MỤC LỤC
Trang
CÁC THUẬT NGỮ, KÍ HIỆU VIẾT TẮT iv
DANH MỤC HÌNH v
DANH MỤC BẢNG viii
DANH MỤC ẢNH viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của luận án 1
2. Mục tiêu của luận án 2
3. Nhiệm vụ của luận án 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
5. Những điểm mới của luận án 3
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 4
7. Cơ sở tài liệu 4
8. Cấu trúc của luận án 5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 6
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN 6
1.1.1. Địa động lực hiện đại 6
1.1.2. Kiến tạo trẻ 7
1.2. KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước 8
1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 11
1.3. CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU MỐI
TƯƠNG QUAN GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH VÀ ĐỊA ĐỘNG
LỰC HIỆN ĐẠI18
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
1.4.1. Các phương pháp địa chất, địa mạo truyền thống 21
1.4.2. Phương pháp viễn thám và GIS 25
1.4.3. Nhóm phương pháp trắc địa 26
1.4.4. Các phương pháp phân tích cổ động đất 27
i1.4.5. Các phương pháp đánh giá địa chấn kiến tạo và gia tốc rung
động
27
1.4.6. Các phương pháp mô phỏng, mô hình 31
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA MẠO ĐỚI ĐỨT GÃY SÔNG HỒNG 32
2.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỊA HÌNH VÀ CÁC NHÂN TỐ THÀNHTẠO32
2.1.1. Đặc trưng địa chất - kiến tạo trước Pliocen khu vực nghiên cứu
và khu vực lân cận32
2.1.2. Đặc trưng địa hình khu vực 34
2.1.3. Khái quát đặc điểm khí hậu 35
2.2. ĐẶC ĐIỂM TRẮC LƯỢNG HÌNH THÁI ĐỊA HÌNH 36
2.2.1. Đặc điểm phân bậc địa hình 36
2.2.2. Đặc điểm chia cắt sâu 38
2.2.3. Đặc điểm chia cắt ngang 41
2.2.4. Đặc điểm độ dốc 42
2.3. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC HÌNH THÁI 43
2.3.1. Nhóm kiến trúc hình thái nâng kiến tạo 43
2.3.2. Nhóm kiến trúc hình thái hạ tương đối và sụt lún Tân kiến tạo 50
2.4. ĐẶC ĐIỂM CÁC KIỂU NGUỒN GỐC ĐỊA HÌNH 57
2.4.1. Nhóm địa hình có nguồn gốc kiến tạo và kiến trúc bóc mòn 58
2.4.2. Nhóm địa hình bóc mòn tổng hợp 58
2.4.3. Nhóm địa hình karst 64
2.4.4. Địa hình do dòng chảy 65
2.5. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH 69
2.5.1. Khái quát sự phát triển kiến tạo và địa hình trước Pliocen 69
2.5.2. Lịch sử phát triển địa hình khu vực và vùng lân cận từ Pliocentới nay72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 75
CHƯƠNG 3: KIẾN TẠO TRẺ VÀ ĐỊA ĐỘNG LỰC HIỆN ĐẠI ĐỚI
ĐỨT GÃY SÔNG HỒNG 76
3.1. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO TRẺ 76
ii3.1.1. Các dấu hiệu hoạt động trẻ từ Pliocen –Hiện đại 76
3.1.2. Biên độ và tốc độ chuyển dịch thẳng đứng từ Pliocen tới nay 79
3.1.3. Đặc điểm chuyển dịch trượt bằng trẻ 82
3.2. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA ĐỘNG LỰC HIỆN ĐẠI 96
3.2.1. Đặc điểm hoạt động địa chấn 96
3.2.2. Chuyển động kiến tạo hiện đại dọc đới ĐGSH 102
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 115
CHƯƠNG 4: MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN
ĐỊA HÌNH VỚI ĐỊA ĐỘNG LỰC HIỆN ĐẠI VÀ TAI BIẾN ĐỘNG
ĐẤT ĐỚI ĐGSH116
4.1. SỰ THỂ HIỆN CỦA CHUYỂN ĐỘNG THEO PHƯƠNG THẲNG
ĐỨNG TRÊN ĐỊA HÌNH 116
4.1.1. Sự thể hiện của các chuyển động nâng trẻ trên địa hình 116
4.1.2. Sự thể hiện của các chuyển động hạ lún tương đối 120
4.2. MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐỊA HÌNH VÀ SỰ CHUYỂN DỊCH NGANG 121
4.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA CHUYỂN ĐỘNG THEO CHIỂU THẲNG ĐỨNG
VÀ TRƯỢT BẰNG DỌC ĐỚI ĐỨT GÃY SÔNG HỒNG 132
4.4. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH VÀ ĐẶC
TRƯNG ĐỊA CHẤN KHU VỰC 135
4.4.1. Kết quả đánh giá động đất cực đại 137
4.4.2. Đánh giá gia tốc rung động cực đại 140
4.4.3. Mô hình hóa quá trình biến dạng và biến đổi ứng suất Coulomb
khi xảy ra động đất cực đại 141
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4 144
KẾT LUẬN 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO 147
PHỤ LỤC 157
Phụ lục 3.1: Kết quả tính tính toán chuyển dịch tuyệt đối dạng đầy đủ từ
hai chu kỳ đo GPS năm 2000 và 2010 bằng phần mềm Bernese 5.0 157
Phụ lục 3.2: Kết quả tính tính toán chuyển dịch tương đối khu vực đới
ĐGSH với sự cố định của điểm NAM0 bằng phần mềm Bernese 5.0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đặc điểm phát triển địa hình trong mối liên quan với địa động lực hiện đại đới đứt gãy Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác mảnh vỡ, khối tảng hỗn tạp được lấp đầy bởi các vật liệu hạt nhỏ dăm
sạn, cát, sét với chiều dày từ một vài mét đến hàng chục mét. Bề mặt này phát triển
dưới dạng các nón phóng vật liên kết lại với nhau thành một bề mặt rộng lớn trải dài
theo chân núi. Hiên nay các bề mặt này thường vẫn đang tiếp tục phát triển nên có
tuổi Đệ tứ không phân chia (Q).
Hình 2.13: Các dạng địa hình thềm khu vực xã Báo Đáp
Nhìn chung địa hình trong vùng có nguồn gốc khác nhau, khá phức tạp,
nhưng tính phân bậc địa hình vẫn được thể hiện khá rõ nét. Mỗi bậc địa hình có
nguồn gốc hình thành riêng. Nhưng cũng có khi trong cùng một nguồn gốc hình
thành có hai bậc địa hình khác nhau. Trên các bậc địa hình có khi còn giữ nguyên
được các bề mặt cổ, có khi bị chia cắt, bóc mòn, xâm thực làm lu mờ các dấu vết
ban đầu.
2.5. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN ĐỊA HÌNH
2.5.1. Khái quát sự phát triển kiến tạo và địa hình trước Pliocen
Quá trình đụng độ giữa mảng Ấn Độ và mảng Âu Á xảy ra cách đây 50 triệu
năm đã làm biến đổi sâu sắc bình đồ kiến tạo Châu Á. Sự trồi ra (extrusion) của
mảng Đông Dương – Sundaland dọc theo đới ĐGSH, trong thời gian này đi kèm
với tách giãn Biển Đông, có lẽ là cơ chế quan trọng nhất của tiến hóa kiến tạo và
69
phát triển địa hình Đông Nam Á. Đã có nhiều mô hình được xây dựng để nghiên
cứu về sự hình thành và phát triển của địa hình- kiến tạo của đới ĐGSH và có thể
thấy nổi lên hai quan điểm chính. Quan điểm thứ nhất cho rằng quá trình tách giãn
Biển Đông giống quá trình thành tạo một biển rìa thông thường: vỏ đại dương mới
được hình thành đồng thời với một phần vỏ cũ bị mất đi trong đới cuốn chìm
Panawan. Quan điểm thứ hai cho rằng hoạt động đụng độ giữa mảng Ấn Độ và
Châu Á đã làm mảng Đông Dương- Sundaland trôi về phía đông nam dọc theo đới
ĐGSH. Mảng Đông Dương bị trôi đồng thời bị trượt xoay theo chiều kim đồng hồ
đã dẫn tới mở Biển Đông theo kiểu “pull-apart”.
Tuy nhiên, mô hình thúc trượt (extrusion model) của Tapponnier và nnk,
1986 [122] có ảnh hưởng lớn nhất trong các công trình nghiên cứu về sự phát triển
địa hình khu vực. Mô hình này được kế thừa và phát triển cho đến ngày nay [125],
[108], [14], [19], [75], [76], [57], [92], [77]. Mô hình lý thuyết này có ý nghĩa quan
trọng về sự thúc trượt của Ấn Độ trong suốt thời kỳ Kainozoi sớm-giữa, kết quả sự
phát triển của đới trượt cắt Ailao Shan. Harrison và nnk (1996) [57] thảo luận về sự
trồi lộ ngang của đới trượt cắt trên một đứt gãy, chúng được xem xét như cùng một
cấu trúc như ĐGSH hiện đại. Theo như mô hình về sự thúc trượt, từ khoảng thời
gian Pliocen (Leloup và nnk, 1993 [78]), chiều của chuyển dịch kiến tạo bị đảo
ngược, Tây Tạng và Nam Trung Hoa đã được nhô ra về phía đông và đông nam,
được giới hạn về mặt phía tây nam bởi hệ thống đứt gãy Jiali và ĐGSH được tái
hoạt động, ranh giới phía bắc bởi đứt gãy Altyn Tagn (Tapponnier và nnk, 1982
[123]; 1986 [122]; Avouac và Tapponnier, 1993 [14]; Peltzer và Saucier, 1996
[92]). Các nghiên cứu mô hình chỉ ra sự tự quay của các khu vực của rìa cao nguyên
phía đông, cho dù chỉ dưới một góc nhỏ trong suốt sự trồi lộ, kết quả dẫn đến sự
chuyển dịch trượt bằng trái của dọc hệ thống đứt gãy Xianshuihe-Xiaojiang và đứt
gãy Kunlun (Avouac và Tapponnier, 1993 [14]; Peltzer và Saucier, 1996 [92]).
Khúc uốn ở ĐGSH được xem xét tới nguồn gốc sự tác động qua lại với đứt gãy
Xianshuihe-Xiaojiang, nhưng Replumaz và nnk (2001) [99] lại cho rằng sự dịch
chuyển trượt trái hầu hết bị hấp thụ trong sự thu ngắn ở lớp vỏ phía bắc của ĐGSH
và nó không bị di chuyển dọc đứt gãy đó trong bất kỳ cách thức nào. Dự đoán về
tốc độ chuyển dịch hiện đại trên ĐGSH, theo mô hình đó là ∼10±5mm/năm theo
hướng N110oE (Peltzer và Saucier, 1996 [92]), kết quả chuyển dịch phải 7.5 ±
4mm/năm và một thành phần mở rộng được kết hợp (Replumaz và nnk, 2001 [99]).
Cả đới trượt cắt Ailao Shan và ĐGSH, các phần của một cấu trúc đơn lẻ trong mô
hình được xem như là các đặc trưng về quy mô lớp vỏ gần thẳng đứng.
70
Các mô hình kế tiếp chỉ ra sự quay xung quanh trục đông Himalayan, đúng
hơn là có sự trồi lộ theo hướng đông nam và chú ý đến sự biến dạng phức tạp của
khu vực (England và Houseman, 1989 [44]; Dewey và nnk, 1989 [39]; Houseman
và England, 1993 [61]; Wang và Burchfiel, 1997 [153]; Wang và nnk, 1998 [155]).
Wang và nnk (1998) [155] hiện đang xem xét chứng cứ về sự chuyển động quay
xung quanh trục phía đông Himalayan trong Pliocen-Đệ tứ được giới hạn phía đông
bởi hệ thống đứt gãy Xianshuihe-Xiaojiang trong khu vực Sichuan và Vân Nam bởi
đứt gãy Lai Châu-Điện Biên ở Việt Nam. Trong mô hình này, sự quay của mảng là
được biến dạng nội tại mạnh mẽ. Hệ thống đứt gãy Dali, ví dụ sự quay và sự mở
rộng theo hướng đông tây được xem xét trong việc quay lớn hơn của mảng vỏ
(Wang và nnk, 1998) [155]. Các khu vực phía đông nam của trục là sự mở rộng
toàn diện, trong khi các khu vực phía đông bắc là trong sự nén ép (Wang và nnk,
1998 [155]; Wang và Burchfiel, 2000 [154]). Dữ liệu về GPS phù hợp mô hình này,
ít nhất là trong khoảng thời gian ngắn. Sự phù hợp thể hiện độ lớn và hướng chuyển
dịch của các véc tơ tốc độ theo tính toán GPS tương đương với tính toán theo tài
liệu địa chất-địa mạo dọc các đứt gãy Xiaojiang và Lai Châu-Điện Biên và cả dọc
ĐGSH (King và nnk, 1997 [68]; Chen và nnk, 2000 [28]). Wang và nnk (1998)
[155] cho rằng ĐGSH hoạt động như một điểm đánh dấu thụ động trong hệ thống
quay này và bị chệch hướng ~60km bởi sự trượt cắt, kết quả sự uốn cong lên của
ĐGSH, đới trượt cắt Ailao Shan - Sông Hồng cũng như các cấu trúc xa hơn về phía
nam. Trượt bằng phải dọc đứt gãy này có thể là kết quả từ sự quay, đúng như sự
trượt phải được hình thành trên một số đứt gãy phía đông bắc, cái được giới hạn
trên hoặc kết thúc bởi các nhánh trượt trái của hệ thống đứt gãy Xianshuihe-
Xiaojiang (Burchfiel và Wang, 2003 [22]). Một hợp phần của sự dịch chuyển trên
ĐGSH cũng có thể là kết quả từ sự mở rộng đông-tây trong khu vực Dali và giữa
các nhánh của hệ thống đứt gãy Xianshuihe-Xiaojiang (Wang và nnk, 1998 [155]).
Trong giai đoạn Oligocen-Miocen, các đá phiến gneis của đới Ailao Shan
được giới hạn phía đông bắc bởi ĐGSH và phía tây nam có thể bởi đứt gãy không
còn hoạt động Ailao Shan. Sự trượt cắt bắt đầu từ khoảng 34 triệu năm trước
(Gilley và nnk., 2003 [50]) và pha tiếp sau đó được hình thành bởi sự nguội lạnh
nhanh chóng không đẳng thời trong khoảng giữa 25 và 17 triệu năm dọc đới va
chạm (Harrison và nnk, 1996 [57]). Hơn nữa theo tuổi phân rã của zircon và apatite
chi ra sự nguội lạnh nhanh chóng từ 13 tới 10 triệu năm (Bergman và nnk, 1997
[17]; Leloup và nnk, 2001 [77]), nhưng nó là không rõ ràng rằng pha nguội lạnh đó
là còn tiếp tục hay không với những chứng cứ được chỉ ra bởi địa nhiệt niên đại của
71
Harrison và nnk, (1996) [57] hoặc nếu nó chỉ đại diện cho một sự kiện nguội lạnh
riêng biệt. Những người chỉ ra hướng của sự trượt phù hợp với sự trượt bằng trái
(Leloup và nnk., 1995 [76]; 2001 [77]) và ước lượng tổng của sự biến vị trong đới
nằm trong khoảng là 700 ± 200 km (Brias và nnk, 1993 [19]; Leloup và nnk, 1995
[76], 2001 [77]; Wang, P.L và nnk, 1998 [155]). Đới trượt cắt Ailao Shan dường
như được điều chỉnh theo sự thúc trượt theo hướng nam của khối Đông Dương
(Indochina) nhưng chính xác về mặt tự nhiên của sự biến dạng lớp vỏ liên hợp là
không rõ ràng (Tapponnier và nnk, 1982 [123], 1986 [122], 1990 [125]; Leloup và
nnk, 1995 [76], 2001 [77]; Wang và Burchfiel, 1997 [153]).
Như vậy, quá trình phát triển địa hình luôn để lại dấu ấn thông qua nhiều dấu
hiệu khác nhau. Trong Kainozoi, giai đoạn trước Pliocen, đới ĐGSH là giai đoạn
biến dạng dẻo, trượt bằng trái với sự phong phú chứng cứ về địa nhiệt và địa niên
đại (Tapponnier và nnk, 1990 [125]; Scha¨rer và nnk, 1990 [108]; Harrison và nnk,
1992 [58], 1996 [57]; Leloup và nnk, 1995 [76], 2001 [77]; Zhang và Scha¨rer,
1999 [173]; Burchfiel và Wang, 2003 [22]; Gilley và nnk, 2003 [50]). Tổng sự biến
vị trượt bằng trái của địa hình trong giai đoạn này vào khoảng 700 ± 200 km và địa
hình phát triển nâng yếu (0.03mm/năm), bề mặt san bằng cao 1600m (bề mặt Sa Pa)
trong khu vực được hình thành trong giai đoạn này (Lê Đức An, 2003 [3]), các dãy
núi Himalaya-Tây Tạng đến Hoàng Liên Sơn-Con Voi mới chỉ là địa hình đồi núi
thấp và chưa được nâng lên đáng kể.
2.5.2. Lịch sử phát triển địa hình khu vực và vùng lân cận từ Pliocen tới nay
Trái ngược với sự biến dạng dẻo, trượt bằng trái trong giai đoạn trước
Pliocen, giai đoạn từ Pliocen tới nay, đới ĐGSH là một thể địa mạo tiêu biểu, một
cấu trúc trượt bằng phải và gần như là giới hạn phía đông bắc của đới trượt cắt
Ailao Shan. Mặt của ĐGSH là một mặt thẳng đứng, mảnh, có góc đổ về hướng
đông. Tốc độ trượt bằng ước tính dựa trên dữ liệu địa chất và địa mạo nằm trong
khoảng từ 5.5 tới 54km (Allen và nnk, 1984 [2]; Wang, E., và nnk, 1998 [155];
Replumaz và nnk, 2001 [99]). Tuổi khởi đầu của đứt gãy này vẫn chưa được làm rõ,
nhưng được ước tình rơi vào khoảng từ 2 tới 5 triệu năm (Allen và nnk, 1984 [2];
Wang, E., và nnk, 1998 [155]; Replumaz và nnk, 2001 [99]). Ở tỉ lệ nhỏ, ĐGSH gần
như vạch thành một đường thẳng qua rìa phía đông bắc của đới Ailao Shan. Một
đặc trưng nổi bật khi quan sát trên bản đồ của ĐGSH là một khúc uốn chính gần
điểm giao cắt của nó với hệ thống đứt gãy trượt trái Xianshuihe-Xiaojiang. Phía tây
bắc của đứt gãy này, các mặt pha-sét tam giác, các bồn trầm tích Đệ tứ và các sự
nâng cao đỉnh trong dải Ailao Shan đã được giải thích là kết quả từ một sự chuyển
72
dịch theo mặt đứt gãy trên ĐGSH với cánh phía đông bắc chuyển dịch xuống (Allen
và nnk, 1984 [2]; Replumaz và nnk, 2001 [99]; Leloup và nnk, 1995 [76]; Wang, E,
và nnk, 1998 [155]).
Theo các quan sát của Replumaz và nnk, (2001) [99] thì có hệ thống các mặt
pha-sét tam giác ở nhánh đứt gãy phía đông nam của ĐGSH (phần thuộc lãnh thổ
Trung Quốc) là rõ nét và trên cơ sở đó đã chỉ ra sự chuyển dịch theo mặt đứt gãy
được mở rộng dọc toàn bộ chiều dài đứt gãy này trong phân thuộc Trung Quốc. Tuy
nhiên, như được chỉ ra bởi Allen và nnk, (1984) [2], sự xói mòn khác nhau dọc các
đá phiến gơnai gần như dốc đứng của đới trượt cắt Ailao Shan, nhưng góc đổ theo
hướng của thung lũng lại không đáng kể, có thể tạo ra sự xuất hiện của các mặt pha-
sét tam giác trong sự thiếu vắng của sự chuyển dịch đúng theo mặt đứt gãy. Wang
và nnk., (1998) [155] đồng ý với quan điểm đứt gãy thuận không còn tiếp tục ở
phía nam của khúc uốn ĐGSH.
Trong điều kiện sự biến dạng dọc các đới siết trượt như là hệ quả của sự
đụng độ Ấn - Á, rìa đông của cao nguyên Tây Tạng, trong đó có đới ĐGSH được
cho là đã từng trải qua sự nâng của bề mặt địa hình với chiều dài của địa hình nâng
lớn như là một kết quả của sự điều chỉnh dòng gradient áp suất của của lớp vỏ mềm
bên dưới từ bên dưới Tây Tạng và sự căng phồng lên của các khu vực lân cận
(Royden, 1996 [101]; Royden và nnk, 1997 [102]; Clark và Royden, 2000 [30]). Sự
trồi lộ, sự nâng bề mặt địa hình của đới trượt cắt Ailao Shan và sự chuyển dịch trượt
bằng dọc ĐGSH và các đứt gãy hoạt động khác, chúng tương tác với nhau để tạo
thành cảnh quan địa hình hiện đại, phần địa hình còn được bảo tồn ngày nay chính
là minh chứng lý giải các quá trình hoạt động trong quá khứ. Trong giai đoạn này,
địa hình khu vực thời kỳ này nâng lên rất mạnh, điển hình là dãy Himalaya nâng
mạnh gấp 38 lần thời kỳ trước (Lê Đức An, 2003 [3]), các vùng khác cũng bị nâng
lên khá mạnh, nhưng với tốc độ kém hơn (vấn đề này sẽ làm rõ hơn ở Chương 3).
Phù hợp với quan điểm này, P.H. Leloup và nnk (1995) [76] khi nghiên cứu về dãy
núi địa lũy Diacang Shan (một trong bồn khối biến chất cao dọc đới ĐGSH) cũng
cho rằng dãy địa lũy này chỉ được nâng mạnh kể từ Pliocen. Tuy nhiên, tốc độ nâng
trồi trong giai đoạn này cũng không hoàn toàn đồng nhất mà lại chia thành nhiều
chu kỳ khác nhau. Minh chứng là sự tồn tại các BMSB và các bậc thềm sông ở
những độ cao khác nhau.
Đối với khu vực đới ĐGSH đoạn Lào Cai-Việt Trì, qua quá trình nghiên cứu,
thành lập bản đồ địa mạo (Hình 2.12), tổng hợp tài liệu về các bề mặt san bằng trẻ,
các thềm sông và trầm tích liên quan, trong giai đoạn từ Pliocen tới nay có thể quan
73
sát thấy 3 giai đoạn phát triển của địa hình theo phương thẳng đứng và chuyển dịch
theo phương ngang với cơ chế trượt bằng phải. Về đặc điểm động hình học và tốc
độ chuyển dịch của địa hình theo phương ngang sẽ được NCS trình bày chi tiết ở
phần tiếp theo (xem Chương 3).
Về 3 giai đoạn phát triển địa hình theo phương thẳng đứng đó là: giai đoạn
Pliocen (từ Pliocen sớm đến Pliocen muộn), giai đoạn từ Pleistocen sớm đến
Pleistocen giữa và giai đoạn từ Pleistocen cuối đến nay.
- Giai đoạn 1 (giai đoạn từ đầu Pliocen): Đới ĐGSH tái hoạt động trở lại nên
các trầm tích không được thành tạo và thay vào đó là sự xuất hiện đá bazan hệ tầng
Văn Tiên. Hoạt động phun trào bazan chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp nên ít ảnh
hưởng đến bề mặt địa hình. Địa hình bắt đầu quá trình chuyển dịch trượt bằng phải
và chuyển động nâng thắng thế, được đánh dấu bằng 3 bậc độ cao địa hình đó là bậc
địa hình cao 400-600m (có thể đạt 1000m ở khu vực tây bắc vùng nghiên cứu và
dãy Hoàng Liên Sơn, [4]) có tuổi Pliocen sớm, bậc địa hình cao 200-300m có tuổi
Pliocen giữa và các pediment thung lũng bị phân cắt thành các gò đồi thoải có tuổi
Pliocen muộn. Đặc điểm các dạng địa hình này xem thêm ở Mục 2.4.2.2.
- Giai đoạn 2 (từ Pleistocen sớm đến cuối Pleistocen giữa): địa hình vẫn tiếp
tục chuyển dịch bằng phải nhưng tốc độ giảm hơn so với giai đoạn trước. Địa hình
nâng với mức độ trung bình, được đánh dấu bởi 3 mực thềm sông: thềm bậc IV có
tuổi Pleistocen sớm với sự có mặt của các trầm tích của hệ tầng Mỹ Lương [128];
thềm bậc III có tuổi Pleistocen giữa với sự có mặt của hệ tầng Xuân Quang [128] và
thềm bậc II có tuổi Pleistocen giữa-muộn, trầm tích tương ứng là hệ tầng Minh Khai
[128].
- Giai đoạn 3 (từ Pleistocen muộn đến nay): Địa hình vẫn tiếp tục với cơ chế
trượt bằng phải nhưng yếu hơn nhiều so với 2 giai đoạn trước, tốc độ chuyển dịch
phải ở hiện tại là <1mm/năm (xem Mục 3.2.2); giai đoạn này hoạt động nâng mạnh
nhất, được đánh dấu bởi thềm tích tụ bậc I có tuổi Pleistocen muộn [121], trầm tích
tương ứng là hệ tầng Thủy Chạm [128] và hai thế hệ bãi bồi: bãi bồi cao, cao tương
đối 2.5-6m, được xác định tuổi Hollocen sớm-giữa [121], [174], tương ứng với hệ
tầng Phùng Nguyên và bãi bồi thấp vẫn đang tiếp tục được nâng lên ở hiện tại,
tương ứng với nó là hệ tầng Gò Mun [128].
Tóm lại: Trong Kainozoi, khu vực dọc đới ĐGSH trải qua 2 giai đoạn phát
triển địa hình - kiến tạo chính. Giai đoạn thứ nhất phát triển từ khoảng Oligocen đến
Miocen (E3-N1), là giai đoạn biến dạng dẻo, trượt bằng trái và quá trình nâng địa
74
hình yếu. Giai đoạn thứ hai, bắt đầu Pliocen đến nay; giai đoạn này có một đột biến
lớn xảy ra đó là sự đổi chiều chuyển dịch của địa hình dọc đới ĐGSH từ trượt bằng
trái qua chuyển dịch bằng phải và địa hình khu vực thời kỳ này nâng lên rất mạnh.
Trong giai đoạn này, ở phạm vi khu vực từ Lào Cai đến Việt Trì có thể chia ra làm
3 giai đoạn phát triển địa hình với 9 thời kỳ nâng tích cực và xen giữa là 9 giai đoạn
bình ổn tương đối của địa hình khu vực, được minh chứng qua sự tồn tại của 3 bậc
địa hình san bằng, 4 mực thềm sông và 2 thế hệ bãi bồi có độ cao và tuổi khác nhau.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Địa hình khu vực có 3 đặc trưng chính đó là tính khối tảng, tính phân bậc và
tính bất đối xứng.
Nghiên cứu trắc lượng hình thái khu vực được tiến hành bằng việc thành lập
các loại bản đồ: phân bậc độ cao, CCS, CCN và độ dốc cho thấy: đặc điểm phân bậc
địa hình khu vực là khá rõ nét, phản ánh hoạt động kiến tạo mạnh mẽ của khu vực.
Các đặc trưng KTHT phản ánh rõ các yếu tố địa hình được thành tạo do các
chuyển động kiến tạo, đặc biệt là các chuyển động kiến tạo trẻ. Có thể chia KTHT
khu vực nghiên cứu thành 10 kiểu với 22 phụ kiểu, được gộp trong 3 nhóm theo
nguồn gốc là kiến trúc kiến tạo, kiến trúc kiến tạo nham thạch và kiến trúc kiến tạo
bóc mòn. Theo tính chất nâng-hạ bao gồm 2 nhóm: KTHT nâng TKT và KTHT hạ
tương đối và sụt lún TKT.
Công tác lập bản đồ địa mạo khu vực theo nguyên tắc các bề mặt đồng
nguồn gốc và tuổi (nguyên tắc nguồn gốc-lịch sử) đã phân chia được 32 dạng địa
hình với 4 kiểu nguồn gốc và tuổi khác nhau là kiểu có nguồn gốc kiến tạo, kiểu có
nguồn gốc bóc mòn tổng hợp, kiểu có nguồn gốc hòa tan-rửa lũa và kiểu địa hình
dòng chảy.
Trong giai đoạn hoạt động trẻ từ Pliocen cho đến nay, đới ĐGSH đoạn Lào
Cai-Việt Trì đã trải qua 3 giai đoạn phát triển địa hình với 9 thời kỳ nâng tích cực
và xen giữa là 9 giai đoạn bình ổn tương đối của địa hình khu vực, được minh
chứng qua sự tồn tại của 3 bậc địa hình san bằng và 4 thế hệ thềm sông và 2 loại bãi
bồi có độ cao và tuổi khác nhau.
75
CHƯƠNG 3
KIẾN TẠO TRẺ VÀ ĐỊA ĐỘNG LỰC HIỆN ĐẠI
ĐỚI ĐỨT GÃY SÔNG HỒNG
3.1. ĐẶC ĐIỂM KIẾN TẠO TRẺ
3.1.1. Các dấu hiệu hoạt động trẻ từ Pliocen –Hiện đại
Kết hợp với kết quả thu được trong đợt khảo sát cùng với nhóm các nhà địa
chất thuộc Viện Nghiên cứu Động đất, Cục Địa chấn Vân Nam Trung Quốc cho
thấy đới đứt gãy Sông Hông vẫn có nhiều dấu hiệu hoạt động trong giai đoạn gần
đây. Các minh chứng thu thập được là những đới trượt cắt (shear zone) trẻ và các
dịch chuyển trong tầng phong hoá của các thành tạo Neogen có phương trùng với
phương đới ĐGSH (300-330o), chiều rộng từ vài centimét ở khu vực cầu Yên Bái
tới vài chục centimét, thậm chí tới hàng mét ở khu vực đô thị mới Lào Cai (Ngô
Văn Liêm và nnk, 2006 [81]).
Các đới trượt cắt trẻ có phương trùng với phương đã được nêu trên ghi nhận
được tại một số khu vực dọc theo các ĐGSH, Sông Chảy. Dọc theo nhánh phía tây
nam sông Hồng các đới trượt cắt kiểu như vậy là rất phổ biến, như khu vực đầu cầu
Yên Bái (đường từ TP. Yên Bái đi Nghĩa Lộ), quan sát thấy đới trượt cắt trẻ trong
tầng cát kết, cuội kết Neogen chiều rộng chưa tới 1cm, mặt trượt nhìn chung cắm về
phía tây nam, góc dốc khá lớn (225<85), vết xước phương 135 < 25 thể hiện rất rõ
trên vật liệu sét. Hay tại thành phố Lào Cai, phát hiện thấy nhiều đới trượt cắt phát
triển trong các thành tao Neogen và vỏ phong hoá của chúng, tiêu biểu nhất là khu
vực phía Đông Nam trung tâm thành phố khoảng 6km, một đới trượt cắt lộ rộng từ
1,2 đến 2m kéo dài hàng trăm mét, cắt qua các tầng cuội kết, cát kết Neogen và lớp
vỏ phong hoá của chúng có chiều dày hàng chục mét.
Đới này có thế nằm 230<70-75; vết xước 140<20-25 rất rõ nét trên vật liệu
sét (Ảnh 3.1a; 3.1b). Đặc biệt vật liệu sét trong đới bị ép phiến (phương 320) và bị
cắt nát bởi các khe nứt cắt phương á vĩ tuyến đặc trưng cho kiểu trượt bằng phải.
Ngoài ra các đới trượt kiểu trên còn rất phát triển dọc cánh phía tây nam của ĐGSH
ở nhiều khu vực khác như bên bờ phải sông Hồng khu thi trấn Bảo Yên, dọc đường
từ phố Ràng đi Cam Đường, thị trấn Bát Xát đi AMUSUNG.
76
Hình 3.1: Mặt cắt trong trầm tích Neogen - Đệ tứ và đoán giải cấu trúc từ ảnh
(điểm khảo sát thuộc thôn An Lạc - Bắc Cường - TP Lào Cai)
Tương tự như vậy, trên tuyến ĐGSC dọc quốc lộ 70 tại khu vực xã Khánh
Hoà (Lục Yên, Yên Bái); khu vực thị trấn Phố Ràng (Bảo Thắng, Lào Cai) cũng
quan sát thấy một đới tương tự. Tại khu vực xã Khánh Hoà, đới có phương 300o
(21015m các vật liệu phong hoá của đá Neogen màu xám đem, xám
nâu, loang nổ, mềm xốp cũng bị ép phiến theo phương trùng với phương của đứt
gãy này. Khu vực thị trấn Phố Ràng, quan sát thấy đới phát triển trong tầng cuội kết
Neogen đang phong hoá rộng 40 - 60cm, vật liệu bên trong màu xám đen bị ép
phiến mạnh.
77
Ngoài ra còn phát hiện các đới trượt trẻ có phương ĐB-TN, á kinh tuyến, á vĩ
tuyến có chiều rộng thay đổi trong đới đứt gãy Sông Hông có vết xước phát triển
trong các lớp sét, lớp keo sắt có cơ chế dịch trượt bằng, thuận hoặc nghịch phù hợp
với cơ chế dịch chuyển bằng của đới.
Vị trí quan sát được rất rõ ranh giới của các thành tạo Neogen và thềm sông
hiện đại tại khu vực thôn An Lạc (xã Bắc Cường, TP. Lào Cai). Ở đây phát hiện hai
hệ thống khe nứt tách là dấu ấn của các trận động đất cổ, phương thay đổi từ 275 -
290, có biên độ dịch trượt thuận từ 2 đến 4 cm, cùng với các mặt nứt của hệ thống
ĐGSH (215<60) có biên độ dịch chuyển lớn hơn từ 30 - 45 cm. Hệ thống khe nứt
mở thứ nhất được lấp nhét bằng các vật liệu màu xám sáng còn rất dẻo và mịn, hệ
thống thứ hai được lập bằng vật liệu màu nâu đỏ của thềm sông hiên đại (Hình 3.1).
Đới trượt cắt trẻ
a b
Ảnh 3.1: a- Đới trượt cắt trẻ (Shear) phát triển trong các thành tạo Neogen
và vỏ phong hoá của chúng, rộng 1,8 - 2m; b- vật liệu sét bị ép phiến song song với
đới và mặt trượt của đới (vị trí quan sát đông nam TP. Lao Cai 6 km)
Thành phần vật chất trong các đới trượt cắt này tương đối xốp, dẻo và các
lớp keo sắt hiện đại đôi chỗ bị ép phiến có màu sắc phụ thuộc vào màu sắc của lớp
vỏ phong hoá của đá gốc khu vực. Phải chăng nếu đem liên kết các hoạt động dịch
trượt của đới đứt gãy Sông Hông với tuổi của vỏ phong hoá phát triên trên đá
Neogen dọc đới Sông Hồng, thì các dấu hiệu trên trẻ hơn nhiều. Ở một số vị trí, hệ
thống khe nứt tách á vĩ tuyến, ĐB-TN, dịch chuyển thuận từ 2 -5 cm phân bố trong
cánh phía TN còn bị lấp nhét các vật liệu của thềm sông hiện đại và thổ nhưỡng
(phần trên của vỏ phong hoá), đây có thể là những khe nứt liên quan tới hoạt động
địa chấn của đới đứt gãy này, đây cũng là cơ sở cho các phân tích nhiệt huỳnh
quang phục vụ luận giải tuổi các trận động đất cổ liên quan.
78
3.1.2. Biên độ và tốc độ chuyển dịch thẳng đứng từ Pliocen tới nay
Các khối kiến trúc trẻ: các khối kiến trúc nâng (các khối núi, dãy núi) và hạ
tương đối (các thung lũng và trũng giữa núi), đã được đề cập đến ở các phần trên
(Chương 2), ở phần này NCS tập trung đi sâu phân tích đánh giá về biên độ và tốc
độ chuyển dịch theo chiều thẳng đứng của các dạng kiến trúc trẻ từ Pliocen cho tới
nay. Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề này ở trong khu vực và
vùng lân cận với nhiều cách tiếp cận và đánh giá khác nhau:
Lê Đức An, Lại Huy Anh và nnk (2000) [5], giả thiết rằng đới ĐGSH - Sông
Chảy khu vực tây bắc Lào Cai nguyên là bề mặt san bằng thống nhất có độ cao 150
m. Thung lũng sông cắt bề mặt san bằng này và lại được lấp đầy bởi các trầm tích
Đệ tứ. Do đó xếp bề mặt đới ĐGSH - Sông Chảy vào tuổi Pliocen và bề mặt đó
được nâng lên vào cuối Pliocen - đầu Đệ tứ, khoảng 2 triệu năm, với cự ly nâng từ
275 - 550 m, tốc độ nâng khoảng 0,14 - 0,28 mm / năm [5]. Tiếp đến, Lê Đức An và
đồng nghiệp (2001) [6], thông qua nghiên cứu các bậc địa hình DNCV cho rằng
DNCV từ cuối Miocen (N13) tới nay có cự ly nâng khoảng từ 700 đến 1100m tương
ứng với tốc độ 0.10-0.16mm/năm và nếu tính từ cuối Pliocen (N23) đến nay thì cự ly
nâng khoảng 150 đến 650m, tương ứng với tốc độ 0.07 đến 0.32mm/năm. Khi
nghiên cứu mối quan hệ giữa chuyển động nâng Tân kiến tạo với trượt bằng đới
ĐGSH từ góc độ địa mạo, Lê Đức An (2003) [4] đã sơ bộ tính được tốc độ nâng
trên dãy Hoàng Liên Sơn trong Pliocen là 0.17mm/năm và trong Đệ tứ là
0.50mm/năm. Đối với dãy núi và sơn nguyên Himalaya-Tây Tạng, thông qua việc
tổng hợp kết quả của các nhà địa mạo Trung Quốc cho rằng đến tận cuối N1 đến đầu
N2, Himalaya vẫn còn là vùng đổi núi thấp cỡ 500-1000m, chỉ đến giữa Pliocen địa
hình khu vực này mới đạt độ cao 3000m; còn độ cao 6000-8000m chỉ mới đạt được
trong Đệ tứ, từ đó rút ra được tốc độ nâng trong nửa đầu Pliocen là 1.14mm/năm và
từ nửa sau Pliocen tới nay có tốc độ nâng là 1.40mm/năm.
Trần Ngọc Nam (1999) [88], bằng tính toán P - T, cho thấy tổng độ lớn trồi
lộ hậu biến chất ở DNCV đạt khoảng 23 km và bắt đầu trồi lộ khoảng 31 - 30 tr.n.
Phân tích chi tiết các đường cong P - T - t cho thấy quá trình nâng phi tuyến của đới
ĐGSH - Sông Chảy với tốc độ giảm dần: 10 mm / năm trong khoảng 31 - 30 tr.n; 3
mm/năm trong khoảng 30 - 28 tr.n; 1 mm/năm trong khoảng 28 - 24 tr.n và trung
bình 0,15 mm / năm từ 24 tr.n. đến nay [88].
Phan Trọng Trịnh và nnk (1998) [145], phân tích điều kiện P - T, cho rằng
các đá gneis, plagiogranit trong đới ĐGSH được hình thành ở nhiệt độ 6000 - 7500,
áp suất 3kb, ứng với độ sâu trung bình khoảng 10 km và được nâng lên từ 23 tr. n.
79
trước. Như vậy, để đạt độ cao địa hình hiện đại (3 km) đới ĐGSH - Sông Chảy đã
nâng lên khoảng 13 km, ứng với tốc độ trung bình khoảng 0,56 mm / năm [149].
Schoenbohm và đồng nghiệp (2004), thông qua nghiên cứu sự biến dạng địa
mạo trên các bề mặt nâng, sự bóc lộ và sự phát triển cao nguyên trong khu vực sông
Hồng, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, đã xác định được tổng độ nâng địa hình (có tính
đến tốc độ bóc lộ) gần ranh giới giữa Việt Nam và Trung Quốc đạt khoảng 1400
đến
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dac_diem_phat_trien_dia_hinh_trong_moi_lien_quan_voi_dia_dong_luc_hien_dai_doi_dut_gay_song_hong_696.pdf