thể của tội phạm. 19
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ HÌNH
THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM. 23
2.1. Khái niệm và các điều kiện của chủ thể của tội phạm. 23
2.2. Phân loại chủ thể của tội phạm . 38
2.3. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với một số phạm trù khác. 43
2.4. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm
. 48
2.5. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm đến trước khi ban hành Bộ luật
hình sự năm 2015. 59
Chương 3 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN
HÀNH VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG. 69
3.1. Thực tiễn quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể của tội
phạm. 69
3.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội
phạm ở nước ta. 98
3.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể
của tội phạm và nguyên nhân. 120
Chương 4 YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CHỦ THỂ CỦA
TỘI PHẠM . 126
175 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 458 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gây nên những biến đổi bất thường về lời nói, ý tưởng,
hành vi, tác phong, tình cảm” [134, tr.28].
- Dấu hiệu tâm lý: người trong tình trạng không có NLTNHS là người không có
(hoặc không còn) năng lực nhận thức đòi hỏi của xã hội liên quan đến hành vi có tính
gây thiệt hại cho xã hội mà họ đã thực hiện, là người không có năng lực đánh giá được
ý nghĩa xã hội của hành vi của mình là đúng hay sai, nên làm hay không nên làm. Do
đó, họ cũng bị mất năng lực kiềm chế việc thực hiện hành vi đó. Người trong tình
trạng không có năng lực TNHS còn có thể là người tuy có năng lực nhận thức, tuy có
khả năng đánh giá được tính chất xã hội của hành vi của mình nhưng do bệnh lý không
thể kiềm chế được việc thực hiện hành vi đó.
Hai dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý là những điều kiện cần và đủ để xác định
một người ở trong tình trạng không có năng lực TNHS. Hai dấu hiệu này có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau, dấu hiệu y học (mắc bệnh) với vai trò là nguyên nhân và dấu
hiệu tâm lý (mất năng lực nhận thức hoặc mất năng lực điều khiển hành vi) giữ vai trò
là kết quả. Tiêu chuẩn y học là điều kiện cần và tiêu chuẩn tâm lý là điều kiện đủ để
xác định người đó có năng lực TNHS hay không. Chính vì vậy, chúng ta không thể kết
76
luận một người mắc bệnh tâm thần là tất yếu phải dẫn đến mất năng lực TNHS. Trong
thực tiễn cho thấy, không phải mọi trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần đều
mất đi năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi, vì cũng có trường hợp
mắc bệnh tâm thần nhưng không làm mất đi hoàn toàn năng lực nhận thức hoặc năng
lực điều khiển hành vi, tức là họ trong tình trạng bị hạn chế NLTNHS. Cũng có những
người rơi vào trạng thái mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi
nhưng không phải do bị bệnh mà có thể do một nguyên nhân khác như là sử dụng
rượu, hoặc chất kích thích mạnh khác. Cả hai trường hợp trên, theo quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam hiện hành thì người thực hiện hành vi, tùy vào mức độ vẫn phải
chịu TNHS về hành vi của mình chứ không được xem xét là tình trạng không có năng
lực TNHS.
Điều 13 BLHS năm 2015 quy định: “Người phạm tội trong tình trạng mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng rượu, bia hoặc
chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS”. Năng lực nhận thức và năng lực
điều khiển hành vi của người trong tình trạng say do dùng rượu, bia hoặc chất kích
thích mạnh khác có thể bị hạn chế hoặc tạm thời mất đi trong một khoảng thời gian
nhất định tùy vào mức độ sử dụng khác nhau, nhưng người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong trường hợp này phải chịu TNHS. Bởi lẽ, tình trạng say do sử
dụng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh khác và tình trạng không có năng lực TNHS
có điểm giống nhau và khác nhau được thể hiện ở các đặc điểm cơ bản sau:
- Giống nhau: trong cả hai trường hợp chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội đều ở trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành
vi và hành vi này có dấu hiệu của tội phạm được quy định trong BLHS;
- Khác nhau: Thứ nhất, tình trạng say do dùng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh
khác dù gây ra sự rối loạn của hoạt động tâm lý nhưng không phải là do bệnh tâm thần hoặc
một bệnh khác (dấu hiệu y học) gây ra mà do dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh
khác. Thứ hai, chủ thể thực hiện hành vi không tự mình và cũng không thể tự đặt mình vào
trạng thái bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác nhưng con người tự đặt mình và có thể tự đặt
mình một cách có ý thức, có chủ đích vào trạng thái say. Nghĩa là, chủ thể không có lỗi
trong tình trạng bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác nhưng chủ thể có thể có lỗi trong tình
trạng say do dùng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh khác vì điều luật sử dụng từ “dùng”.
Hiện nay, có nhiều cách giải thích khác nhau về quy định này, trong đó có cách giải
thích cho rằng, người phạm tội trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng
điều khiển hành vi do dùng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh khác vẫn bị coi là có năng
lực TNHS, vì khi dùng rượu bia hoặc chất kích thích mạnh khác họ là người bình thường,
có năng lực TNHS nhưng họ đã tự đặt mình vào tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc
77
mất khả năng điều khiển hành vi. Họ có lỗi trong trường hợp này và do vậy họ cũng có lỗi
đối với hành vi gây thiệt hại cho xã hội được thực hiện trong tình trạng này.
Với cách lý giải trên đây và theo quy định của điều luật cho thấy, điều luật không xác
định trường hợp chủ thể thực hiện hành vi không có lỗi trong việc “sử dụng” rượu bia
hoặc chất kích thích mạnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều
khiển hành vi của mình như trường hợp bị lừa dối, ép buộc hay bị người khác tiêm chất
kích thích mạnh vào cơ thể mà không biết hoặc không thể kháng cự được. Một trường
hợp cũng được xem là trường hợp không có lỗi đó là trường hợp “say bệnh lý”. Đây là
trường hợp “ rối loạn ý thức phát triển đột ngột, không phụ thuộc vào lượng rượu đã
uống” [154, tr.183].
Vấn đề NLTNHS của chủ thể của tội phạm ở các quốc gia cũng có cách quy định
khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung trong quy định của hầu hết các quốc gia đều
xác định tình trạng NLTNHS với hai tiêu chí về y học (mắc bệnh tâm thần) và về tâm
lý (mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi). Cụ thể:
Pháp luật hình sự Vương quốc Anh có cách tiếp cận về vấn đề NLTNHS thông qua
quy định về tình trạng không có năng lực TNHS. Qua đó, “không có năng lực TNHS”
thường được xác định thông qua “quy tắc M’Naghten” năm 1843. Quy tắc này được xây
dựng dựa trên vụ án Woodsman Daniel M’Naghten ám sát Thủ tướng Anh Robert Peel
nhưng bắn nhầm sang thư ký của ông là Edward Drummond vào năm 1843. M’Naghten
thực hiện hành vi do bị “ám ảnh” rằng Thủ tướng Anh cùng Đức Giáo hoàng có mưu đồ
ám sát ông ta. Trong quá trình xét xử, các chuyên gia tầm thần học đã làm chứng rằng
M’Naghten bị “ám ảnh” khi thực hiện hành vi phạm tội. Theo phán quyết của Bồi thẩm
đoàn, M’Naghten được tuyên vô tội vì không có năng lực TNHS. Tuy nhiên, quyết định
này đã gây nên bức xúc trong công luận, và theo yêu cầu của nữ hoàng Victoria cùng
Thượng viện, 15 thẩm phán Tòa án thẩm quyền chung đã xem xét lại các kết luận của Bồi
thẩm đoàn, và xác định rằng các kết luận nói trên không phù hợp để các Tòa án sử dụng
như tiền lệ pháp cho các vụ việc sau này. Các thẩm phán đồng thời đã đưa ra quan điểm
đối với việc xây dựng các tiêu chí pháp lý của trường hợp không có năng lực TNHS và
được gọi chung là quy định M’Naghten [8]. Bản chất của quy tắc này thể hiện ở chỗ
người bị mắc bệnh tâm thần hoặc khiếm khuyết về tâm lý sẽ không bị truy cứu TNHS nếu
người đó không có khả năng nhân thức được “bản chất và tính chất” của hành vi và không
nhận thức được đó là hành vi nguy hại. Tại thời điểm được ban hành, đây là một quy định
mang tính chất tiến bộ. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ pháp luật, quy định này mới chỉ nhấn
mạnh đến dấu hiệu lý trí của phạm trù không có năng lực TNHS (khả năng nhận thức),
mà chưa phản ánh được dấu hiệu về ý chí (khả năng điều khiển hành vi). Liên quan đến
tiêu chí sinh học của tình trạng không có năng lực TNHS, thực tiễn xét xử của Vương
quốc Anh coi những hình thức bệnh và sự lệch lạc về mặt tâm thần như bệnh mất trí
78
(amnesia), bệnh si ngốc, nghiện chất có cồn, bị điên, bệnh hoang tưởng, biến thái nhân
cách, mộng du là những bệnh về thần kinh. “Người bị buộc tội do căn bệnh thần kinh
hoặc khiếm khuyết thần kinh tác động đã không làm chủ được bản thân hoặc làm chủ
được bản thân song không nhận thức được tính trái đạo đức của hành vi mà mình thực
hiện” [163, tr.58].
Cũng giống như pháp luật của Vương quốc Anh và một số nước theo hệ thống thông
luật, luật hình sự Hoa Kỳ cũng có cách tiếp cận tương tự và khái niệm “không có năng lực
TNHS” được xác định thông qua “quy tắc M’Naghten” và được quy định tại Mục 18 Bộ
tổng tập luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và trong BLHS của một số bang. Tại một số bang
của Hoa Kỳ, quy tắc này được bổ sung thêm khái niệm “sự thúc đẩy không thể cưỡng lại
được” (irresistible impulse). Quy tắc này được áp dụng trong vụ án John Hinckley mưu
sát Tổng thống Reagan nhưng không phải chịu TNHS vì được coi là người không có năng
lực TNHS. Theo đó, một người được coi là không có năng lực TNHS nếu vì sự thôi thúc
không thể cưỡng lại được do khiếm khuyết tâm lý họ không thể kiểm soát được hành vi
của mình, mặc dù có thể nhận thức được rằng mình đã xử sự “không đúng”. Bên cạnh đó,
một số bang khác của Hoa Kỳ lại áp dụng “quy tắc Durham” (product test), theo đó, một
người được coi là không có NLTNHS nếu hành vi của người đó là “sản phẩm” (product)
của bệnh tật hoặc khiếm khuyết về tâm lý. Trong trường hợp này nhà làm luật từ chối xem
xét đến phạm trù pháp lý và chỉ giải quyết vấn đề trên khía cạnh y học. Cùng với các quy
tắc nói trên, ở Hoa Kỳ còn tồn tại một khái niệm khác về tình trạng không có năng lực
TNHS được quy định trong BLHS mẫu của Hoa Kỳ năm 1962. Tại Mục 1, Điều 40.1 Bộ
luật này quy định: “Một người không phải chịu TNHS về hành vi phạm tội nếu tại thời
điểm thực hiện hành vi người đó vì bị bệnh tâm thần hoặc vì si ngốc mà không có khả
năng, ở mức độ đáng kể, nhận biết được tính tội phạm của hành vi hoặc điều chỉnh hành
vi của mình phù hợp với yêu cầu của pháp luật”. Từ khái niệm này, Điều 30.05 BLHS
bang New York quy định khái niệm tình trạng không có năng lực TNHS, theo đó “một
người không phải chịu TNHS về hành vi của mình nếu như tại thời điểm thực hiện hành
vi người đó vì bị bệnh tâm thần hoặc vì si ngốc mà không có khả năng, ở mức độ đáng kể,
nhận biết hoặc đánh giá: a) Tính chất và hậu quả của hành vi của mình, hoặc b) Hành vi
của mình là không đúng”. Ở khái niệm này, nhà làm luật đã cố gắng kết hợp quy định của
quy tắc M’Naghten (quy định này được hơn một nửa số bang ở Hoa Kỳ áp dụng trong đó
có các bang như New Jersey (Điều 2C:4-1), Lousiana (Điều 14:14), Minesota (Điều
611.016) [12, tr.438]cùng vối khái niệm mẫu về tính trạng không có năng lực TNHS
trong BLHS mẫu của Hoa Kỳ. Cũng như Vương quốc Anh, đối với tiêu chí sinh học của
tình trạng không có NLTNHS, thực tiễn xét xử ở Hoa Kỳ coi những hình thức bệnh và
lệch lạc về mặt tâm thần như bệnh mất trí nhớ, bệnh si ngốc, nghiện chất có cồn, bị điên,
bị bệnh hoang tưởng, biến thái nhân cách, mộng dulà những bệnh về thần kinh. Người
79
bị buộc tội cần tự chứng minh được tình trạng không có năng lực TNSH của mình và nếu
có phán quyết rằng “người phạm tội không có lỗi vì tình trạng không có năng lực TNHS”
thì sẽ không phải chịu TNHS nhưng bị đưa đến các cơ sở chữa bệnh dạng đóng. Thực tế
xét xử ở Hoa Kỳ cho thấy, không có nhiều trường hợp bị cáo viện dẫn đến tình trạng
không có năng lực TNHS vì chế độ ở các cơ sở chữa bệnh dạng đóng không khác gì mấy
so với chế độ tù giam.
Pháp luật hình sự Pháp cũng ghi nhận khái niệm tình trạng không có NLTNHS phản
ánh rõ hai tiêu chí: tiêu chí sinh học - có sự rối loạn về mặt thần kinh hoặc tâm thần; tiêu
chí về tâm lý - không có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Theo đó, tại Điều
122-1 BLHS Cộng hòa Pháp thì một người sẽ không phải chịu TNHS nếu tại thời điểm
thực hiện hành vi mà bị rối loạn thần kinh hoặc bị tổn thương hệ thần kinh khiến người
đó mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tuy nhiên,
BLHS Pháp không những không làm rõ khái niệm “rối loạn thần kinh” và “tổn thương
hệ thần kinh”, mà còn không đề cập cụ thể các loại rối loạn hay tổn thương này là các
loại nào.
Cách tiếp cận về NLTNHS của các nhà làm luật ở Cộng hòa liên bang Đức hơi
khác so với các quốc gia. Người thực hiện hành vi trái pháp luật do mắc bệnh rối loạn
tâm thần được coi là không có năng lực TNHS vì không có lỗi. Điều 20 BLHS Liên
bang Đức quy định: “Người nào khi thực hiện hành vi mà không có năng lực nhận
thức sự không hợp pháp của hành vi hoặc không có năng lực thực hiện hành vi theo
nhận thức này do rối loạn tâm thần bệnh lý, rối loạn ý thức nặng hoặc do thiểu năng
hoặc do các bất bình thường nặng khác về tâm thần thì họ thực hiện không có lỗi”.
Như vậy, trong BLHS Liên bang Đức, tình trạng không có NLTNHS được xem là tiền
đề của lỗi khi xác định hình phạt đối với người phạm tội và hành vi phạm tội của họ.
Quy định về mất năng lực nhận thức và giảm năng lực nhận thức trong BLHS của
Nhật Bản có sự khác biệt so với quy định về trường hợp mất khả năng nhận thức và
khả năng điều khiển hành vi trong BLHS Việt Nam. Điều 39 BLHS Nhật Bản quy
định “1. Không xử phạt hành vi của người mất năng lực nhận thức. 2. Giảm nhẹ hình
phạt đối với hành vi của người giảm năng lực nhận thức”. Và, Điều 66 quy định:
“Nếu trong tội phạm có tình tiết cần được xét đến thì có thể giảm nhẹ hình phạt” [3].
Như vậy, điều luật quy định về trường hợp giảm nhẹ hình phạt, cùng với đó là giảm
nhẹ TNHS cho người thực hiện hành vi phạm tội. Cũng tương tự như BLHS của Việt
Nam và của một số quốc gia khác, BLHS Nhật Bản không xác định rõ ràng thế nào là
tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ xác định không xử phạt đối với
người mất năng lực nhận thức, tức không đặt ra vấn đề TNHS đối với những người bị
mất năng lực nhận thức. Tuy nhiên, BLHS Nhật Bản lại không có quy định cụ thể thế
nào là người bị mất năng lực nhận thức như trong BLHS của Việt Nam.
80
Pháp luật hình sự của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa không ghi nhận phạm trù về
tình trạng không có NLTNHS nhưng có ghi nhận các tiêu chí về y học và tâm lý của
tình trạng này. Theo Điều 18 BLHS Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quy định thì người
mắc bệnh tâm thần gây hậu quả nguy hiểm trong khi mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi của mình, sau khi được xác nhận thông qua các thủ tục pháp
lý thì không phải chịu TNHS.
Từ những phân tích, đối chiếu trên đây có thể kết luận rằng, pháp luật hình sự của
các quốc gia về cơ bản có cách tiếp cận tương đồng nhau về năng lực TNHS, coi năng
lực TNHS là một trong các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm và coi tình trạng không
có NLTNHS là có sở để loại trừ TNHS. Tuy nhiên, luật hình sự các quốc gia cũng có
cách tiếp cận khác nhau về cách xác định tình trạng không có năng lực TNHS và đa số
pháp luật hình sự các nước này lại không thừa nhận tiêu chí tâm lý (ý chí) của tình
trạng không có năng lực TNHS hoặc nếu có thừa nhận thì cách quy định cũng không
chính xác. Trên bình diện so sánh pháp luật có thể khẳng định rằng, trên cơ sở kế thừa
có chọn lọc, quy định về tình trạng không có năng lực TNHS trong pháp luật hình sự
Việt Nam đã phản ánh khá đầy đủ các thành tựu nghiên cứu của tâm thần học hiện đại
cũng như các quan điểm khoa học về phạm trù này. Quy định về tình trạng không có năng
lực TNHS ở Điều 21 BLHS Việt Nam năm 2015 thể hiện cả hai tiêu chí y học và tâm lý.
Bởi thực tiễn cho thấy, không phải bất kỳ người nào bị rối loạn tâm thần cũng có nghĩa là
họ sẽ là người không có năng lực TNHS. Do đó, việc không xem xét hoặc xem thường
dấu hiệu lý trí hoặc dấu hiệu ý chí trong các tiêu chí đánh giá trạng thái tâm thần có thể
dẫn đến việc miễn TNHS không đúng hoặc xét xử oan sai.
Bên cạnh việc tiếp cận về năng lực TNHS thông qua phạm trù tình trạng không có
năng lực TNHS, các quốc gia đều có ghi nhận chế định NLTNHS hạn chế trong BLHS,
chẳng hạn, trong một số bang phía Bắc Hoa Kỳ, thẩm phán sử dụng khái niệm tình trạng
năng lực TNHS hạn chế khi bị can cung cấp chứng cứ chứng minh việc người đó ở
trong tình trạng tâm thần mà không thể thực hiện được hành vi phạm tội, do ở đó đòi hỏi
phải có ý định đặc biệt, chủ ý trước Nếu chứng cứ được chấp nhận và tình trạng hạn
chế năng lực TNHS được xác định, hành vi phạm tội sẽ được định tội nhẹ hơn, chẳng
hạn thay vì tội giết người nghiêm trọng thì chỉ định tội về hành vi giết người thông
thường; Hay tại Điều 21 BLHS Đức quy định về năng lực TNHS hạn chế thì nếu như
khả năng nhận thức của một người về tính bất hợp pháp của hành vi hoặc khả năng thực
hiện theo nhận thức này giảm đi đáng kể vì bị rối loạn tâm thần, mắc chứng động kinh
nghiêm trọng, bị bệnh thiểu năng trí tuệ thì hình phạt có thể được giảm nhẹ; Hay tại
Điều 18 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thì người phạm tội mắc bệnh tâm thần
nhưng chưa hoàn toàn mất hết khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình phải
chịu trách nhiệm hình sự nhưng có thể được giảm nhẹ hình phạt Và, với những người
81
phạm tội trong tình trạng năng lực TNHS hạn chế đều bị xem là tội phạm, tuy nhiên, theo sự
xem xét của Tòa án thì những người này sẽ được giảm TNHS (giảm hình phạt). Ngoài ra,
các quốc gia đều ghi nhận trạng thái tâm thần của những người có năng lực TNHS hạn chế
dựa trên các tiêu chí y học và pháp lý, những người này chỉ bị mất một phần khả năng nhận
thức tính chất của hành vi hoặc mất một phần khả năng điều khiển hành vi của mình.
Ngoài ra, vấn đề TNHS của người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu, bia
hoặc chất kích thích mạnh khác đều được ghi nhận trong pháp luật hình sự của các quốc
gia. Tuy nhiên, mỗi quốc gia có cách tiếp cận khác nhau về vấn đề này. Một số quốc gia
quy định TNHS đối với người thực hiện tội phạm trong tình trạng sử dụng rượu, bia hoặc
chất kích thích mạnh khác, như Điều 18 BLHS Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định:
“Người phạm tội do say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự”. Pháp luật hình sự Việt Nam
có sự quy định tương tự giống với luật hình sự Trung Hoa khi xác định người phạm tội
trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do
dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác, thì vẫn phải chịu TNHS (Điều 13 BLHS
Việt Nam năm 2015); Một số quốc gia quy định đối với người thực hiện tội phạm trong
tình trạng sử dụng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác được miễn hình phạt, như
quy định của BLHS Ba La, Thụy Sỹ; Một số quốc gia quy định đối với người thực hiện tội
phạm trong tình trạng sử dụng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác có thể được giảm
hình phạt, chẳng hạn, theo Điều 15.25 BLHS bang New York (Hoa Kỳ).
3.1.1.3. Chủ thể đặc biệt của tội phạm
Một số tội phạm được quy định trong BLHS có chủ thể không phải là bất kỳ người
nào thỏa mãn các dấu hiệu có tính chất pháp lý hình sự bắt buộc thuộc chủ thể của tội
phạm là năng lực TNHS và độ tuổi chịu TNHS mà luật quy định người thực hiện hành
vi phạm tội còn phải có thêm một hoặc một số đặc điểm riêng biệt. Những tội phạm
mà luật hình sự quy định chủ thể của tội phạm phải có thêm những dấu hiệu đặc thù
ngoài những dấu hiệu chung, phổ biến mà chủ thể của bất kỳ tội phạm nào cũng có
được gọi là tội phạm có chủ thể đặc biệt. Như đã phân tích, chủ thể đặc biệt của tội
phạm không được quy định cụ thể ở phần chung của BLHS Việt Nam nhưng được quy
định cụ thể trong một số các tội phạm cụ thể ở phần các tội phạm. Trong tổng số 315
Điều luật quy định về các tội phạm cụ thể thì có 124 điều luật quy định về chủ thể đặc
biệt. Có thể căn cứ vào các dấu hiệu của chủ thể đặc biệt để xem xét như sau:
- Dấu hiệu về chức vụ, quyền hạn:
Trong BLHS, các tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện bao gồm các
tội phạm quy định trong chương XXIII Các tội phạm về chức vụ gồm 15 điều, từ Điều
352 đến Điều 366. Ngoài Điều 352 quy định về khái niệm tội phạm chức vụ, Chương
này được thiết kế thành 02 Mục: Mục 01: Các tội phạm về tham nhũng gồm 07 điều (từ
Điều 352 đến Điều 359); Mục 02: Các tội phạm khác về chức vụ gồm 07 điều (từ Điều
82
360 đến Điều 366). Chủ thể của các tội phạm trong Chương này ngoài việc đáp ứng các
điều kiện của chủ thể thường thì người phạm tội phải là người “có chức vụ, quyền hạn”
được giao quản lý tài sản nhất định. Đối tượng bị xâm hại trực tiếp là tài sản mà chủ thể
có trách nhiệm quản lý. Điều 352 BLHS năm 2015 quy định: “1. Các tội phạm về chức
vụ là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có
chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ. 2. Người có chức vụ là người
do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc
không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất
định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ” [87]. Để tiến hành định tội danh và truy
cứu TNHS của những người phạm tội do lợi dụng “chức vụ, quyền hạn” thì việc xác
định như thế nào là người có chức vụ, quyền hạn và việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để
phạm tội là một vấn đề quan trọng. Với khái niệm trên, phạm vi của các tội phạm về
chức vụ không chỉ giới hạn trong các hành vi xâm phạm hoạt động công của Nhà nước
mà còn mở rộng đối với các hoạt động của các tổ chức khác ngoài xã hội. Chủ thể của
các tội phạm về chức vụ phải là người có “chức vụ, quyền hạn” và họ đã lợi dụng chức
vụ, quyền hạn được giao để chiếm đoạt tài sản bằng các hình thức khác nhau. Vì vậy,
“chức vụ, quyền hạn” là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành định tội hoặc trong cấu thành
định khung ở những tội phạm này, đồng thời, nó cũng là dấu hiệu quan trọng để phân
biệt các tội phạm về chức vụ với các tội phạm khác trong BLHS. So với các quy định về
tội phạm chức vụ trong BLHS năm 1999 thì BLHS năm 2015 có một số sửa đổi, bổ
sung, trong đó, có những sửa đổi, bổ sung về chủ thể của các tội phạm thuộc chương
này. Cụ thể là mở rộng chủ thể của các tội tham ô tài sản (Điều 353) và tội nhận hối lộ
(Điều 354). Tại khoản 6 Điều 353 (Tội tham ô tài sản) quy định: “Người nào có chức
vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà tham ô tài sản, thì bị
xử lý theo quy định tại điều này”. Và khoản 6 Điều 354 (Tội nhận hối lộ) quy định:
“Người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà
nhận hối lộ, thì bị xử lý theo quy định tại điều này”. Như vậy, BLHS năm 2015 mở rộng
phạm vi xử lý về tội tham ô và tội nhận hối lộ đến các lĩnh vực ngoài nhà nước. Nếu như
trước đây, một số người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà
nước mà thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản thì không thể
xử lý bằng quy định của các tội về tham nhũng mà bị truy cứu TNHS về các tội chiếm đoạt
tài sản khác như lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì
theo quy định mới của BLHS năm 2015, hành vi đó có thể bị xử lý về tội tham ô tài sản
hoặc tội nhận hối lộ.
- Dấu hiệu về nghề nghiệp, tính chất công việc:
Trong Phần các tội phạm của BLHS năm 2015 quy định chủ thể của một số tội
phạm ngoài những dấu hiệu chung cơ bản thì yêu cầu phải thỏa mãn thêm dấu hiệu đặc
83
biệt về nghề nghiệp, tính chất công việc. Cụ thể: Đối với tội phạm quy định tại Điều
277 tội vi phạm quy định về điều khiển tàu bay có chủ thể đặc biệt là người chỉ huy,
điều khiển tàu bay. Theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT - BCA-
BQP - BTP - VKSNDTC - TANDTC ngày 28/8/2013 về việc hướng dẫn áp dụng một
số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao
thông, khoản 1, 2 Điều 12 xác định: Người điều khiển tàu bay là thành viên tổ lái,
gồm: lái chính, lái phụ và nhân viên hàng không khác phù hợp với loại tàu bay. Người
chỉ huy tàu bay là thành viên tổ lái được người khai thác tàu bay chỉ định cho một
chuyến bay; đối với hoạt động hàng không chung không vì mục đích thương mại thì
do chủ sở hữu tàu bay chỉ định.
Tương tự, tội điều khiển tàu bay vi phạm quy định về hàng không của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 283 và tội điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm
quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 284
BLHS có chủ thể đặc biệt là người điều khiển tàu bay hoặc phương tiện hàng hải.
- Dấu hiệu về nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân:
Nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân được quy định trong các văn bản pháp luật
của Nhà nước và của Quân đội. Với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội, mỗi
cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đó. Sức mạnh, trình độ sẵn sàng chiến
đấu và chế độ phục vụ quân đội phụ thuộc rất nhiều vào việc hoàn thành nghĩa vụ ,
trách nhiệm của mỗi quân nhân. Sức mạnh, trình độ chiến đấu và chế độ phục vụ quân
đội không phải do một mà là nhiều yếu tố hợp thành. Mỗi hành vi phạm tội không
đồng thời xâm hại tất cả các yếu tố hợp thành đó, không phải xâm hại toàn bộ các quan
hệ xã hội liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, mà chỉ
xâm hại quan hệ xã hội nhất định.
Chương XXV BLHS năm 2015 quy định về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân và trách nhiệm của người phối thuộc với quân đội trong chiến
đấu, phục vụ chiến đấu bao gồm 29 điều luật từ Điều 392 đến Điều 420. Trong đó,
Điều 392 quy định những người phải chịu TNHS về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách
nhiệm của quân nhân bao gồm: “Quân nhân tại ngũ, công nhân, viên chức quốc
phòng. Quân nhân dự bị trong thờ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_chu_the_cua_toi_pham_theo_phap_luat_hinh_su_viet_nam.pdf