MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7
1.1. Những công trình nghiên cứu về an sinh xã hội và đảm bảo an
sinh xã hội 7
1.2. Nhận xét chung về những công trình khoa học đã nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận án và những khoảng trống cần tiếp tục
nghiên cứu trong luận án 25
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐẢM BẢO AN SINH XÃ
HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ 29
2.1. Khái niệm, đặc điểm và mối quan hệ giữa đảm bảo an sinh xã hội
đối với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố 29
2.2. Nội dung và những điều kiện đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn
thành phố 46
2.3. Kinh nghiệm đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố và
bài học đối với thành phố Hà Nội 52
Chương 3: THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI 70
3.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ảnh hưởng đến đảm bảo an
sinh xã hội thành phố Hà Nội 70
3.2. Thực trạng đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội
giai đoạn 2008 đến nay 76
3.3. Đánh giá chung 112
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM
ĐẢM BẢO AN SINH XÃ HỘI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI 123
4.1. Quan điểm, phương hướng đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn
thành phố Hà Nội 123
4.2. Giải pháp đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội 134
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 157
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160
PHỤ LỤC 171
195 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 673 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m
23.000 hộ nghèo, đạt 100% kế hoạch [77, tr.4].
Trong những năm qua nhờ sự nỗ lực, cố gắng của các ngành, các cấp tại TP
Hà Nội công tác XĐGN đã đạt hiệu quả cao. Công tác giảm nghèo ở các quận,
huyện này từng bước đi vào chiều sâu trong hình thức và cách thức tổ chức thực
hiện, như: Hỗ trợ xây dựng và sửa chữa nhà ở cho 137 hộ nghèo; Phối hợp giải
quyết cho 158.440 lượt hộ nghèo, cận nghèo vay vốn XĐGN, cho 138 hộ vay vốn
nuôi bò sinh sản; Mở 16 lớp dạy nghề cho 891 người nghèo
TP Hà Nội chủ chương phối hợp với Ngân hàng chính sách xã hội
hướng dẫn, đôn đốc các quận, huyện triển khai nguồn vốn cho hộ nghèo, cận
nghèo, người khuyết tật vay ưu đãi. Tính đến tháng 10/2012, đã có 3.623 nhà
đã hoàn thành, 107 nhà đang xây dựng, còn 41 nhà chưa khởi công do các hộ
không có điều kiện xây dựng.
Nhờ những nỗ lực của TP Hà Nội công tác giảm nghèo đã có những tác
động rất tích cực, thể hiện ở một số mặt sau:
- Hệ thống ASXH được tăng cường và hoạt động hiệu quả. Nhờ vận
dụng sáng tạo chủ chương, chính sách của Đảng vào điều kiện kinh tế của
từng xã, huyện của TP Hà Nội nên hệ thống ASXH được tăng cường. Tính
đến năm 2012 các quận, huyện đã hoàn chỉnh thủ tục cấp thẻ BHYT miễn phí
cho 376.421 người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, hỗ trợ mệnh giá thẻ
BHYT cho 1.855 thành viên hộ cận nghèo đạt 1,4%. Chi trả 21.809.250.000
đồng kinh phí hỗ trợ tiền điện cho 80.945 hộ nghèo. 9.791 lượt học sinh được
miễn giảm học phí với số tiền 14.804 triệu đồng
- Đảng bộ, chính quyền các cấp và toàn dân cùng phối kết hợp tham gia
tích cực thực hiện Chương trình XĐGN. Phối hợp với Ban chuyên đề Đài
truyền hình TP thực hiện mục chuyên đề thời sự thông qua việc ghi hình,
phỏng vấn, phóng sự các gương điển hình, các mô hình giảm nghèo tiêu biểu.
82
- Hình thành niềm tin tưởng vào chế độ, vào sự lãnh đạo của Đảng, nhà
nước của người dân nghèo, tạo động lực cho bản thân người nghèo vươn lên
thoát nghèo, khẳng định bản thân người nghèo, hộ nghèo với xã hội. Thông
qua đó, tạo sức lan tỏa sâu rộng, hiệu quả đến công tác giảm nghèo bền vững.
Tuy nhiên, quá trình thực hiện công tác XĐGN, sự kết hợp giữa các
ngành, các cấp trong công tác XĐGN có nơi còn lúng túng, tư tưởng ỷ lại, tạo
ra sức ỳ trong việc xoá những hộ nghèo; Chính sách XĐGN ghèo còn chồng
chéo, thiếu tính thống nhất và đồng bộ, chủ yếu thiên về lượng, ngắn hạn mà
chưa thực sự chú trọng đến chất lượng giảm nghèo theo hướng bền vững;
Tính chất, mức độ "hành chính quan liêu" trong các cấp, một số cán bộ làm công
tác giảm nghèo; Việc xác định diện hộ nghèo theo quy định có những lệch lạc,
dựa vào quan hệ thân quen đưa vào diện nghèo những hộ không nằm trong tiêu
chí nghèo, thậm chí bớt xén tiền bạc mà đáng lẽ hộ nghèo được hưởng.
- Giải quyết việc việc làm cho người lao động ở Thành phố Hà Nội
thời gian quan
GQVL là vấn đề then chốt đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi
quốc gia. Đảng bộ TP Hà Nội đã đề ra những chủ chương, biện pháp quan
trọng, phù hợp về vấn đề lao động việc làm cho người lao động hiên nay.
Nhằm góp phần giải quyết tốt việc làm TP Hà Nội đã triển khai thực hiện đề
án phát triển TTLĐ đến năm 2015; định hướng đến năm 2020 và chương trình
GQVL TP giai đoạn 2010 - 2015. Sau khi nhập tỉnh (Hà Nội - Hà Tây) dưới tác
động của cuộc khủng hoảng kinh tế, Hà Nội gặp nhiều khó khăn song đối với chỉ
tiêu về công tác lao động việc làm đã đạt được một số thành tựu như sau:
Một là, chủ chương GQVL cho lao động được TP Hà Nội triển khai
đồng bộ và kịp thời. Đảng bộ TP Hà Nội đã chủ động và kịp thời triển khai
các chính sách về lao động việc làm đối với địa phương trên địa bàn TP... Mặt
khác, tại các quận trên địa bàn TP Hà Nội triển khai một số phong trào nhằm
tôn vinh thế hệ trẻ năng động, sáng tạo và là lực lượng xung kích trong sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, tạo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, đặc biệt là lao
động di cư từ các vùng miền khác lên TP Hà Nội làm ăn, học tập và sinh
sống. Theo Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội năm
83
2012 toàn TP đã GQVL cho 135.810 lao động, đạt 97,5% kế hoạch năm; tổ chức
106 phiên giao dịch việc làm tuyển dụng được 25.000 lao động, đạt 100% kế
hoạch đề ra [77]. Năm 2008, xét duyệt 1.087 dự án vay vốn từ Quỹ quốc gia
GQVL với số tiền là 134,9 tỷ đồng, tạo việc làm mới cho 18.750 lao động, đưa
3.920 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài [76]. Đến năm, 2012, TP
Hà Nội xét duyệt 1.516 dự án ay vốn từ Quỹ quốc gia GQVL với số tiền là 256
tỷ đồng, tạo việc làm mới cho 25.750 lao động, đạt 103% kế hoạch được giao
[77]. Số lao động được GQVL tăng qua các năm và đều hoàn thành vượt kế
hoạch đề ra, tỉ lệ thất nghiệp bình quân năm 2012 là 4,8%; số người đăng ký
BHTN là 20.638 người; số người nộp hồ sơ hưởng BHTN là 16.901 người. Đó
là những kết quả đáng khích lệ và cần phát huy trong thời kỳ kinh tế khó khăn.
Ba là, công tác tuyên truyền về việc làm và xuất khẩu lao động bước đầu
được triển khai sâu rộng, hiệu quả. Các địa phương cũng như các quận, huyện,
TP trên địa bàn TP đã ra quân bằng các hình thức như loa, đài, phóng thanh,
truyền hình, khẩu hiệu, băng zôn...với các nội dung như đẩy mạnh tuyên truyền,
hướng dẫn thực hiện pháp luật lao động cho người sử dụng lao động và người
lao động góp phần hạn chế tranh chấp lao động, xây dựng quan hệ lao động hài
hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp.
Bốn là, công tác đào tạo, mô hình đào tạo, trung tâm dạy nghề được mở
rộng. TP đã tổ chức đựoc 70 phiên giao dịch việc làm, trong đó có 60 phiên cố
định, 10 phiên lưu động, với 3.850 doanh nghiệp, đơn vị tham gia, có 25.200 lao
động được tuyển dụng. Các đơn vị giới thiệu việc làm trên địa bàn TP đã tư vấn
pháp luật lao động, dạy nghề, việc làm cho trên 20.000 lượt người lao động, giới
thiệu việc làm cho gần 1.500 lao động. Ngoài ra, TP còn tổ chức Hội thi tay
nghề TP, có 36 đơn vị đăng ký với 197 thí sinh dự thi ở 14 nghề. Kết quả có 155
thí sinh đạt giải. Hội thi tay nghề ASEAN, đoàn Hà Nội có 5/9 thí sinh đạt thành
tích cao.
Năm là, nhiều địa phương trú trọng ngành nghề truyền thống, giữ gìn bản
sắc dân tộc của từng địa phương. Nhiều địa phương trên địa bàn TP Hà Nội coi
các ngành nghề truyền thống như là món ăn tinh thần trong đời sống hàng ngày
của mỗi người. Nó không chỉ mang lại thu nhập cho người dân, tạo việc làm lúc
nhàn rỗi mà góp phần quảng bá hình ảnh của Việt Nam với bạn bè quốc tế.
84
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác lao động việc làm tại TP Hà
Nội đã đạt được kết quả nhất định song vẫn tồn tại một số hạn chế cần khắc
phục trong thời gian tới: Thứ nhất, chủ chương, chính sách của TP Hà Nội về
công tác lao động việc làm chưa được triển khai đồng bộ, kịp thời ở một số địa
phương; Thứ hai, nhiều mô hình đào tạo, trung tâm dạy nghề được mở rộng
xong không đáp ứng được nhu cầu của TTLĐ; Ba là, công tác giải nghèo nhằm
đảm bảo ASXH chưa hiệu quả, số hộ đói, nghèo vẫn diễn ra ở một số địa
phương trong TP (một số huyện nghèo thuộc tỉnh Hà Tây cũ); Bốn là, năng lực
của cán bộ làm công tác lao động việc làm còn hạn chế; Năm là, hoạt động
truyền thông đối với công tác lao động việc làm chưa thực sự sâu rộng.
3.2.2. Việc thực hiện các điều kiện đảm bảo an sinh xã hội trên địa
bàn Thành phố Hà Nội từ năm 2008 đến nay
Việc mở rộng địa giới hành chính Hà Nội cách đây 5 năm đã mở ra
những cơ hội lớn cho Thủ đô phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để đẩy
mạnh việc đảm bảo ASXH cho người dân trên địa bàn. Tuy nhiên, cơ hội
cũng đi kèm với những thách thức khi còn tồn tại sự chênh lệch về kinh tế, xã
hội giữa các vùng của Hà Nội mở rộng. Vì thế, Hà Nội cần ra sức thực hiện
việc đảm bảo an sinh trên địa bàn để xây dựng thủ đô thực sự giữ vị trí trung
tâm kinh tế, chính trị và văn hóa của cả nước.
3.2.2.1. Thực trạng về nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và
người dân về ý nghĩa việc đảm bảo an sinh xã hội cho người dân trên địa
bàn Thành phố Hà Nội
Gần 30 năm đổi mới, cùng với những thành tựu trong đổi mới kinh tế
- xã hội, đường lối lãnh đạo của Đảng về xây dựng hệ thống chính sách
ASXH cũng có nhiều đổi mới về mục tiêu, nội dung và phương thức thực
hiện theo hướng ngày càng toàn diện và hiệu quả hơn. Đây là cơ sở cho việc
xây dựng chính sách ASXH hiệu quả, phù hợp với thực tiễn phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói, trong các yếu tố để đảm bảo cho
ASXH được thực thi hiệu quả, thiết thực nhất là đội ngũ cán bộ trong lĩnh
vực thực thi chính sách ASXH. Vì vậy, nghiên cứu, đánh giá thực trạng
nhận thức về tầm quan trọng của việc đảm bảo ASXH cho người dân là hết
sức cần thiết. Đối với TP Hà Nội, đội ngũ cán bộ so với các địa phương
85
trong cả nước có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao hơn nên luận án tập
trung đánh giá thực trạng nhận thức về tầm quan trọng của việc đảm bảo
ASXH cho người dân trên địa bàn TP Hà Nội ở một số nội dung:
* Nhận thức về việc đảm bảo an sinh xã hội với việc ổn định chính trị
- xã hội
Việc đảm bảo chính sách ASXH sẽ góp phần làm cho đời sống - xã
hội của nhân dân được ổn định, nâng cao, tạo niềm tin của quần chúng
nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. ASXH được
đảm bảo và triển khai tích cực trong cả nước, khiến cho các tệ nạn xã hội như
nghiện ngập, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè, ma túy, mê tín, dị đoan giảm dần,
nhận thức của người dân được nâng cao và tiến bộ hơn.
Để đánh giá thực trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực
ASXH và người dân trên địa bàn TP, tác giả của luận án đã tiến hành điều tra
với câu hỏi: Nhận thức về tầm quan trọng của việc đảm bảo ASXH cho
người dân đối với việc ổn định chính trị - xã hội tại địa phương? Kết quả
thu được như sau:
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 3.3: Nhận thức của đội ngũ cán bộ, người dân về tầm quan
trọng của việc đảm bảo ASXH cho người dân đối với việc ổn định chính
trị - xã hội tại địa phương
Nguồn: Điều của tác giả Luận án.
86
Câu hỏi trên thu được kết quả: 0% đồng chí cán bộ cho rằng việc đảm
bảo ASXH không quan trọng hoặc ít quan trọng; Mức độ quan trọng trung
bình chỉ chiếm có 7%; Còn lại 93% ý kiến được hỏi cho rằng việc đảm bảo
ASXH cho người dân quan trọng và rất quan trọng đối với việc ổn định chính
trị - xã hội tại địa phương. Kết quả cho thấy, hầu hết cán bộ trong Đảng, chính
quyền các cấp của TP Hà Nội đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đảm
ASXH góp phần ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn TP.
Về phía người dân: 10% người dân đánh giá việc đảm bảo ASXH
không quan trọng hoặc ít quan trọng đối với việc ổn định chính trị - xã hội;
47% cho rằng việc đảm bảo ASXH quan trọng bình thường; 43% người dân
cho rằng quan trọng và rất quan trọng. Như vậy, có thể thấy, số lượng người
dân đánh giá việc đảm bảo ASXH có tầm quan trọng bình thường, ít quan
trọng, không quan trọng chiếm tỷ lệ còn cao.
Khi tác giả tiến hành phỏng vấn sâu nhiều ý kiến của người dân cho
thấy bản thân họ không hiểu ASXH là gì? ASXH có ý nghĩa như thế nào đối
với đời sống của họ. Trong đó, có người dân tại Đội 6 - Thôn Phan Long - Xã
Tân Hội - Huyện Đan Phượng cho rằng: “Tôi chỉ nghe đài báo, ti vi nói về
ASXH, nhưng nói thật, tôi không hiểu gì về nó, nghe lạ, lâu dần thành quen,
chứ không biết nó nói về cái gì, có vai trò gì”.
* Nhận thức về đảm bảo an sinh xã hội đối với phát triển kinh tế và hội
nhập kinh tế quốc tế của địa phương
Việc đảm bảo ASXH là một trong những vấn đề quan trọng nhằm đảm
bảo công bằng xã hội hiện nay, là yếu tố có mối quan hệ biện chứng với sự
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nếu đời sống nhân dân (đặc biệt là
người dân yếu thế trên địa bàn) được đảm bảo sẽ là yếu tố quan trọng để ổn
định xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế và ngược lại. Để đánh giá về thực
trạng nhận thức của đội ngũ cán bộ và người dân về tầm quan trọng của việc
đảm bảo ASXH đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế
của địa phương, tác giả đã đưa ra câu hỏi điều tra: Nhận thức của Ông (Bà) về
tầm quan trọng của việc đảm bảo ASXH cho người dân đối với phát triển
kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế?
87
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 3.4: Nhận thức của đội ngũ cán bộ, người dân về tầm quan
trọng của việc đảm bảo ASXH cho người dân đối với việc ổn định chính
trị - xã hội tại địa phương
Nguồn: Điều tra của tác giả Luận án.
Với kết quả thu được trong câu hỏi điểu tra trên cho thấy có sự chênh
lệch về việc đánh giá về tiêu chí mức độ đánh giá về không quan trọng và ít
quan trọng giữa đội ngũ cán bộ và người dân: 0% cán bộ cho rằng việc đảm
bảo ASXH không quan trọng hoặc ít quan trọng đối với việc phát triển kinh tế
- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, song có đến 11% người dân cho rằng
không quan trọng hoặc ít quan trọng. Có 85% đội ngũ cán bộ cho rằng vấn đề
này quan trọng hoặc rất quan trọng, trong khi đó có 60% cho rằng quan trọng
và rất quan trọng. Có thể thấy, kết quả thu được có sự chênh lệch khác nhau ở
mức độ (1) và (2), còn cơ bản đều trên 50% khẳng định tầm quan trọng của
việc đảm bảo ASXH đối với việc phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh
tế quốc tế trên địa bàn TP.
* Nhận thức của cán bộ, người dân về đảm bảo an sinh xã hội đối với
công bằng xã hội và phát huy giá trị nhân văn của dân tộc
Trong xã hội loài người có sự phân biệt giàu nghèo, phân biệt giai cấp.
Tuy nhiên mỗi cá nhân trong xã hội có quyền được hưởng lợi từ những chương
88
trình mục tiêu quốc gia để phát huy hết khả năng của mình, không phân biệt dân
tộc, màu da, tôn giáo. Và chính sách ASXH tạo điều kiện, cơ hội cho người kém
may mắn, những người bất hạnh trong xã hội để họ vượt qua khó khăn và hướng
tới chuẩn mực của chân - thiện - mĩ. Đồng thời, giúp mọi người hướng tới một
xã hội công bằng, góp phần tạo nên cuộc sống công bằng và văn minh. Để đánh
giá nhận thức của đội ngũ cán bộ và người dân trên địa bàn TP Hà Nội về tầm
quan trọng của việc đảm bảo ASXH đối với công bằng xã hội và phát huy giá trị
nhân văn của dân tộc. Tác giả Luận án đã đưa ra câu hỏi điều tra nghiên cứu:
Ông (Bà) hãy đánh giá về tầm quan trọng của việc đảm bảo ASXH đối với công
bằng xã hội và phát huy giá trị nhân văn của dân tộc ở địa phương?. Câu hỏi
này, đã thu được kết quả điều tra nghiên nghiên cứu như sau:
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 3.5: Đánh giá của cán bộ, người dân về tầm quan trọng của
đảm bảo ASXH với công bằng xã hội và phát huy giá trị nhân văn của
dân tộc
Nguồn: Điều tra của tác giả Luận án.
Công bằng xã hội và giá trị nhân văn là một trong những vai trò quan
trọng mà việc đảm bảo ASXH đã góp phần tạo dựng và phát huy trong nền kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Song cũng trong nội dung
89
nghiên cứu này, kết quả điều tra cho thấy: Về phía đội ngũ cán bộ ASXH và các
cấp Đảng, chính quyền đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng đặc biệt việc đảm
bảo ASXH đến việc công bằng và phát huy giá trị nhân đạo, nhân văn của dân
tộc (94% ý kiến được hỏi cho rằng: Việc đảm bảo ASXH quan trọng và rất quan
trọng đối trong việc đảm bảo công bằng xã hội và phát huy giá trị truyền thống
nhân văn của dân tộc). Về phía người dân, do chưa nhận thức đầy đủ về khái
niệm, cấu trúc, chức năng của ASXH nên còn 8% cho rằng nội dung tiêu chí này
không quan trọng hoặc ít quan trọng. Song vẫn có 69% ý kiến người dân được
điều tra cho rằng quan trọng và rất quan trọng. Như vậy, cả về phía cán bộ và
người dân được hỏi đều nhận thức được tầm quan trọng ở mức độ cao của việc
đảm bảo ASXH đối với đảm bảo công bằng xã hội và phát huy giá trị nhân văn,
nhân đạo cho người dân trên địa bàn TP Hà Nội.
3.2.2.2. Thực trạng nguồn lực tài chính đảm bảo an sinh xã hội trên
địa bàn Thành phố Hà Nội
Nguồn tài chính thực hiện các chương trình ASXH được huy động từ
ngân sách Nhà nước (Trung ương và địa phương), từ đóng góp của các đối
tượng tham gia, sự trợ giúp người thân, gia đình, bạn bè và xã hội. Nguồn lực
tài chính là một trong những điều kiện quan trọng giúp cho việc đảm bảo
ASXH cho người dân trên địa bàn được thực hiện. Nếu thiếu nguồn lực tài
chính sẽ khó thực thi các trụ cột cơ bản của ASXH trong thực tiễn. Hà Nội là
một trong những TP trực thuộc Trung ương, là một trong hai trung tâm kinh
tế, tài chính lớn của đất nước. Vì thế, việc huy động nguồn lực tài chính đảm
bảo cho ASXH cho người dân có những thuận lợi và khó khăn nhất định.
Truyền thống “ uống nước nhớ nguồn”, “ ăn quả nhớ người trồng cây,
hàng năm, Nhà nước cũng như TP Hà Nội đã dành một phần ngân sách khá
lớn cho chính sách này. Năm 2012, tổng dân số TP Hà Nội đạt 6,96 triệu người,
chiếm 7,84% tổng dân số toàn quốc, tăng thêm 0,71 triệu người so với năm
2008. Giai đoạn 2008-2012, tốc độ tăng dân số bình quân mỗi năm đạt 2,3%, cao
hơn rất nhiều so với tốc độ tăng dân số của toàn quốc (1,1%) (xem phụ lục 4).
Giai đoạn 2008 - 2012, TP Hà Nội đã có bước phát triển vượt bậc về
kinh tế - xã hội mặc dù chịu ảnh hưởng mạnh của lạm phát, suy thoái kinh tế
90
toàn cầu từ năm 2008 đến nay. Tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo điều kiện cho
đầu tư đảm bảo ASXH trên toàn TP. Năm 2012, giá trị tổng sản phẩm nội địa
(GDP) của TP Hà Nội đạt mức 326.470 tỷ đồng (tính theo giá hiện hành),
chiếm 10,1% trong tổng GDP của cả nước, tăng 1,83 lần so với năm 2008
(178.605 tỷ đồng). Tuy nhiên, tỷ trọng GDP của Thành phố Hà Nội trong
tổng GDP cả nước có xu hướng giảm, từ 12,7% năm 2009 xuống còn 10,1%
năm 2012.
Xét về tốc độ tăng GDP, năm 2012, GDP của TP Hà Nội đạt mức tăng
8,1%, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước (5,2%). Tính
chung thời kỳ 2008-2012, GDP tăng bình quân khoảng 9,5%/năm, cao hơn gần
1,6 lần so với tốc độ tăng bình quân của cả nước (5,9%/năm).
Đơn vị tính: %
Biểu đồ 3.6: So sánh tốc độ tăng GDP của TP Hà nội và cả nước giai đoạn
2008-2012
Nguồn: Tổng cục Thống kê - Niên giám thống kê 2012, Cục Thống kê,
2013 [21].
Bên cạnh những nỗ lực đầu tư phát triển kinh tế, Thành phố Hà Nội
cũng rất chú trọng đầu tư phát triển lĩnh vực xã hội nhằm mục tiêu đảm bảo
an ninh trật tự, công bằng và ổn định xã hội. Tổng ngân sách chi thường
xuyên của TP Hà Nội có sự tăng trưởng mạnh trong giai đoạn 2008 - 2012,
đạt tốc độ tăng bình quân 27,9%/năm), cụ thể, tăng từ 9.957 tỷ đồng (26%
91
tổng chi ngân sách) năm 2008 tăng lên 26.638 tỷ đồng (49,8%) năm 2012
(xem phụ lục 6).
Trong tổng ngân sách chi thường xuyên, chi đảm bảo an sinh xã hội
trên địa bàn Thành phố Hà Nội có xu hướng tăng mạnh trong thời kỳ 2008-
2012, đặc biệt đầu tư lĩnh vực y tế và đảm bảo xã hội, cụ thể: Tỷ trọng đầu tư
cho y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình trong tổng ngân sách chi thường
xuyên đạt tốc độ tăng bình quân 39,1%/năm thời kỳ 2008-2012. Năm 2012,
đầu tư cho lĩnh vực này chiếm 10,1% tổng ngân sách chi thường xuyên
(tương đương 2.701 tỷ đồng), tăng 3,8 lần so với năm 2008 (7,2% tổng ngân
sách chi thường xuyên, tương đương 713 tỷ đồng). Tỷ trọng đầu tư cho
đảm bảo xã hội và TGXH trong tổng ngân sách chi thường xuyên đạt tốc độ
tăng bình quân 38,4%/năm thời kỳ 2008-2012. Năm 2012, đầu tư cho lĩnh
vực này chiếm 7,6% tổng ngân sách chi thường xuyên (tương đương 2.019 tỷ
đồng), tăng 3,9 lần so với năm 2008 (5,2% tổng ngân sách chi thường xuyên,
tương đương 520 tỷ đồng); Tỷ trọng đầu tư cho giáo dục trong tổng ngân sách
chi thường xuyên đạt tốc độ tăng bình quân 25,3%/năm thời kỳ 2008-2012.
Năm 2012, tỷ trọng đầu tư cho lĩnh vực này chiếm 28,2% tổng ngân sách chi
thường xuyên, thấp hơn so với năm 2008 (31,4% tổng ngân sách chi thường
xuyên). Tuy nhiên, tổng kinh phí đầu tư lại đạt mức cao hơn 4 lần so với năm
2008 (7.513 tỷ đồng năm 2012 so với 3.130 tỷ đồng năm 2008).
* Nguồn lực tài chính cho lĩnh vực XĐGN
Bằng nhiều chính sách, giải pháp hỗ trợ chuyển từ hình thức cấp phát sang
vay vốn với lãi suất ưu đãi đã giúp cho các hộ nghèo có vốn tổ chức sản xuất
kinh doanh, tạo việc làm ổn định, góp phần giảm nhanh số hộ nghèo của TP Hà
Nội. Năm 2010, TP Hà Nội đã triển khai hỗ trợ trực tiếp và cho vay vốn đầu tư
sản xuất tới 403.810 hộ nghèo và đã đạt được kết quả giảm nhanh chóng số hộ
nghèo theo chuẩn nghèo riêng của TP Hà Nội (Chuẩn nghèo riêng của TP Hà
Nội: (1) Giai đoạn 2006-2008 áp dụng mức 350 nghìn đồng/người/tháng ở thành
thị và 270 nghìn đồng/người/tháng ở nông thôn. Chênh lệch cao hơn so với
chuẩn nghèo của Trung ương là 135%; (ii) Giai đoạn 2009-2010 áp dụng mức
92
500 nghìn đồng/người/tháng ở thành thị và 350 nghìn đồng/người/tháng ở nông
thôn. Chênh lệch cao hơn so với chuẩn nghèo của Trung ương là 192% ở thành
thị và 165% ở nông thôn; (iii) Giai đoạn 2011-2015 áp dụng mức 750 nghìn
đồng/người/tháng ở thành thị và 550 nghìn đồng/người/tháng ở nông thôn.
Chênh lệch cao hơn so với chuẩn nghèo của Trung ương là 150% ở thành thị và
138% ở nông thôn), từ 117,83 nghìn hộ, tương đương 8,43% (đầu năm 2009)
xuống còn 91,38 nghìn hộ nghèo, tương đương 6,09% (đầu năm 2010).
Tiếp đến, sau khi áp dụng điều chỉnh tăng chuẩn nghèo giai đoạn 2011
- 2015, số hộ nghèo được hỗ trợ trực tiếp và cho vay vốn đầu tư sản xuất
trong 2 năm (2011 và 2012) đạt 526.493 hộ, điều này góp phần cho giảm
mạnh số hộ nghèo theo chuẩn nghèo riêng của TP Hà Nội từ 116,05 nghìn hộ,
tương đương 7,52% (đầu năm 2011) xuống còn 59,37 nghìn hộ, tương đương
3,55% (đầu năm 2013).
* Nguồn lực đảm bảo thực hiện chính sách thị trường lao động chủ động
Trong những năm gần đây việc huy động vốn đầu tư cho công tác đào
tạo nghề, tạo việc làm và phát triển sản xuất đã được đa dạng hóa, nhưng chủ
yếu vẫn là nguồn ngân sách nhà nước.
Từ năm 2010 đến năm 2012, nguồn vốn đầu tư thực hiện chính sách
TTLĐ chủ động của TP Hà Nội có xu hướng tăng, đạt tốc độ tăng bình quân
25,7%/năm, tuy nhiên năm 2012 mức đầu tư đạt 1.601 tỷ đồng, giảm nhiều so
với năm 2011 (1.937 tỷ đồng). Trong đó, ngân sách TP Hà Nội tăng mạnh
nhất, đạt tốc độ tăng bình quân 42%/năm và ngân sách Trung ương tăng
4,1%/năm, trong khi đó ngân sách huy động từ các nguồn khác có xu hướng
giảm mạnh với mức giảm bình quân 30%/năm.
Về cơ cấu, năm 2012, tổng vốn đầu tư đạt 1.601 tỷ đồng, trong đó chủ
yếu vẫn là từ ngân sách TP Hà Nội (1.249 tỷ đồng, chiếm 78%) và ngân sách
TP Trung ương (291,3 tỷ đồng, chiếm 18,2%). Nguồn vốn xã hội hóa và các
nguồn thu hợp pháp khác chỉ đạt 61,2 tỷ (chiếm 3,8%).
Về loại hình đầu tư, năm 2012, nguồn vốn chi hỗ trợ trực tiếp cho hộ
nghèo vùng dân tộc, miền núi khó khăn mua sắm vật tư, nguyên vật liệu phục vụ
đời sống và sản xuất chiếm phần lớn trong tổng vốn đầu tư, đạt 1.118 tỷ đồng,
93
chiếm 64,9%), tiếp đến là đầu tư cho đào tạo nghề (442,7 tỷ đồng, chiếm 25,7%)
và cho vay tín dụng ưu đãi phát triển sản xuất đạt 122,4 tỷ đồng (chiếm 7,1%).
* Nguồn lực đảm bảo thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
Với nhiệm vụ chủ yếu là giúp Tổng giám đốc BHXH Việt Nam tổ chức
thực hiện các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội, BHYT và quản lý quỹ
BHXH, BHYT trên địa bàn TP Hà Nội đã xác định việc hoạch định thu, chi
cho phù hợp và tham mưu đắc lực cho Tổng Giám đốc BHXH. Từ năm 2008
đến 2012, hoạt động thu BHXH tự nguyện và BHYT tự nguyện ngày càng tăng,
nguồn lực tài chính của lĩnh vực này cũng tăng theo hàng năm.
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Biểu đồ 3.7: Nguồn lực tài chính thu, chi trong lĩnh vực BHXH và BHYT
Nguồn: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội TP Hà Nội, 2012 [77].
Về thu BHXH: Năm 2012, tổng thu quỹ bảo hiểm xã hội đạt 15.333
tỷ đồng, tăng gấp 3,2 lần so với năm 2008 (4.184,25 tỷ đồng). Hoạt động thu
hàng năm của BHXH TP Hà Nội tập trung từ những nguồn cơ bản: Thu
BHXH bắt buộc; Thu BHTN; Thu BHXH tự nguyện; Thu BHYT; Thu lãi
chậm đóng BHXH, BHYT. Việc thu BHXH của TP Hà Nội những năm gần
đây năm sau tăng cao hơn so với năm trước là do một số nguyên nhân: Tỷ lệ
thu BHXH tăng theo quy định của Luật BHXH (từ 22% lên 24%); Tăng
lương tối thiểu vùng và tăng lương tối thiểu chung của Nhà nước từ 830.000
94
đồng lên 1.050.000 đồng; Bên cạnh đó, có sự quan tâm, chỉ đạo kịp thời của
Thành ủy, UBND TP ban hành các văn bản chỉ đạo: Thông tri 07-TT/TU
ngày 29/02/2012; Kế hoạch số 48/KH-UBND ngày 30/3/2012, trong đó giao
trách nhiệm cụ thể của từng Sở, Ngành liên quan trong việc phối hợp với
BHXH Hà Nội để thực hiện BHXH, BHYT trên địa bàn.
Về cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội: Mặc dù thu quỹ bảo hiểm xã
hội có xu hướng tăng nhanh cùng với xu hướng tăng lực lượng lao động tham
gia bảo hiểm xã hội, song do mức chi quỹ bảo hiểm xã hội tăng nhanh hơn
thu quỹ bảo hiểm xã hội, nên tỷ lệ chi/thu càng gia tăng, từ khoảng 69% năm
2008 lên 76,2% vào năm 2012, cho thấy nguy cơ bất ổn về quỹ rất lớn.
* Nguồn lực tài chính đảm bảo thực hiện chính sách trợ giúp xã hội
Với chủ trương tăng cường trợ giúp đối tượng yếu thế theo hướng mở
rộng diện đối tượng hưởng chính sác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_dam_bao_an_sinh_xa_hoi_tren_dia_ban_thanh_pho_ha_noi_3616_1917220.pdf