MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CƠ
CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TỔNG CÔNG TY NHÀ NưỚC. 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ngoài nước liên quan đến cơ chế
quản lý tài chính ở tổng công ty nhà nước .6
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước liên quan đến quản lý tài chính ở các
tổng công ty nhà nước. 18
1.3. Những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề còn tranh luận và những
vấn đề cần nghiên cứu trong luận án. 25
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ CƠ CHẾ
QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TỔNG CÔNG TY NHÀ NưỚC. 31
2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò tổng công ty nhà nước. 31
2.2. Cơ chế quản lý tài chính ở các tổng công ty nhà nước. 42
2.3. Kinh nghiệm xây dựng và vận hành cơ chế quản lý tài chính của một
số tổng công ty nhà nước và bài học rút ra cho Tổng công ty Sông Đà. 73
Chương 3. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH Ở TỔNG CÔNG
TY SÔNG ĐÀ . 85
3.1. Khái quát về Tổng công ty Sông Đà. 85
3.2. Phân tích thực trạng cơ chế quản lý tài chính ở Tổng công ty Sông Đà. 91
3.3. Đánh giá cơ chế quản lý tài chính ở Tổng công ty Sông Đà . 112
Chương 4. PHưƠNG HưỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN
LÝ TÀI CHÍNH Ở TỔNG CÔNG TY SÔNG ĐÀ . 127
4.1. Phương hướng hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở Tổng công ty
Sông Đà. 127
4.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính ở Tổng công ty Sông Đà. 135
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ . 150
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ. 152
DANH MỤC TÀI LIỆ
170 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 592 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cơ chế quản lý tài chính ở Tổng công ty Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c hiện nhiệm vụ của SASAC. Cơ quan thanh tra chính phủ thực hiện
kiểm tra độc lập việc chấp hành dự toán kinh doanh vốn nhà nước tại các DN thuộc
đối tượng giám sát, kiểm toán. Chính phủ Trung Quốc cũng thành lập một số công
ty để thực hiện hoạt động đầu tư và kinh doanh vốn của Nhà nước với mục tiêu lợi
nhuận như: Tổng công ty Đầu tư Trung Quốc (CIC); Quỹ An sinh Xã hội quốc gia
(NSSF); Công ty đầu tư SAFE (SAFE).
75
SASAC có thể đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp vào DN. Những hạng
mục đầu tư lớn theo quy định quản lý đầu tư quốc gia sẽ do Chỉnh phủ hoặc các cơ
quan hữu quan của Chỉnh phủ trực tiếp phê chuẩn. Các hoạt động đầu tư của Trung
ương thường do SASAC thực hiện, hoặc thông qua 2 công ty kinh doanh tài sản nhà
nước có cổ phần chi phối là Thành Thông (CCT) và Công ty đầu tư phát triển quốc
gia (SDIC). SASAC sẽ quyết định cấp vốn đầu tư dựa trên báo cáo kế hoạch đầu tư
hàng năm trong chiến lược phát triển của DN. Khi SASAC mới được thành lập
(2003), số lượng DN do cơ quan này quản lý là 193 DN trung ương. Sau nhiều lần tổ
chức lại, tính đến tháng 5/2013, SASAC chỉ còn quản lý 115 DN Trung ương.
Nhà nước Trung Quốc thiết lập chế độ dự toán kinh doanh vốn nhà nước,
tiến hành quản lý thu, chi và thu nhập từ vốn nhà nước theo kế hoạch hàng năm.
Đối với các nguồn vốn đầu tư từ NSNN Trung ương, bản dự toán kinh doanh vốn
nhà nước thường niên do SASAC xây dựng, kiến nghị đề án trình cho Quốc vụ
Viện (hiện nay Quốc vụ Viện Trung Quốc giao cho Bộ Tài chính là cơ quan chủ
trì). Theo “Thông tư hướng dẫn biên soạn và báo cáo dự toán kinh doanh vốn nhà
nước Trung ương” của Trung Quốc bản sửa đổi ban hành và có hiệu lực ngày
13/10/2011, các khoản thu nhập trong bản dự toán kinh doanh vốn nhà nước bao
gồm: thu nhập từ lợi nhuận, thu nhập từ chuyển nhượng quyền tài sản, thu nhập từ
giải thể, những phần thu nhập khác từ kinh doanh vốn nhà nước, thu nhập kết
chuyển năm trước.
Tỷ lệ lợi nhuận phải nộp được phân thành 4 mức là 20%, 15%, 10%, 5% lợi
nhuận sau thuế (được thu về NSNN). Tuy nhiên, tỷ lệ này có thể được điều chỉnh
hàng năm và điều chỉnh theo từng đối tượng DN cụ thể. Việc phân chia lợi nhuận
được quy định theo từng năm dựa vào dự toán kinh doanh tài sản nhà nước thường
niên, có sự khác nhau giữa Trung ương, địa phương.
Việc thành lập SASAC đã tách bạch cơ quan quản lý hành chính và cơ quan
kinh doanh trong hệ thống các cơ quan nhà nước trung Quốc. Đây là cơ chế “chia
quyền đại diện” thay cho cơ chế“phân cấp quản lý hành chính” trước kia. Cơ chế
mới đã xác định rõ cơ quan thay mặt cho Chính phủ thi hành chức trách của người
xuất vốn, giám sát quản lý tài sản nhà nước tại DN. Mô hình này khuyến khích DN
76
định hướng lợi nhuận rõ hơn, xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm bảo toàn và làm
tăng giá trị tài sản nhà nước tại DN. Hơn nữa, với SASAC việc giám sát và quản lý
tài sản của nhà nước tại DN đã được quy về một mối, tương đối độc lập với qơ quan
quản lý hành chính, nhờ đó có thể ra các quyết định đầu tư hợp lý hơn.
Tuy nhiên, do mô hình này đặt cơ quan nhà nước vào vị trí "Hội đồng quản
trị" của DN để tiến hành quản lý giám sát, nên có thể dẫn đến việc SASAC trở
thành HĐQT chung của các DN thuộc các ngành nghề khác nhau, khó có thể bao
quát được chiến lược kinh doanh và công nghệ của DN do họ quản lý, kết cục lại có
thể dẫn đến kế hoạch hóa quan liêu. Ngoài ra, với sự quản lý song trùng của Quốc
hội và Chính phủ, mối quan hệ đại diện chủ sở hữu nhà nước giữa Quốc hội, Chính
phủ, SASAC chưa thật rõ ràng. Nếu SASAC ôm đồm các trách nhiệm về giám sát
kế hoạch và cấp vốn hàng năm thì sẽ dẫn đến quá tải, chi phí quản lý vốn nhà nước
tại DN có xu hướng gia tăng.
2.3.2. Kinh nghiệm xây dựng và vận hành cơ chế quản lý tài chính của
Temasek Holdings
Temasek Holdings khi mới thành lập là chủ sở hữu và quản lý khoảng 30 dự
án đầu tư công. Đến nay Tập đoàn này đã quản lý nhiều dự án trong hầu khắp các
ngành kinh tế trọng yếu của Singapo (11 CT trong lĩnh vực tài chính và ngân hàng,
8 CT trong lĩnh vực tiện ích năng lượng, 7 CT trong lĩnh vực truyền thông và viễn
thông, 3 CT trong lĩnh vực giao thông và hậu cần, 3 CT trong lĩnh vực hạ tầng và kỹ
thuật, 3 CT đa ngành, 2 CT dược, 7 CT trong những lĩnh vực khác), sở hữu 9 CT ở
nước ngoài, nắm giữ khoảng 1/5 tổng giá trị thị trường chứng khoán nội địa với
tổng giá trị danh mục đầu tư ròng đạt gần 200 tỷ đôla Singapore.
Mặc dù là tổ chức kinh doanh vốn nhà nước, Temasek có quyền tự chủ rộng
rãi, chỉ chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ về lợi nhuận của phần vốn nhà
nước, không chịu sự quản lý hành chính của cơ quan chủ quản hành chính cấp trên.
Trong nhiều năm qua Chính phủ Singapo cho phép Temasek vận hành theo triết lý,
quan điểm, nguyên tắc kinh doanh như một DN tư nhân. Các quyết định của
Temasek đơn thuần dựa trên các tính toán hiệu quả kinh tế, không bị ràng buộc bởi
các mục tiêu phi kinh tế của Chính phủ. Chính vì thế Temasek coi mục tiêu tối đa
77
hoá lợi nhuận là quan trọng nhất, luôn hướng tới mục tiêu bảo đảm mức sinh lợi cao
nhất cho các cổ đông.
Temasek đã thiết lập được chế độ quản lý tài chính hiện đại. CT mẹ kiểm
soát từng CT con theo chiến lược của CT mẹ và theo vị trí, tầm quan trọng của CT
con. Việc quản trị tài chính dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế hiện đại, yêu cầu tính kỷ
luật cao trong định hướng lợi nhuận đã góp phần to lớn vào thành công của
Temasek. Nhiều năm liền Temasek đem lại mức cổ tức cao. Với tư cách cổ đông,
Temasek không trực tiếp can thiệp vào các quyết định hàng ngày của CT con, chỉ
theo dõi và kiểm soát các quyết định kinh doanh hay đầu tư của các CT con thông
qua kiểm tra các báo cáo tài chính. CT con trong Temasek Holdings có quyền tự
chủ rộng rãi như CT tư nhân.
Để thể chế hóa kỷ luật tài chính vững chắc, Temasek cung cấp thông tin đầy
đủ cho các cổ đông và kêu gọi họ xem xét thường xuyên, kỹ lưỡng các báo cáo về
kết quả và danh mục các khoản đầu của tập đoàn in trên ấn phẩm Temasek Review
phát hành hàng năm, cũng như giám sát qua mức độ xếp loại tín nhiệm đối với Tập
đoàn từ các cơ quan xếp loại tín nhiệm quốc tế có tên tuổi [9, tr. 80-89].
2.3.3. Kinh nghiệm xây dựng và vận hành cơ chế quản lý tài chính của
Tổng công ty hàng không Việt Nam
TCT Hàng không Việt Nam (TCTHKVN) được thành lập năm 1995 với
chức năng chính là vận chuyển hàng không, đồng thời cung ứng một số dịch vụ về
phục vụ kỹ thuật thương mại mặt đất như dịch vụ kỹ thuật sửa chữa và bảo dưỡng
máy bay, dịch vụ cung cấp xuất ăn trên máy bay, dịch vụ hàng hoá miễn cước....
Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam làm nòng cốt trong TCT. Ngoài ra còn có
một số DN thành viên hạch toán độc lập, hạch toán phụ thuộc, đơn vị sự nghiệp có
quan hệ với ngành hàng không. TCT được có HĐQT và TGĐ. HĐQT được Bộ Giao
thông vận tải ủy quyền thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước để quản lý hoạt động
của TCT, chịu trách nhiệm trước Bộ Giao thông vận tải về sự phát triển của TCT. TGĐ
là đại diện pháp nhân của TCT và chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật về
điều hành hoạt động của TCT.
78
Sau nhiều năm hoạt động SXKD, tổng vốn chủ sở hữu của TCT đã có sự
tăng trưởng, mặc dù chậm. Trong cơ cấu vốn chủ sở hữu, Hãng Hàng không quốc
gia Việt Nam chiếm tỷ trọng chi phối. Phần lớn vốn được bổ sung qua các năm từ
lợi nhuận của hoạt động SXKD của TCT. TCTHKVN đã hoàn thành nhiệm vụ bảo
toàn và phát triển vốn, đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả theo quy định của nhà
nước. Nguồn vốn chủ sở hữu chủ yếu được sử dụng để đầu tư vào sơ sở hạ tầng,
mua sắm trang thiết bị nên thu hồi chậm. TCT thiếu vốn kinh doanh nên phải đi
thuê số lớn máy bay. Hàng năm chi phí cho việc thuê máy bay chiếm tỷ trọng khá
cao trong tổng chi phí của toàn TCT.
Cơ cấu vốn biến động theo hướng lành mạnh thông qua việc thu hút vốn
bằng nhiều hình thức khác nhau, không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn NSNN cấp.
Các nhà quản lý cấp cao của TCT đã vạch ra chiến lược có tính đến nhu cầu vốn lâu
dài để làm căn cứ hoạch định chính sách huy động vốn nhằm đầu tư phát triển đội
máy bay sở hữu của TCT. Theo phân cấp trong TCT, mức tín dụng một lần vay trên
3% vốn điều lệ của TCT trở lên do HĐQT quyết định, dưới mức đó do TGĐ quyết
định. TGĐ còn có quyền quyết định phương án và phê duyệt các hợp đồng đầu tư
tài chính, huy động vốn ngắn hạn, bổ sung vốn lưu động theo kế hoạch hàng năm.
Ngoài vay các tổ chức tín dụng, TCT còn huy động vốn thông qua phát hành cổ
phiếu, trái phiếu, tuy nhiên mức huy động còn hạn chế. TCT cũng đã nỗ lực tìm
chọn các đối tác nước ngoài mạnh, có công nghệ hiện đại và uy tín trên thế giới để
thành lập các liên doanh chế biến xuất ăn, đặt vé giữ chỗ.....Tính đến nay, huy động
vốn qua kênh này cũng không đáng kể.
Các dự án sử dụng vốn vay chủ yếu là đầu tư phát triển máy bay của
Vietnam Airlines. Vốn huy động từ bên ngoài chủ yếu do TCT sử dụng. Các đơn vị
hạch toán độc lập chiếm tỷ trọng rất thấp trong sử dụng vốn vay.
Tình hình quản lý các khoản nợ phải trả của TCT trong những năm qua cũng
khá ổn thỏa, chủ yếu là trả nợ các khoản vốn vay đầu tư máy bay. Để quản lý khoản
nợ này TCT đã mở sổ sách theo dõi chi tiết từng khoản nợ vay với từng đối tác cho
vay, xác định chính xác số nợ đến hạn phải trả trong từng năm tài chính. Đồng thời,
TCT định kỳ đánh giá, phân tích khả năng thanh toán nợ, phát hiện sớm tình hình
79
khó khăn trong thanh toán để có giải pháp khắc phục kịp thời, không để phát sinh
các khoản nợ quá hạn. Các khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ được hạch toán toàn bộ
chênh lệch tỷ giá phát sinh của số dư nợ phải trả vào chi phí kinh doanh trong kỳ để
tạo nguồn trả nợ và đảm bảo hoạt động kinh doanh của TCT.
Đầu tư vốn ra ngoài DN của TCT được thực hiện dưới hình thức góp vốn
liên doanh, đầu tư chứng khoán, đầu tư vào trái phiếu chính phủ, các khoản ký quỹ
đặt cọc dài hạn ở nước ngoài. Vốn góp của TCT trong các liên doanh, cổ phần
không có biến động lớn và được theo dõi chặt chẽ. Nhìn chung, phần vốn góp tại
các liên doanh được bảo toàn và phát triển đã đem lại nguồn lợi nhuận hàng năm
đều đặn. Các CT liên doanh có quy mô và tỷ suất lợi nhuận cao gắn liền với hoạt
động của ngành hàng không. Do thực hiện hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu nên
hiện nay TCTHKVN đang nắm giữ một số cổ phiếu của CT khác. Việc nắm giữ cổ
phiếu này hiện đem lại thu nhập dương và một số lợi ích khác cho TCT.
Để thực hiện trách nhiệm của TCTHKVN đối với các hợp đồng thuê máy
bay, TCT đã ký hợp đồng cầm giữ tiền như một khoản đặt cọc tại nước ngoài. Tổng
số tiền đặt cọc dài hạn tại nước ngoài khá lớn.
TCT đã có các biện pháp dự phòng để cân đối nguồn vốn cố định và nguồn
vốn lưu động bằng cách ký hạn mức tín dụng đối với ngân hàng thương mại. Việc ký
hạn mức tín dụng đã thực hiện trong các năm qua là rất cần thiết, cho phép TCT hoàn
toàn chủ động xử lý để cân đối tiền tệ, nguồn vốn. Tuy nhiên, công tác quản lý và
điều hành tiền tệ chưa được tốt. Các khoản chuyên thu được tổ chức và điều hành
phân tán. Hệ thống các tài khoản chuyên thu ở nước ngoài được mở tại nhiều ngân
hàng và sử dụng để thu nhận tiền thanh toán của văn phòng chi nhánh, các đại lý khu
vực quản lý. Một phần tiền thu được cấp sang tài khoản chuyên chi cho các văn
phòng chi nhánh theo lệnh điều từ TCT. Tiền còn lại được chuyển về TCT bằng các
lệnh điều được lập tại Ban Tài chính - Kế toán TCT. Đối với các thị trường nguồn thu
không đủ chi, tiền ngân sách được cấp tại TCT. Đối với các văn phòng khu vực trong
nước chưa tổ chức được hệ thống tài khoản chuyên thu thì đang sử dụng một tài
khoản ngân hàng cho các mục đích của văn phòng khu vực. Trên thực tế, lệnh cấp
ngân sách cho các mục đích chi tiêu từ nguồn thu tại các văn phòng khu vực chỉ để
80
cấp nguồn, không có việc chuyển tiền. Số dư tiền của các văn phòng khu vực được
nộp về TCT, các đơn vị không có nguồn thu, tiền ngân sách TCT cấp trực tiếp cho
đơn vị. Đối với các đơn vị hạch toán độc lập, TCT thực hiện quản lý các tồn khoản,
tồn quỹ tiền mặt theo quy chế quản lý tài chính của TCT, được quyền chủ động và
thực hiện việc bảo toàn, sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, quỹ của đơn vị.
Với cách điều hành trên, ở khối hạch toán tập trung của TCT, nguồn tiền thu
được từ các đơn vị không được hạch toán kịp thời vào tài khoản tập trung của Hãng
Hàng không quốc gia Việt Nam. Số cấp dư trên các tài khoản chi thường xuyên tồn
đọng lớn làm cho tổng lượng tiền cần thiết để duy trì hoạt động của Hãng ở mức cao.
Các đơn vị thực hiện báo cáo số dư hàng tuần, tháng về TCT thông qua hình
thức chuyển văn bản. Hình thức báo cáo này không đáp ứng về mặt thời gian và
không có khả năng kiểm soát, phân tích các dòng tiền phát sinh tại các đơn vị theo
kỳ. Báo cáo tiền tệ cũng không gắn được với báo cáo quản lý công nợ.
Với mục tiêu không ngừng hiện đại hoá, phát triển đội máy bay và thực hiện
chương trình đổi mới công nghệ, TCT đã tận dụng thời cơ giá thuê và mua máy bay,
các thiết bị hàng không trên thị trường thế giới giảm mạnh sau sự kiện khủng bố
ngày 11/09/2001 để phát triển đội máy bay. Vì thế nguyên giá TSCĐ (hữu hình và
vô hình) tăng nhanh qua các năm.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng được đầu tư đồng bộ theo chiến lược phát triển
đội máy bay sở hữu. Việc tính khấu hao tài sản cố định của TCT được thực hiện
theo quy định của Nhà nước. Phương pháp khấu hao theo thời gian, căn cứ thời gian
hữu hiệu của TSCĐ để khấu hao theo đường thẳng. Các TSCĐ hiện có của TCT
đều được trích khấu hao. Tỷ lệ khấu hao TSCĐ phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ
thuật của từng nhóm và phụ thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực SXKD. Toàn bộ
khấu hao TSCĐ thuộc vốn nhà nước được để lại TCT để tái đầu tư, thay thế đổi mới
thiết bị và sử dụng cho nhu cầu kinh doanh của TCT.
Quỹ khấu hao được quản lý như một nguồn tài chính cùng với nguồn vốn
đầu tư bổ sung khác. TCT đã sử dụng rất linh hoạt quỹ khấu hao TSCĐ, kể cả việc
đặt cọc mua máy bay theo nguyên tắc có hoàn trả, nên đã góp phần vào việc sinh
lời, giảm chi phí lãi vay và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
81
TCT quy định cụ thể quy trình ghi chép, theo dõi, đối chiếu, thu hồi nợ, phân
tích khả năng trả nợ cũng như trách nhiệm cụ thể của những cá nhân, phòng ban có
liên quan trong quản lý các khoản nợ. Đối với các khoản nợ khó đòi TCT lập hội
đồng xử lý, xác định rõ số nợ không có khả năng thu hồi, nguyên nhân và trách
nhiệm của tập thể, cá nhân để bù đắp bằng khoản dự phòng nợ khó đòi. Nếu quỹ dự
phòng không đủ, TCT được hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc vào kết quả kinh
doanh tuỳ theo từng trường hợp cụ thể theo quy định của Nhà nước.
Ở các đơn vị thành viên hạch toán độc lập và phụ thuộc, TCT quy định: các
khoản nợ khó đòi dưới 100 triệu đồng phải lập báo cáo bằng văn bản đề xuất
phương án xử lý trình TGĐ TCT quyết định; các khoản nợ khó đòi trên 100 triệu
đồng, TGĐ lập phương án trình HĐQT xem xét quyết định.
Trong thời gian 5 ngày sau khi xử lý các khoản nợ khó đòi, các đơn vị thành
viên phải báo cáo bằng văn bản cho TCT. Trong thời gian 10 ngày sau khi xử lý
khoản nợ khó đòi, TCT báo cáo bằng văn bản cho các cơ quan quản lý vốn và tài
sản Nhà nước tại DN.
TCT thực hiện việc kiểm kê tài sản thường xuyên trên cơ sở số liệu trên sổ
sách kế toán và đối chiếu với số dư thực tế để xác định lại tài sản vào các kỳ báo
cáo quyết toán. Khi xảy ra tổn thất tài sản, TCT lập hội đồng xác định nguyên nhân,
mức độ tổn thất, lập phương án xử lý báo cáo HĐQT quyết định. Trường hợp xác
định rõ trách nhiệm của cá nhân, tập thể thì cá nhân, tập thể gây ra tổn thất phải bồi
thường. Mức bồi thường đối với tổn thất được quy định: nếu dưới 100 triệu đồng,
HĐQT uỷ quyền cho TGĐ quyết định, từ 100 triệu đồng trở lên do HĐQT quyết
định. Tài sản mua bảo hiểm nếu bị tổn thất thì xử lý theo hợp đồng bảo
hiểm.Trường hợp tổn thất vì lý do bất khả kháng, TCT không thể khắc phục được,
HĐQT lập phương án xử lý báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định.
Giá trị tài sản tổn thất, sau khi đã bù đắp bằng tiền bồi thường của cá nhân,
tập thể, tổ chức bảo hiểm, nếu thiếu được bù đắp bằng quỹ dự phòng tài chính của
DN. Trường hợp quỹ dự phòng tài chính không đủ bù đắp thì phần thiếu được hạch
toán vào chi phí bất thường trong kỳ.
82
TCT thực hiện việc đánh giá tài sản trong các trường hợp sau: Đánh giá lại
tài sản theo quyết định của cơ quan nhà nước; Thực hiện chuyển đổi sở hữu CT: Cổ
phần hoá, bán CT, đa dạng hoá hình thức sở hữu; Dùng tài sản để đầu tư ra ngoài
CT như góp vốn liên doanh, cổ phần. Các khoản chênh lệch tăng hoặc giảm giá trị
tài sản do đánh giá lại được hạch toán tăng hoặc giảm vốn Nhà nước tại TCT.
TCTHKVN đã xây dựng cơ chế xác định doanh thu, chi phí: Doanh thu của
TCT là tổng doanh thu của các DN hạch toán độc lập và đơn vị hạch toán phụ
thuộc. Chi phí của TCT bao gồm chi phí của các DN thành viên và chi phí bộ máy
quản lý điều hành của TCT do văn phòng đối ngoại TCT điều hành và được quản lý
như một đơn vị hạch toán phụ thuộc, bao gồm chi phí hoạt động kinh doanh, chi phí
hoạt động tài chính và chi phí hoạt động khác. Các chi phí phải có hoá đơn chứng từ
hợp pháp, hợp lý, hợp lệ.
Cơ chế quản lý lợi nhuận: Lợi nhuận thực hiện trong năm của TCTHKVN là
tổng số lợi nhuận của các DN thành viên TCT bao gồm: lợi nhuận hoạt động kinh
doanh, lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động khác. Lợi nhuận phát
sinh bao gồm lợi nhuận năm trước phát hiện trong năm trừ các khoản lỗ năm trước
đã được xác định trong quyết toán.
Căn cứ vào quy định của Nhà nước TCT phân phối lợi nhuận sau thuế như
sau: bù lỗ theo Luật thuế thu nhập DN và nộp thuế thu nhập theo luật định, lợi nhuận
còn lại được phân phối theo quy định của Nhà nước và Điều lệ TCT.
TCT được trích lập và sử dụng các quỹ tập trung từ nguồn lợi nhuận để lại
sau khi đã trừ đi các khoản phải giảm trừ theo quy định và huy động từ lợi nhuận
được trích hàng năm của các DN thành viên hạch toán độc lập để hình thành các
Quỹ dự trữ tài chính; Quỹ đầu tư phát triển; Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc; Quỹ
khen thưởng; Quỹ phúc lợi.
Trong các DN đã hình thành các bộ phận kiểm toán nội bộ bên cạnh việc sử
dụng các dịch vụ kiểm toán độc lập. Tuy nhiên, mục tiêu chính của kiểm toán nội
bộ mới chỉ dừng lại ở việc xác định tính đúng đắn, độ trung thực và tin cậy của các
báo cáo kế toán và các kết quả kế toán - tài chính trước khi được kiểm toán độc lập
và công bố rộng rãi.
83
2.3.4. Bài học rút ra cho Tổng công ty Sông Đà
Qua phân tích kinh nghiệm quản lý tài chính của một số TCT ở các nước và
TCTHKVN có thể rút ra một số bài học sau đây cho TCTSĐ:
Thứ nhất, kinh nghiệm các nước cho thấy, Nhà nước cần thiết lập cơ chế
phân cấp thực hiện quyền của chủ sở hữu nhà nước tại DN một cách rõ ràng. Dù
theo mô hình SASAC của Trung Quốc hay theo mô hình DN kinh doanh vốn nhà
nước của Singapore thì cũng phải xác lập rõ các đầu mối thực hiện chức năng đầu
tư và kinh doanh vốn nhà nước tách biệt với cơ quan quản lý hành chính nhà nước,
giao trách nhiệm cho các cá nhân về kết quả hoạt động của DN sử dụng vốn nhà
nước và hiệu quả sử dụng vốn nhà nước. Quy định rõ ràng cơ chế giám sát từ các cơ
quan quản lý nhà nước đến cơ quan đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước.
Thứ hai, giao quyền tự chủ quyết định các vấn đề liên quan đến SXKD theo
cơ chế thị trường cho CT mẹ TCT để CT này có thể hoạch định chiến lược phát
triển TCT. Nên đề cao yêu cầu phải hoạt động có lãi cho bộ máy lãnh đạo TCT, coi
đó là tiêu chí quan trọng nhất để xem xét bổ nhiệm, bãi miễn, khen thưởng, kỷ luật
đối với cán bộ quản lý TCT. Giảm tối đa các nhiệm vụ phi kinh tế áp đặt cho TCT.
Thứ ba, trong điều kiện nguồn vốn NSNN còn hạn chế, nên để lại lợi nhuận
cho TCT đầu tư và tạo điều kiện cho TCT huy động vốn trong và ngoài nước đáp
ứng nhu cầu hoạt động SXKD. Khuyến khích TCT sử dụng nhiều hình thức huy
động vốn như vay, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay nội bộ, thuê tài chínhđể đa
dạng nguồn vốn hoạt động. Có thể sử dụng các đơn vị liên kết để tận dụng nguồn
vốn tự có của họ nhằm giảm chi phí vốn trong kinh doanh.
Thứ tư, cần quản lý chặt chẽ các dự án đầu tư, các khoản nợ và khoản phải
thu để chủ động trong thanh toán và hạn chế tình trạng phân tán vốn, tập trung đầu
tư cho những định hướng chiến lược của TCT.
Thứ năm, TCT nên ưu tiên đầu tư cho các hoạt động kinh doanh có hiệu quả,
nhất là đầu tư ra ngoài CT mẹ. Nên tạo điều kiện hỗ trợ các CT thành viên huy động
và sử dụng vốn hiệu quả thông qua các hoạt động bảo lãnh, tín dụng thương mại,
phối hợp triển khai và ứng dụng khoa học công nghệ mới.
84
Thứ sáu, xây dựng chính sách quản lý và sử dụng tài sản trong TCT hướng
đến giao quyền tự chủ cho CT con, đồng thời giảm chi phí chung không thật sự cần
thiết. Đặc biệt, cần có chế độ khấu hao hợp lý và sử dụng quỹ khấu hao một cách
linh hoạt nhằm bổ sung vốn cho đầu tư. Quản lý chặt doanh thu để có nguồn tiền
thanh toán chủ động. Quản lý nợ một cách thận trọng.
Thứ bảy, thiết lập và kiện toàn hệ thống kiểm soát tài chính bằng việc ban hành
các quy định cụ thể trong CCQLTC, phân định rõ ràng trách nhiệm của từng cơ quan
chuyên môn trong việc kiểm tra, giám sát các hoạt động SXKD. Các đơn vị thành viên
phải có bộ máy tài chính - kế toán - thống kê chuyên nghiệp.
85
Chƣơng 3
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
Ở TỔNG CÔNG TY SÔNG ĐÀ
3.1. KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY SÔNG ĐÀ
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Sông Đà
TCTSĐ bao gồm một tập hợp các CT dưới sự chi phối của CT mẹ mang tên là
TCTSĐ trực thuộc Bộ Xây dựng. TCTSĐ ngày nay là thành quả phát triển hơn 50
năm, trải qua ba giai đoạn phản ánh lịch sử phát triển đất nước.
* Giai đoạn trước khi có Tập đoàn Sông Đà.
Tiền thân của TCTSĐ ngày nay là Ban chỉ huy công trường thuỷ điện Thác Bà
thành lập năm 1961. Trong quá trình xây dựng Thủy điện Thác Bà, Ban chỉ huy công
trường thuỷ điện Thác Bà được đổi tên thành CT Xây dựng thuỷ điện Thác Bà.
Sau khi đất nước thống nhất CT Xây dựng thủy điện Thác Bà được giao
nhiệm vụ xây dựng Nhà máy Thủy điện Hoà Bình. Trong thời gian này, CT được
đổi tên thành CT Xây dựng thủy điện Sông Đà. Năm 1979 TCT Xây dựng thủy điện
Sông Đà được thành lập với một số đơn vị thành viên phát triển lên từ các bộ phận
chức năng của CT Xây dựng thủy điện Thác Bà.
Năm 1995, TCT được thành lập lại theo mô hình TCT 90 với tên gọi là TCT
Xây dựng Sông Đà trực thuộc Bộ Xây dựng. Năm 2002, TCT Xây dựng Sông Đà
được đổi tên thành TCTSĐ.
Từ năm 2002 đến năm 2005, TCT đã thực hiện cổ phần hoá 44 DN thành
viên và bộ phận DN, chuyển đổi 03 DN thành CTTNHH một thành viên. Ngày
30/12/2005, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 2435/QĐ-BXD
chuyển TCTSĐ sang hoạt động theo mô hình CT mẹ - CT con.
*Giai đoạn Tập đoàn Sông Đà.
Thực hiện Quyết định số 52/QĐ-TTg ngày 12/1/2010 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Đề án thí điểm thành lập Tập đoàn Công nghiệp xây dựng Việt Nam,
TCTSĐ trở thành CT mẹ Tập đoàn Sông Đà. Trong giai đoạn thực hiện thí điểm mô
hình tập đoàn, Tập đoàn Sông Đà mở rộng phạm vi hoạt động theo hướng đa ngành,
86
đa lĩnh vực, xây dựng các đơn vị thành viên quy mô lớn, SXKD trong một số lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế.
Tuy nhiên, do sáp nhập bằng phương pháp hành chính, trong 2 năm thí điểm,
6 TCT trong Tập đoàn chưa thiết lập được mối quan hệ gắn kết, bộ máy quản lý
Tập đoàn cũng chưa hoàn thiện. Hầu như CT mẹ Tập đoàn Sông Đà phải gánh vác
các trách nhiệm chung của Tập đoàn. Hơn nữa, hai năm thí điểm thành lập Tập
đoàn cũng là hai năm khó khăn của ngành xây dựng khiến tình hình quản lý Tập
đoàn càng thêm khó khăn. Chính vì vậy, kết thúc giai đoạn thí điểm, ngày
02/10/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1428/QĐ-TTg giao
cho Bộ Xây dựng thành lập lại TCTSĐ trên cơ sở CT mẹ Tập đoàn Sông Đà và các
CT thuộc TCTSĐ trước đây.
*Giai đoạn giải thể Tập đoàn Sông Đà, hình thành trở lại TCT Sông Đà.
Ngày 24/10/2012, Bộ trưởng Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 937/QĐ-
BXD thành lập lại TCTSĐ. Tiếp đó Bộ Xây dựng đã phê chuẩn Điều lệ và Quy chế
về tổ chức, hoạt động của TCTSĐ. Bắt đầu từ năm 2013, TCTSĐ trở lại quỹ đạo
phát triển riêng của mình, tách khỏi 5 TCT xây dựng khác trong Tập đoàn Sông Đà.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức và kinh doanh hiện nay của Tổng công ty Sông Đà
3.1.2.1. Cơ cấu tổ chức hiện nay của Tổng công ty Sông Đà
Hiện nay TCTSĐ hoạt động theo mô hình CT mẹ - CT con. CT mẹ là
CTTNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ. CT mẹ có tư cách
pháp nhân, có con dấu, biểu tượng, tài khoản tại Kho bạc Nhà nước và các ngân
hàng thương mại.
Trong TCT có 24 CT con (2 CT TNHH một thành viên 100% vốn nhà nước
và 22 CT do TCT nắm giữ trên 50% vốn điều lệ), 16 CT liên kết (xem phụ lục1).
Các CT trong TCT đã hình thành hệ thống liên kết chặt c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_co_che_quan_ly_tai_chinh_o_tong_cong_ty_song_da_7826_1916293.pdf