MỞ ĐẦU. 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN . 8
1.1. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến luận án . 8
1.2. Những nội dung liên quan tới đề tài luận án mà các công trình đã đề cập
và những vấn đề luận án tập trung nghiên cứu, giải quyết. 28
Chương 2: CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC
TỪ THÁNG 10-1949 ĐẾN THÁNG 7-1952 . 30
2.1. Những yếu tố tác động đến công tác dân vận của Đảng ở Liên khu Việt
Bắc trong những năm đầu kháng chiến. 30
2.2. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc được thành lập, lãnh đạo thực hiện công tác
dân vận từ tháng 10-1949 đến tháng 7-1952. 56
Chương 3: ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 7-1952 ĐẾN THÁNG 7-1954. 86
3.1. Những chủ trương của Trung ương Đảng về công tác dân vận trước yêu
cầu mới của cuộc kháng chiến chống Pháp. 86
3.2. Đảng bộ Liên khu Việt Bắc lãnh đạo thực hiện công tác dân vận trong
giai đoạn mới (7-1952 - 7-1954). 93
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM. 122
4.1. Một số nhận xét. 122
4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu. 131
KẾT LUẬN. 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN. 148
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 149
PHỤ LỤC. 172
201 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Công tác dân vận của đảng bộ liên khu việt bắc từ tháng 10 - 1949 đến tháng 7 - 1954, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, phát huy sáng kiến. Nhiều cơ sở sản xuất
vận tải quốc phòng pháo binh, hoả xa đã được xây dựng, củng cố và phát triển
rộng rãi
Công tác Tổng động viên nhân lực trong mọi ngành công nhân và lao động
trong năm 1951 đã gắn liền được phong trào thi đua với công tác Tổng động viên,
tăng năng xuất để phục vụ tiền tuyến và đề cao công tác kiến thiết các đường giao
thông và vận tải. “Để thiết thực phục vụ cho nhu cầu tiền tuyến và thực hiện thắng
lợi công cuộc Hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị, chuyển mạnh sang Tổng phản công
thực hiện đúng phương châm “Tất cả cho tiền tuyến”, “Tất cả cho chiến thắng” của
Đảng đề ra” [134, tr. 40-41].
Bước sang năm 1952, theo đà phát triển trên các chiến trường, nhiệm vụ
khuếch trương lực lượng vũ trang trở nên cấp thiết. Liên Khu uỷ Việt Bắc nhận thấy
vấn đề giáo dục và động viên về nghĩa vụ tòng quân cho nhân dân có vai trò quan
trọng. Liên Khu uỷ đã chỉ rõ một số công tác chính cần thực hiện trong năm 1952
về nghĩa vụ tòng quân: Tuyên truyền giáo dục nhân dân về nghĩa vụ tòng quân, giáo
dục nhằm đề cao các chiến thắng quân sự, các gương chiến đấu anh dũng của bộ đội
ở tiền tuyến, các gương xung phong tòng quân của thanh niên để tạo tinh thần phấn
khởi và tin tưởng trong nhân dân. Trong việc tuyên truyền giáo dục phải tạo thành
phong trào quần chúng sâu rộng, tổ chức thanh niên phải làm cốt cán, các đoàn thể
khác như nông dân, phụ nữ, phụ lão có nhiệm vụ phối hợp để gây phong trào.
Việc tuyên truyền vận động phải làm thường xuyên, gắn với việc tuyên truyền các
thành tích công tác khác.
Trong vùng địch hậu phải chú ý kịp thời chống luận điệu phản tuyên truyền
của địch, gắn với công tác chống tuyển mộ nguỵ binh, đẩy mạnh động viên thanh
niên tòng quân. Thiết thực giúp đỡ các gia đình có con em tòng quân, các gia đình
thương binh, tử sĩ. Nhiệm vụ của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc và các đoàn thể địa
phương là thiết thực giúp đỡ các gia đình có con em tòng quân, gia đình thương
binh, tử sĩ để an ủi tinh thần và giúp đỡ một phần cho họ về vật chất theo khả năng
của từng địa phương. Tại các thôn xóm có nhiều người đi bộ đội, có thể vận động
nhân dân cam kết giúp đỡ nhau để các chiến sĩ yên tâm chiến đấu. Các cấp Đảng bộ
81
phải coi việc tuyển lựa tân binh là nhiệm vụ của Đảng, không được giao khoán hết
cho các cơ quan chuyên môn. Các đảng viên phải xung phong chứ không được coi
mình chỉ có nhiệm vụ động viên quần chúng.
Song song với việc vận động tòng quân, Đảng bộ Việt Bắc đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, vận động đồng bào chống chính sách của địch “lấy chiến tranh
nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp. Nội dung
cụ thể gồm tuyên truyền những thắng lợi quân sự kết hợp với việc tố cáo tội ác của
giặc, đề cao gương anh dũng và phổ biến lời tuyên bố của Chính phủ đối với nguỵ
binh, nhằm mục đích đẩy mạnh công tác dân vận, nguỵ vận, phát triển chiến tranh
du kích.
Tin tức phổ biến một cách rộng rãi và nhanh chóng: Nhân dân ở những vùng
du kích và những nơi có cơ sở cách mạng cũng như một số nơi vùng tạm chiếm và
vùng chưa có cơ sở, vùng đồng bào công giáo, bảo an, tề phản động trên địa bàn Liên
khu đều biết tin thắng trận. Kết quả đạt được như vậy là do cán bộ đã biết căn cứ vào
tình hình từng nơi, từng vùng mà có dùng phương pháp tuyên truyền thích hợp. Ở
vùng du kích thì phát thanh, nói chuyện, ở những nơi chưa có cơ sở, có bảo an hay
phản động thì dùng vũ trang tuyên truyền, ở thị xã thì dùng truyền miệng, ở các xã
mới được giải phóng thì trưng bày tranh ảnh của Ty Thông tin Đặc biệt là dùng lực
lượng của cán bộ, đảng viên, bộ đội, quần chúng làm công tác tuyên truyền.
Kết hợp tuyên truyền chiến thắng với việc phá chính sách của địch “lấy chiến
tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt”: song song với tuyên
truyền võ trang quân sự, Đảng bộ Liên khu Việt Bắc cũng chủ trương tuyên truyền
chính trị, vạch rõ âm mưu của địch, giải thích chính sách của Chính phủ đối với
nguỵ binh: “Bắc Giang đã phát 5.000 truyền đơn cho nguỵ binh, Bắc Ninh đã phát
7.500 bản tuyên bố của Chính phủ cho nhân dân và gia đình nguỵ binh” [54, tr. 8-
9]. Kết hợp tuyên truyền chiến thắng với giáo dục tư tưởng, một mặt nhân dân có
kinh nghiệm kháng chiến, mặt khác tăng cường giáo dục ý thức kháng chiến trường
kỳ, gian khổ nhất định thắng lợi, tư tưởng tiêu diệt sinh lực địch, phát triển du kích
chiến tranh, phát triển cơ sở nên nhân dân rất phấn khởi, tin tưởng, hạn chế chủ
82
quan khinh địch. Nhờ quân sự hoạt động mạnh, mở đường đi trước, giải phóng
nhiều xã, công tác tuyên truyền gây cơ sở chính trị phần nhiều đi vào chiều sâu.
Thực hiện Chương trình sản xuất và tiết kiệm năm 1952, Hội Nông dân Cứu
quốc Việt Bắc đã tuyên truyền, vận động học tập nhằm nâng cao ý thức tham gia
sản xuất với mục đích sản xuất vì dân, vì nước và phát triển sản xuất để đẩy kháng
chiến mau thắng lợi với các mục tiêu nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá âm mưu lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh, bồi dưỡng sức dân để có sức duy trì chiến tranh đến
thắng lợi. Kháng chiến cần gắn với kiến quốc, phát triển sản xuất không những để
kháng chiến mà còn gây nền móng nhằm kiến thiết kinh tế. Sản xuất cải thiện được
đời sống cho nhân dân, sản xuất gắn liền với thực hành tiết kiệm, trong quá trình
sản xuất phải cố gắng sử dụng ít nhân công, ít giống mà vẫn đạt năng suất cao. Giáo
dục cho cán bộ và nhân dân yêu lao động, yêu khoa học, quý trọng sản xuất
Từ sau chiến thắng Biên Giới (1950), Việt Nam đã giành lại thế chủ động và
liên tiếp mở các chiến dịch tấn công địch và tiêu diệt những bộ phận sinh lực quan
trọng của địch, làm cho địch khó khăn, lúng túng. Tuy nhiên, chúng đã cố gắng
nhiều hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường, một mặt cầu xin Mỹ viện trợ,
mặt khác ra sức khai thác nhân, tài, vật, lực và bình định hậu phương, tích cực thực
hiện mục tiêu:
Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt.
Chúng đánh ra Hoà Bình, chợ Bến, hòng chiếm lại Hoà Bình để gây khó
khăn cho ta. Nhưng quân và dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt,
chủ trương kịp thời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Lao động, Chính
phủ kiên quyết phá tan kế hoạch chiếm đóng mới của địch, làm chúng
ngày càng thêm khó khăn [227, tr. 1].
Những nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh hoạt động trong vùng địch và vùng du kích
để chống chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người
Việt” của địch chủ yếu là tuyên truyền giải thích cho nhân dân hiểu rõ âm mưu của
địch, vạch mặt những tội ác của chúng đối với đồng bào, đồng thời phổ biến những
chính sách, chủ trương của Đảng và những tin tức thắng lợi làm cho nhân dân nhất
là vùng công giáo và miền núi. Đồng bào ngày càng tin tưởng và kiên quyết đứng
83
vào hàng ngũ kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Giáo dục cho
nhân dân hiểu rõ ý thức giữ bí mật và bảo vệ cán bộ, bộ đội, cơ sở, gây cho họ có
tinh thần tranh đấu, chống địch. Vận động nhân dân cương quyết chống chính sách
bắt phu, bắt lính của địch và làm công tác vận động nguỵ binh phải phát động thành
một phong trào quần chúng rộng rãi trong toàn Liên khu, phổ biến chính sách của
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khoan hồng đối với nguỵ binh, nhất là đối
với các gia đình có con em đi lính cho địch và trong hàng ngũ nguỵ binh làm cho họ
hiểu rõ chính sách của Chính phủ.
Ở vùng trung du, đẩy mạnh sự đoàn kết lương, giáo vạch rõ âm mưu lợi dụng
tôn giáo của địch, phổ biến chính sách tôn trọng tín ngưỡng của Chính phủ, nêu cao
thành tích kháng chiến của đồng bào tôn giáo và sự đoàn kết giữa lương, giáo để
phục vụ kháng chiến. Ở miền ngược, tăng cường đoàn kết dân tộc, nêu cao những
tấm gương hăng hái phục vụ chiến dịch của đồng bào miền ngược, đẩy mạnh tuyên
truyền giáo dục cho đồng bào nhất là những vùng xa mà cán bộ và bộ đội ít qua lại
hiểu về dã tâm của thực dân Pháp là muốn bắt nhân dân Việt Nam làm nô lệ một lần
nữa. Chính phủ của dân do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, đem lại quyền lợi cho
dân, Đảng lãnh đạo đánh Pháp đem lại nhiều thắng lợi lớn.
Tổng kết công tác dân vận năm 1951 và 6 tháng đầu năm 1952 của Đảng bộ
Việt Bắc tại Hội nghị Cán bộ dân vận Liên khu (từ ngày 15 đến ngày 20-5-1952) đã
chỉ rõ những thành tích của công tác dân vận thời kỳ này: Nhiều nơi cán bộ đã đi sát
dân, tìm hiểu dân và chú trọng công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân tự giác,
tự động thi hành các chính sách của Đảng, Chính phủ. Các tỉnh, huyện của Liên khu
đã biết kết hợp công tác, lãnh đạo tổ chức quần chúng để thi hành các chính sách
đồng thời trong khi thi hành các chính sách đó cần củng cố các tổ chức quần chúng
và vận động đoàn kết thực sự các giai cấp. Các tỉnh, huyện dưới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Liên khu Việt Bắc, đã biết đi đúng đường lối trong việc củng cố các tổ
chức quần chúng, tổ chức kiểm tra, giám sát để các hội viên, đoàn viên có ý thức
trách nhiệm vào việc củng cố tổ chức của họ, do đó nhiều nơi trên địa bàn Liên khu
các tổ chức quần chúng được chặt chẽ, ý thức hội viên tốt. Nhiều địa phương đã chú
ý bàn bạc và giải quyết những vấn đề thiết thực của đời sống nhân dân nhằm giác
84
ngộ quần chúng và củng cố tổ chức hoặc thực hiện đoàn kết giữa các dân tộc, nhất
là vận động sản xuất tiết kiệm để đẩy mạnh công tác dân vận ở các vùng đồng bào
công giáo và đồng bào miền ngược. Những cán bộ dân vận đã tuyệt đối tin ở dân,
kiên quyết đi sâu và nhân dân và nhẫn nại giải thích nên cuối cùng đã giác ngộ được
nhân dân và thực hiện được nhiệm vụ mà Trung ương Đảng giao phó.
Tiểu kết Chương 2
Công tác dân vận của Đảng nói chung và của Liên khu uỷ Việt Bắc nói riêng
giai đoạn từ năm 1949 đến năm 1952 được triển khai toàn diện và đạt được những
thành tựu to lớn, tạo nên khối đại đoàn kết toàn dân và thống nhất các giai cấp, các
dân tộc, tôn giáo trên địa bàn Liên khu Việt Bắc. Để phát triển và củng cố Hội Liên
Việt, chăm lo đoàn kết lương giáo, Đảng chủ trương mở rộng đoàn kết dân tộc, vận
động các tầng lớp nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kháng chiến kiến quốc,
ban Dân vận và các đảng, đoàn, Mặt trận Việt Minh, Hội Liên Việt, các đoàn thể
cứu quốc tăng cường cán bộ về các địa phương xây dựng tổ chức. Mặt trận Việt
Minh, Hội Liên Việt, các đoàn thể cứu quốc và mặt trận của các giới đã phát triển
rộng khắp, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở góp phần động viên các tầng lớp
nhân dân tự nguyện góp công sức trong quá trình xây dựng và củng cố chính quyền
cách mạng, đồng thời chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Các đoàn thể cứu quốc thu hút hầu hết người trong các giới. Ở nhiều nơi,
một số đoàn thể mới được thành lập làm nòng cốt trong các phong trào, cụ thể
như Đoàn thanh niên làm nòng cốt trong phong trào dân quân, tòng quân giết
giặc; đoàn thể phụ nữ làm nòng cốt trong sản xuất, vận động nuôi quân, đoàn thể
của nông dân làm nòng cốt trong phong trào tăng gia sản xuất, vận động giảm
tô Các đoàn thể cứu quốc còn lập ra nhiều tổ chức quần chúng như Hội mẹ
chiến sĩ, Hội giúp binh sĩ bị nạn
Nhằm thực hiện nhiệm vụ khôi phục kinh tế, khắc phục nạn đói, củng cố và
xây dựng hệ thống chính quyền, Đảng và Chính phủ rất quan tâm đến công tác vận
động toàn dân đấu tranh trên mặt trận văn hoá, diệt “giặc dốt” và đẩy lùi những hủ
tục lạc hậu. Đảng đã phát động một cao trào toàn dân chống nạn mù chữ để mở
mang kiến thức cho nhân dân lao động.
85
Trong những năm 1949-1952, công tác vận động nhân dân các dân tộc trên
địa bàn Liên khu Việt Bắc tham gia phục vụ tiền tuyến, phục vụ chiến trường được
Đảng bộ Liên khu rất chú trọng và lãnh đạo thực hiện sát sao. Công tác vận động
các gia đình tương trợ lẫn nhau để tiếp tục tăng gia sản xuất trong thời gian đi dân
công và vận động nhân dân giúp đỡ dân công trong thời gian đi công tác. Đối với
các chiến sĩ ngoài mặt trận vận động đồng bào hoan nghênh những chiến công để
động viên tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ. Đối với các thương binh, tử sĩ và
gia đình bộ đội phải vận động nhân dân giúp đỡ về mọi mặt. Đây chính là sức
mạnh đoàn kết, một lòng kháng chiến chống thực dân Pháp của quân dân Việt
Bắc, làm nên những thắng lợi quan trọng, đóng góp vào cuộc kháng chiến chung
của đất nước.
Như vậy, công tác dân vận của Đảng bộ Liên khu Việt Bắc trong giai đoạn
1949-1952 đã đạt được những kết quả quan trọng trên các mặt: tổ chức bộ máy
được kiện toàn; cán bộ dân vận được tăng cường, trong đó đã có cán bộ chuyên
trách; định hình nội dung, phương pháp dân vận tới từng đối tượng, từng nhiệm vụ
của công tác dân vận, của từng tình thế (khi có chiến sự làm nhiệm vụ chiến đấu và
khi tập trung làm làm nhiệm vụ hậu phương).
86
Chương 3
ĐẢNG BỘ LIÊN KHU VIỆT BẮC LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CÔNG TÁC DÂN VẬN TỪ THÁNG 7-1952 ĐẾN THÁNG 7-1954
3.1. NHỮNG CHỦ TRƯƠNG CỦA TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC
DÂN VẬN TRƯỚC YÊU CẦU MỚI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP
Sang năm 1952, cuộc kháng chiến của quân dân Việt Nam đã bước vào năm
thứ sáu với những chuyển biến quan trọng trên chiến trường. Đảng chủ trương đẩy
mạnh cuộc kháng chiến, chuẩn bị chuyển sang tổng phản công. Để thực hiện thắng
lợi những chủ trương đã đề ra và cụ thể hoá những nhiệm vụ trong giai đoạn mới,
Đảng luôn sáng suốt lựa chọn những thời điểm có tính quyết định để kịp thời chỉ
đạo trước yêu cầu mới của cuộc kháng chiến.
Để kịp thời ứng phó với tình hình mới, đầu năm 1952, Ban Bí thư Trung ương
Đảng ra Chỉ thị gửi các Liên khu ủy và Tỉnh ủy trong vùng địch hậu, trong đó yêu
cầu các cán bộ làm công tác dân vận ở vùng địch hậu phải thận trọng về xây dựng và
chỉnh đốn tổ chức quần chúng mà công tác đầu tiên cần phải làm là chú trọng việc
lãnh đạo nhân dân đem lại quyền lợi thiết thực cho nhân dân, giúp nhân dân giải
quyết các việc cần thiết trước mắt. Vận động và tổ chức nhân dân phối hợp chặt chẽ
với bộ đội và dân quân du kích địa phương để chống giặc càn quét, bảo vệ sản xuất,
nhà cửa của nhân dân, chống giặc bắt lĩnh, bắt phu, nộp thóc, thuế. Trong quá trình
thực hiện các công việc trên, phải tiến hành việc xây dựng và chấn chỉnh các tổ chức
quần chúng.
Cũng trong thời gian này, thực dân Pháp âm mưu cấu kết với bọn phản động
lang đạo, phìa tạo ở địa phương, thẳng tay đàn áp, bóc lột đồng bào các dân tộc
thiểu số. Đặc biệt, chúng ra sức dùng chính sách lừa bịp, chia rẽ xúi giục hận thù
giữa các dân tộc, giữa đồng bào các dân tộc với đồng bào Kinh hòng phá hoại chính
sách đại đoàn kết chống thực dân xâm lược của Đảng và Chính phủ. Chúng xúc tiến
lập lại xứ Mường, xứ Thái, xứ Nùng, xứ Tây Kỳ “tự trị" nhằm mục đích tận dụng
sức người, vơ vét của cải của đồng bào, phá hoại công cuộc kháng chiến.
87
Trước âm mưu thâm độc của thực dân Pháp và tay sai, tháng 8-1952, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết về chính sách dân tộc thiểu số. Nghị quyết đã chỉ ra một
số thiếu sót trong công tác vận động dân tộc thiểu số, đó là biểu hiện coi nhẹ công
tác đoàn kết các dân tộc, coi thường âm mưu chia rẽ của địch, công tác vận động
lệch một chiều, chưa có biện pháp tích cực giúp đỡ đồng bào dân tộc cải thiện đời
sống, đội ngũ cán bộ dân tộc còn yếu và thiếu Để khắc phục nhanh những thiếu
sót trên, Trung ương Đảng chỉ rõ: Công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số là
một trong những công tác quan trọng vào bậc nhất của Đảng, Chính phủ và Mặt
trận nhằm đẩy mạnh chính sách đại đoàn kết các dân tộc vào công cuộc chống
thực dân, đế quốc.
Nội dung của công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số được xác định
một cách toàn diện cả về chính trị, quân sự, xây dựng kinh tế, xây dựng văn hoá và
nếp sống mới. Bộ Chính trị yêu cầu mọi hoạt động đều phải nhằm vào việc tập
trung lực lượng toàn dân đoàn kết kháng chiến, tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược,
đánh bại can thiệp Mỹ, đánh đổ Việt gian bù nhìn, giành độc lập tự do cho tất cả các
dân tộc Việt Nam. Phương châm vận động tuyên truyền là đoàn kết, nắm vững quần
chúng, chủ yếu là nông dân; phát triển lực lượng tiến bộ, lôi kéo những phần tử ở
lớp trên, cô lập và đánh bại bọn phản động, bọn theo Pháp chống lại nhân dân.
Trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc cần phải chú ý làm tốt các
nhiệm vụ: lôi kéo tầng lớp trên, vận dụng đúng chính sách đối với ngụy binh và gia
đình ngụy binh; kiên quyết trấn áp bọn phản cách mạng, tích cực đào tạo cán bộ
vùng dân tộc; về kinh tế chưa chủ trương thủ tiêu chế độ phong kiến ở miền núi mà
chỉ hạn chế dần dần và cần phải làm có trọng điểm; phải tôn trọng tiếng nói và chữ
viết của đồng bào, vận động bỏ nếp sống lạc hậu; về quân sự cần phát triển dân
quân du kích để tham gia tiễu phỉ giữ làng; ra sức xây dựng và phát triển Đảng
trong đồng bào các dân tộc.
Để giành những thắng lợi to lớn hơn nữa cho cuộc kháng chiến của nhân
dân, trong giai đoạn phản công, ngày 9-1-1953, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra
Chỉ thị gửi các Liên khu uỷ để động viên nhân lực, vật lực phục vụ mặt trận. Căn cứ
vào kinh nghiệm trước đây, Trung ương Đảng chỉ đạo các liên khu và các tỉnh đặc
88
biệt chú ý đả thông tư tưởng cán bộ của ngành, các cấp về sự quan trọng và cấp
bách của công tác phục vụ này để đảm bảo thắng lợi mới của cuộc kháng chiến.
Đồng thời, các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải giải thích và thực hiện đầy đủ
khẩu hiệu tất cả để chiến thắng, tất cả cho tiền tuyến.
Chỉ thị nêu rõ yêu cầu của việc cung cấp mặt trận gồm mấy điểm sau:
Về dân công, cung cấp số dân công cần thiết trong thời gian sắp tới là việc
trọng yếu bậc nhất. Đó cũng là một việc gay go, vì mới đây một số lớn
đồng bào đi dân công vừa về địa phương có người tinh thần phấn khởi,
nhưng còn một số tinh thần chán nản. Cho nên cán bộ các cấp liên khu và
tỉnh cần phải giải thích sâu rộng trong nhân dân để họ tự giác ra sức phục
vụ kháng chiến, đồng thời phải giúp đỡ gia đình có người ra tiền tuyến về
mặt sản xuất; Về gạo, lương thực, phải phụ trách việc xay giã và đưa đủ số
gạo cần thiết trong thời gian đã định; Về sửa đường, công tác này nặng và
gấp hơn trước nên sửa đường là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của các liên
khu và tỉnh; Về các phương tiện vận tải, các tỉnh phải chuẩn bị động viên
theo thể lệ đã quy định [77, tr. 7-9].
Trước yêu cầu cấp bách đó, Trung ương quyết định tất cả các liên khu và các
tỉnh thành lập Hội đồng cung cấp Mặt trận, phụ trách toàn bộ công tác cung cấp cho
mặt trận về nhân lực, vật lực. Hội đồng cung cấp Mặt trận sẽ làm việc dưới sự chỉ
đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ thị của Ban Bí thư đã kịp thời đẩy mạnh vận
động các cấp, các ngành huy động nhân lực, vật lực phục vụ cuộc kháng chiến.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa II (họp từ ngày 25
đến ngày 30-1-1953): Hội nghị xác định để duy trì kháng chiến trường kỳ và đưa
cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, trước mắt, phải tập trung giải quyết hai
vấn đề chính:
Một là, lãnh đạo kháng chiến và chính sách quân sự. Để đánh thắng thực dân
Pháp, bọn can thiệp Mỹ và lũ Việt gian bù nhìn, phải có một quân đội nhân dân thật
mạnh và luôn luôn tiến bộ. Phương hướng chiến lược của cách mạng trong giai đoạn
này là: Bộ đội chủ lực ở chiến trường Bắc Bộ thì phải dùng vận động chiến linh hoạt,
để tiêu diệt từng mảng sinh lực địch, làm cho địch yếu đi. Chiến trường sau lưng địch
89
phải mở rộng du kích chiến để tiêu diệt và tiêu hao những bộ phận nhỏ của địch; để
chống địch càn quét, bảo vệ tính mạng, tài sản cho dân; để khuấy rối, phá hoại, kiềm
chế địch, tuyên truyền và giáo dục quần chúng. Ngoài việc tăng cường bộ đội chủ lực
và xây dựng bộ đội địa phương, vùng tự do và những căn cứ du kích, cần phải xây
dựng những tổ chức dân quân, du kích không thoát ly sản xuất. Phải kết hợp những
hình thức đấu tranh (giữa bộ đội chủ lực, du kích) một cách linh hoạt, khéo léo. Phải
nhận thức được tính chất trường kỳ của kháng chiến để giữ gìn sức chiến đấu. Phải
tăng cường công tác chính trị, công tác quân sự trong bộ đội.
Hai là, phát động quần chúng triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức để tiến đến
cải cách ruộng đất. Trước hết, phải ra sức phát động quần chúng nông dân, làm
cho quần chúng tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm tô, thực hiện giảm
tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Đảng và Chính phủ phải lãnh đạo, tổ
chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau khi giảm tô, giảm tức, quần chúng đã được phát động,
tổ chức đã vững chắc, lực lượng đã đầy đủ, ưu thế chính trị đã về tay nông dân lao
động, đa số nông dân được yêu cầu thực hiện cải cách ruộng đất. Cải cách ruộng đất
sẽ giải quyết nhiều vấn đề về quân sự, kinh tế, chính trị... Phát động quần chúng
triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức là một việc rất to lớn và quan trọng. Nó sẽ làm
đà cho công việc cải cách ruộng đất sau này. Đảng phải định phương châm, chính
sách, phải có kế hoạch, phải có tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra. Trước nhất phải thống
nhất tư tưởng trong Đảng, từ trên xuống dưới, phải đả thông tư tưởng các tầng lớp
nhân dân, đặc biệt là nông dân.
Hội nghị xác định những công tác chính trong năm 1953:
Một là, phát động quần chúng; Hai là, tăng cường sự chỉ đạo chiến tranh
của Đảng, đẩy mạnh các công tác chỉnh quân và tác chiến để tiêu diệt
nhiều sinh lực của địch; Ba là, phải chú ý cải thiện đời sống nhân dân,
giảm nhẹ sự đóng góp của nhân dân, tích cực đề phòng và chống nạn đói;
Bốn là, về công tác sau lưng địch, tiếp tục tăng cường về mọi mặt, phát
triển chiến tranh du kích, chống và phá càn quét để củng cố và mở rộng
vùng du kích và căn cứ du kích. Phá âm mưu của địch xây dựng ngụy
quyền và ngụy quân, chống địch phá hoại và cướp bóc kinh tế, chống sự
90
tuyên truyền lừa bịp của địch. Phải tăng cường việc tuyên truyền, giáo
dục và tổ chức nhân dân. Phải thực hiện thống nhất lãnh đạo của Đảng và
của Chính phủ ở sau lưng địch; Năm là, về chỉnh Đảng, kết hợp với công
tác phát động quần chúng để chỉnh đốn chi bộ xã. Tiếp tục chỉnh huấn
cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng [77, tr. 135].
Trước yêu cầu mới về công tác vận động quần chúng vùng kháng chiến, Hội
nghị Nông vận và dân vận toàn quốc được triệu tập (diễn ra từ ngày 5-2 đến ngày 18-
3-1953), Hội nghị chỉ rõ vai trò to lớn của nông dân trong cách mạng dân tộc dân
chủ, coi cách mạng dân tộc dân chủ là cách mạng nông dân và cơ sở của nó là ruộng
đất, nông dân là động lực trong cách mạng dân tộc dân chủ do giai cấp công nhân
lãnh đạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Hàng triệu chiến sĩ nông dân khi đã giác
ngộ thì họ là những chiến sĩ quyết chiến quyết thắng. Hội nghị nêu rõ: chính sách
ruộng đất của Đảng chưa được thi hành triệt để, chưa nhận rõ vai trò của nông dân và
chưa chú ý đến quyền lợi của nông dân, quá nhân nhượng đối với địa chủ, không dám
phóng tay phát động quần chúng.
Hội nghị nghe báo cáo và thảo luận về sự lãnh đạo công tác nông vận ở
khu, tỉnh. Báo cáo nêu rõ, lãnh đạo công tác nông vận tuy đã đi vào cụ
thể, đã chú ý giải quyết khó khăn cho nông dân, nhưng lãnh đạo thiếu
kịp thời, nhiều nơi còn ít chú ý giải quyết quyền lợi cho bần, cố nông,
nhiều phong trào chỉ trên hình thức, tình trạng cơ sở trắng còn nhiều...
Hội nghị nhất trí cần nâng cao lập trường tư tưởng của giai cấp công
nhân và đường lối quần chúng lãnh đạo nông dân trong kháng chiến và
kiến quốc [170].
Hội nghị Cán bộ toàn quốc về vấn đề phát động quần chúng nông dân (tháng
3-1953): Hội nghị được triệu tập để thảo luận làm rõ một số nội dung về công tác vận
động quần chúng nông dân. Tại Hội nghị Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh cần
chỉ rõ công tác phát động quần chúng nông dân như sau:
Ai phát? Cán bộ phải phát. Muốn phát phải hiểu rõ chính sách của Đảng,
của Chính phủ, phải hiểu rõ quần chúng; Phát là thế nào? Là phải đoàn kết
bần, cố, trung nông. Phải tổ chức họ chặt chẽ, phải giáo dục cho họ giác
91
ngộ; Động rồi phải làm gì? Phải triệt để giảm tô để cải thiện đời sống nông
dân. Giảm tô rồi phải thi đua tăng gia sản xuất. Cán bộ phải nắm vững
chính sách của Đảng, của Chính phủ đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt
đối không bao biện, lúc phát động nông dân phải đoàn kết giác ngộ họ.
Cán bộ phải nói cho nông dân hiểu rõ. Đồng bào thiểu số hay đa số, lương
hay giáo, cán bộ biết cách làm thì đều vận động được [179, tr. 92].
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa II (họp từ ngày 14 đến
ngày 23-11-1953): Hội nghị quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và tiến
hành cải cách ruộng đất trong kháng chiến. Từ tháng 4 đến tháng 8-1953, Đảng phát
động quần chúng triệt để giảm tô đợt 1 được tiến hành ở 22 xã thuộc Liên khu Việt
Bắc và Liên khu IV, đợt 2 mở rộng trong phạm vi 162 xã thuộc 10 tỉnh Liên khu Việt
Bắc và Liên khu IV. Hội nghị cũng được nghe hai bản báo cáo quan trọng do Chủ
tịch Hồ Chí Minh và đồng chí Trường Chinh trình bày và thông qua Cương lĩnh
ruộng đất của Đảng.
Hội nghị cũng đã nghe các báo cáo về Chính quyền dân chủ nhân dân và cải
cách ruộng đất; Quân đội nhân dân với cải cách ruộng đất; Công tác tổ chức đố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_cong_tac_dan_van_cua_dang_bo_lien_khu_viet_bac_tu_th.pdf