MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN
6
1.1. Các công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án 6
1.2. Khái quát những vấn đề liên quan đến đề tài luận án các công
trình trên đã giải quyết và những nội dung luận án tập trung
nghiên cứu
25
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƢƠNG QUÁN TRIỆT CHỦ TRƢƠNG
CỦA TRUNG ƢƠNG ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ (1997-2005)
28
2.1. Yêu cầu khách quan đối với công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp cơ sở của Đảng bộ tỉnh Bình Dương giai đoạn đầu
tỉnh mới tái lập
28
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về xây
dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2005
43
Chƣơng 3: ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƢƠNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH XÂY
DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM
2005 ĐẾN NĂM 2015
64
3.1. Yêu cầu mới và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bình Dương về
đẩy mạnh xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở
64
3.2. Đảng bộ tỉnh Bình Dương chỉ đạo đẩy mạnh xây dựng đội ngũ
cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (2005-2015)
76
Chƣơng 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 103
4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến năm 2015
103
4.2. Một số kinh nghiêm 127
KẾT LUẬN 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 151
PHỤ LỤC
232 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đjao xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp co sở từ năm 1997 đến năm 2015 - Phạm Hồng Kiên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luân chuyển cán bộ là khâu đột phá trong công tác cán bộ, nên luôn quan tâm
chỉ đạo thực hiện. Các địa phương, cơ sở đã xây dựng kế hoạch luân chuyển
gắn với việc đào tạo, bồi dưỡng, thử thách, đánh giá đội ngũ cán bộ kế cận
nhằm rèn luyện các cán bộ trẻ có triển vọng bổ sung vào nguồn quy hoạch cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở và khắc phục dần tình trạng khép kín, cục bộ tại địa
phương, chất lượng công tác luân chuyển từng bước được nâng lên và đi vào
chiều sâu.
Tuy nhiên, "công tác luân chuyển từ huyện, thị về xã gặp nhiều khó
khăn vì khi luân chuyển về xã phải thực hiện biệt phái, do đó để bảo đảm công
việc ở huyện, thị cần phải có biên chế để tuyển dụng, bổ sung thay thế công việc
cho người được biệt phái và luân chuyển cán bộ xã về huyện cũng gặp khó
khăn khi xếp lương" [155, tr. 9]. Cùng với đó, "các chức danh bầu cử ở xã nếu
không trúng cử nhiệm kỳ thứ hai và chưa đến tuổi nghỉ việc không có hướng
giải quyết. Nếu giải quyết cho nghỉ việc thì không đủ cơ sở pháp lý, có nơi sẽ
thiếu nguồn cán bộ và không thu hút được những người trẻ, đã qua đào tạo về xã
công tác. Nếu tiếp tục bố trí thì không còn định biên theo chức danh [155, tr. 9].
92
Trước tình hình trên, Đảng bộ tỉnh Bình Dương chỉ đạo các cấp, các
ngành phải tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ngày 25/01/2001 về việc luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản
lý, tiếp tục đổi mới công tác sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ và ban hành
Quyết định số 561-QĐ/TU ngày 10/9/2007 quy định về bổ nhiệm và giới thiệu
ứng cử, nhằm tăng trách nhiệm và thẩm quyền bổ nhiệm cán bộ, tạo điều kiện
để rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ, có triển vọng,
giúp cán bộ trưởng thành toàn diện, vững vàng hơn, đáp ứng yêu cầu cán bộ
trước mắt và lâu dài. Tạo một bước đột phá góp phần đổi mới sâu sắc công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở.
Đặc biệt, sau Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị
về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến
năm 2020 và những năm tiếp theo, Tỉnh ủy Bình Dương ban hành Kế hoạch
số 30-KH/TU ngày 31/01/2013 về điều động, luân chuyển cán bộ lãnh đạo,
quản lý giai đoạn 2013-2015. Để công tác bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ thật
sự đi vào chiều sâu, tạo sự thống nhất cao, Tỉnh ủy Bình Dương ban hành
Quyết định số 945-QĐ/TU ngày 16/10/2013 về việc bổ nhiệm, giới thiệu, ứng
cử, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển đối với cán bộ, công chức và yêu cầu
cấp ủy, chính quyền địa phương thực hiện việc xây dựng quy định cụ thể về
bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, miễn nhiệm, điều động, luân chuyển đối
với cán bộ, công chức trong phạm vi phụ trách và phải có những chuyển biến
mới, có vào, có ra, có lên, có xuống, có thử thách ở địa bàn thuận lợi, có thử
thách ở địa bàn khó khăn, có nắm giữ chức vụ chủ chốt trong chính quyền, có
nắm giữ chức vụ chủ chốt trong Đảng.
Đồng thời, nhằm đổi mới tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ ở các địa
phương gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy bảo đảm tinh gọn, hoạt động thiết
thực, hiệu quả để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng. Thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
93
ương Đảng khóa X, ngày 02/02/2008 về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên,
với chủ trương, "trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể
hóa chức danh cán bộ, tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ
cán bộ ở cơ sở" [31, tr. 100] và Hướng dẫn số 25-HD/BTCTW ngày 06/3/2009
về thực hiện thí điểm Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch ủy ban nhân dân
cấp xã và địa phương không tổ chức Hội đồng nhân dân. Tỉnh ủy Bình
Dương ban hành Kế hoạch số 39-KH/TU ngày 18/5/2009 về thực hiện thí
điểm Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, thị trấn.
Tỉnh ủy yêu cầu, các đơn vị được chọn làm điểm cần bảo đảm tính
tiêu biểu, đại diện cho các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, các
đồng chí được chọn làm Bí thư đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân phải
đảm bảo tiêu chuẩn theo Quyết định 665-QĐ/TU ngày 20/10/2003 về tiêu
chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước; "các cấp ủy cần làm tốt công tác nhân sự, đảm bảo
chặt chẽ, đúng quy trình, dân chủ, khách quan; làm tốt công tác tư tưởng, tạo
sự thống nhất trong nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa
của việc thí điểm" [109, tr. 1-2]. Các huyện ủy, thị ủy, thành ủy phải xây dựng
hoàn chỉnh kế hoạch, danh sách đơn vị, cán bộ thực hiện thí điểm gửi về Ban
Tổ chức Tỉnh ủy trước 31/7/2009, việc triển khai thực hiện từ ngày 01/11/2009.
Riêng hai huyện "Thuận An và Bến Cát giữ nguyên các đơn vị đang thực hiện
mô hình Bí thư kiêm Chủ tịch làm điểm" [109, tr. 1].
Trong giai đoạn 2005-2015, thực hiện chủ trương của Trung ương, Tỉnh
ủy chỉ đạo các cấp đã tăng cường, luân chuyển 45 cán bộ từ cấp huyện về xã
giữ chức Bí thư Đảng, 04 cán bộ giữ chức Phó Bí thư Thường trực, 18 cán bộ
giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân, 14 cán bộ giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân, luân chuyển từ xã lên cấp huyện 3 cán bộ, luân chuyển từ địa
phương này sang địa phương khác 5 cán bộ, trong đó, có 03 cán bộ giữ chức
94
Bí thư Đảng ủy, 02 cán bộ giữ chức Chủ tịch Ủy ban nhân dân [127, tr. 9].
Công tác bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ của Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã
từng bước khắc phục sự hụt hẫng cán bộ, khép kín trong từng địa phương,
tăng cường bổ sung cán bộ cho cấp cơ sở và ngược lại.
Đồng thời, để khắc phục những hạn chế nhất định trong công tác chỉ
đạo, điều hành của cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đẩy mạnh giải quyết các thủ tục hành chính, thúc đẩy thu hút
đầu tư, trước khi có chủ trương của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã
chủ động thực hiện thí điểm mô hình Bí thư cấp ủy, đồng thời là Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp xã ở một số huyện, thị trong tỉnh từ năm 2002 [111, tr. 5].
Đảng bộ tỉnh Bình Dương sớm nhận thức rằng, việc thực hiện mô hình Bí thư
cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã thị trấn là nhằm tiếp tục đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy tính chủ động, sáng tạo, đề cao
tinh thần trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu; tạo sự đồng bộ, thống nhất
trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các mặt công tác của địa phương. Trong
nhiệm kỳ 2010-2015 thực hiện thí điểm tại 09 xã, phường, nhiệm kỳ 2015-
2020 thực hiện thêm tại 4 xã, phường [125, tr. 17].
Thực hiện thí điểm mô hình Bí thư Đảng ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy
ban nhân dân, đã góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở
Đảng, đưa chủ trương của Đảng nhanh đi vào cuộc sống, do vừa là người lãnh
đạo, vừa là người chỉ đạo tổ chức thực hiện nên có điều kiện tiếp cận nhiều
hơn với thực tiễn, hiểu rõ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình tổ chức
thực hiện, có ưu thế trong việc tiếp thu, vận dụng nghị quyết của cấp trên phù
hợp với đặc điểm, thực tiễn của cơ sở, có điều kiện thuận lợi trong việc phân
công, phối hợp tập trung sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tạo điều kiện xử
lý nhanh, kịp thời những vấn đề cấp bách, bức xúc của địa phương, giảm thời
gian hội họp, khắc phục sự chồng chéo, đùn đẩy trách nhiệm, góp phần tinh
gọn tổ chức bộ máy. Việc tập trung quyền hạn cao hơn trước đây tạo cho
95
đồng chí Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch Ủy ban nhân dân khả năng bao
quát, linh hoạt, chủ động hơn trong công việc. Đây là mô hình phù hợp với
xây dựng chính quyền đô thị và Bình Dương thành phố thông minh.
3.2.4. Chỉ đạo quản lý cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ
Trong giai đoạn 1997-2005, Đảng bộ Bình Dương đã thực hiện phân
cấp quản lý cán bộ, tuy nhiên "cơ chế quản lý sử dụng còn nhiều bất hợp lý,
chưa tạo động lực khuyến khích cán bộ, công chức đề cao trách nhiệm, phấn
đấu, rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, năng lực công tác". Đồng thời,
"công tác quản lý cán bộ, đảng viên ở một số địa phương, đơn vị còn thiếu
chặt chẽ" [106, tr. 10]. Để đảm bảo cho công tác quản lý, tuyển dụng, sử
dụng, đề bạt và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có hiệu
quả hơn, giúp cấp cơ sở có điều kiện tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng đội
ngũ cán bộ và từng cán bộ một cách khoa học, đồng bộ và hệ thống, tạo cơ sở
cho việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng
cán bộ phù hợp, phát huy khả năng của cả đội ngũ và từng người, góp phần
xây dựng tổ chức ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của quản
lý trong thời kỳ mới.
Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban hành và sửa đổi nhiều quyết
định đẩy mạnh phân cấp quản lý cán bộ, góp phần thúc đẩy cải cách hành
chính, đổi mới quy trình bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử theo
hướng mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh bạch giảm
bớt thủ tục, thời gian cần thiết, đáp ứng kiện toàn kịp thời đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở như: Quyết định số 168/2006/QĐ-UBND ngày 11/7/2006 và
Quyết định số 24/2007/QĐ-UBND ngày 15/3/2007 về việc sửa đổi, bổ sung
một số điều trong Quy định được ban hành kèm theo Quyết định số
168/2006/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương và Quyết định
số 48/2007/QĐ-UBND ngày 31/5/2007 quy định chế độ quản lý cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn.
96
Để xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý cán
bộ, công chức cấp xã, Tỉnh ủy Bình Dương ban hành Quyết định số 560-QĐ/TU
ngày 10/9/2007 về phân cấp quản lý cán bộ. Tiếp đó, Ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành Quyết định số 39/2012/QĐ-UBND ngày 11/9/2012 về chế độ quản lý
cán bộ, công chức và những người hoạt động không chuyên trách ở xã,
phường, thị trấn tỉnh Bình Dương và Quyết định số 50/2014/QĐ-UBND ngày
18/12/014 về phân cấp quản lý đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Các văn bản trên quy định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn của từng cấp trong quản lý cán bộ, công chức cấp xã, cụ thể:
Ủy ban nhân dân tỉnh, có nhiệm vụ ban hành quyết định quy định số
lượng cụ thể chức danh cán bộ cấp cơ sở, ban hành quy định về
phân cấp quản lý, tiêu chuẩn cán bộ, ngành đạo tạo, phê duyệt kế
hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức hằng năm của
Ủy ban nhân dân cấp huyện. Sở Nội vụ, có nhiệm vụ và quyền hạn
là tham mưu ra văn bản hướng dẫn, kiểm tra cấp huyện trong thực
hiện quản lý cán bộ, được điều động hoặc tiếp nhận "cán bộ, công
chức cấp huyện luân chuyển, điều động về công tác và đảm nhận
một chức vụ cán bộ hoặc một chức danh công chức ở xã" hoặc cán
bộ xã "về công tác tại cơ quan, đơn vị của Đảng, chính quyền, đoàn
thể, Mặt trận Tổ quốc cấp huyện". Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện có quyền "quyết định tuyển dụng, tiếp nhận, điều động, xếp
lương, nâng lương trước thời hạn, nghỉ hưu, thôi việc, kỷ luật đối
với cán bộ cấp xã". Ủy ban nhân dân cấp xã xây dựng kế hoạch
tuyển dụng; xây dựng quy hoạch cán bộ, công chức hàng năm báo
cáo và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt [181, tr. 4-7].
Trong giai đoạn 1997-2005, tuy Bình Dương sớm ban hành nhiều
chính sách với nhiều chế độ ưu đãi đối với cán bộ "nhưng chưa đủ sức hấp
dẫn để thu hút người giỏi, người tài về công tác tại tỉnh, nhất là vào các đơn vị
97
cơ sở" [153, tr. 5]. Nhằm khắc phục những hạn chế, cụ thể hóa chủ trương của
Đảng bộ về xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu của
thời kỳ phát triển mới, tỉnh Bình Dương đã đẩy mạnh công tác xây dựng và
thực hiện chính sách đối với cán bộ cấp cơ sở và coi đó là động lực để phát
huy sự nỗ lực của cán bộ. Ngày 14/7/2006, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình
Dương ban hành Nghị quyết số 08/2006/NQ-HĐND phê chuẩn chính sách
đào tạo, thu hút và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương. Tiếp đó, Ủy
ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Quyết định số 199/2006/QĐ-UBND
ngày 16/8/2006 về chính sách đào tạo, thu hút và phát triển nguồn nhân lực
tỉnh Bình Dương, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
được giao, nâng cao kiến thức, năng lực quản lý, điều hành và thực thi công
vụ, động viên khuyến khích cán bộ nâng cao tinh thần học tập đồng thời thu
hút nguồn nhân lực trong và ngoài tỉnh có trình độ cao về công tác tại cơ sở
nhằm tăng cường chất lượng cán bộ cấp cơ sở.
Sau 3 năm thực hiện chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực, đã đạt được những kết quả bước đầu nhưng nhìn chung,
một số chế độ, chính sách đối với cấp xã chưa hợp lý, nhất là đối với cán bộ
chuyên trách, cán bộ bầu cử; việc xây dựng và ban hành một số chính sách
còn chậm có chính sách chưa phù hợp với thực tế nhưng chậm được đổi mới
như: "chính sách nghỉ hưu, nghỉ việc đối với cấp xã, chưa có chính sách trợ
cấp đối với cán bộ được điều động, luân chuyển về cơ sở" [106, tr. 10]. Chính
sách đào tạo, thu hút nhân lực của tỉnh mặc dù ra đời sớm, được điều chỉnh,
bổ sung nhưng mức trợ cấp còn thấp, chưa tính đến một số đặc thù nên hiệu
quả chưa cao. Trước tình hình đó, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp cơ sở, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Nghị quyết số
37/2009/NQ-HĐND ngày 16/12/2009 về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ
đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương và Nghị quyết số
40/2009/NQ-HĐND về thực hiện chế độ trợ cấp khó khăn đối với cán bộ,
98
công chức, viên chức, những người hoạt động không chuyên trách công tác
tại 13 xã còn nhiều khó khăn trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương
khóa 7, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành và sửa đổi nhiều văn bản nhằm nâng
cao chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp cơ sở, thu hút nguồn nhân lực chất
lượng cao về công tác tại xã, phường, thị trấn như: Quyết định số
94/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009 ban hành quy định số lượng, một số
chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, những người hoạt động không
chuyên trách cấp xã và cán bộ ấp, khu phố; Quyết định số 96/2009/QĐ-UBND
ngày 31/12/2009 về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực; Quyết định số 13/2010/QĐ-UBND sửa đổi một số quy định
được ban hành theo Quyết định số 94/2009/QĐ-UBND ngày 21/12/2009. Để
nâng cao hơn nữa chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực cao cho
cơ sở, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Nghị quyết số
12/2010/NQ-HĐND sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 37/2009/NQ-HĐND ngày
16/12/2009 và Ủy ban nhân dân cụ thể hóa bằng Quyết định số 22/2010/QĐ-
UBND ngày 23/7/2010 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 96/2009/QĐ-UBND
ngày 31/12/2009 về chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực.
Tuy đã ban hành nhiều chính sách, dành cho cán bộ cấp cơ sở nhằm
nâng cao chất lượng nhưng "việc tuyển dụng, bổ sung lao động có trình độ
chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định, kể cả bố trí sinh viên tốt nghiệp đại học
hưởng trợ cấp của tỉnh chỉ đạt kết quả hạn chế" [169, tr. 2] ảnh hưởng đến
chất lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở. Để tiếp tục
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, Hội đồng nhân dân
tỉnh ban hành Nghị quyết số 58/2011/NQ-HĐND ngày 10/11/2011 về chính
sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển nhân lực tỉnh Bình Dương.
Tiếp đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương sửa đổi và ban hành nhiều văn
99
bản nhằm cụ thể hóa Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 8 như:
Quyết định số 73/2011/QĐ-UBND ngày 20/12/2011 ban hành quy định số
lượng, chức danh, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp
xã; Quyết định số 74/2011/QĐ-UBND ngày 21/12/2011 ban hành quy định về
chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực và
Hướng dẫn liên sở số 372/HDLS-NV-TC ngày 15/6/2012 của Sở Tài chính và
Sở Nội vụ về thực hiện chính sách thu hút, chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực tỉnh Bình Dương.
Đặc biệt, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương ban hành Nghị quyết
chuyên đề số 05/2013/NQ-HĐND ngày 31/7/2013 về số lượng và thực hiện
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức dự nguồn cấp xã trên địa bàn
tỉnh Bình Dương, nhằm kết hợp giữa công tác đào tạo nguồn cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở với thực hiện chính sách, bố trí sử dụng. Cụ thể hóa Nghị quyết số 05
của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa 8, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương ban
hành Quyết định số 23/2013/QĐ-UBND ngày 21/8/2013 về việc bố trí và thực
hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức dự nguồn của các xã,
phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Trong thẩm quyền được phân
cấp, Sở Nội vụ tỉnh Bình Dương ban hành 15 quyết định (phụ lục 10), phân
bổ 200 cán bộ, công chức dự nguồn cho cấp huyện.
Trong 10 năm (2005-2015), Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã ban
hành 5 văn bản cụ thể hóa chủ trương của Đảng bộ tỉnh về phân cấp quản lý cán
bộ, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nghiêm túc tổ chức thực hiện, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định, đồng thời phát huy đầy đủ trách
nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu trong công tác quản lý cán bộ. Các
cấp đã nhận thức rõ trách nhiệm, quyền hạn trong công tác quản lý đội ngũ cán
bộ chủ chốt cấp cơ sở và thống nhất cách thức tổ chức, linh hoạt trong thực
hiện góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu
phát triển, phù hợp với đặc điểm của từng xã, phường, thị trấn trong tỉnh.
100
Cùng với đó, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh Bình
Dương cũng ban hành và sửa đổi 16 văn bản liên quan đến chế độ, chính sách
đối với cán bộ cấp cơ sở. Điều này làm cho các cấp nhận thức rõ tầm quan
trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở và chính sách cán
bộ là một nội dung quan trọng của công tác chính trị, tư tưởng, là một trong
những động lực cốt yếu trực tiếp thúc đẩy đội ngũ cán bộ chủ chốt nâng cao
trách nhiệm, nỗ lực công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc đẩy
mạnh công tác xây dựng, sửa đổi, ban hành chế độ, chính sách theo hướng
ngày càng nâng cao đã góp phần tạo điều kiện học tập nâng cao trình độ, góp
phần nâng cao chất lượng cuộc sống, an tâm công tác, đẩy lùi suy thoái về
chính trị, tư tưởng, đạo đức đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Tiểu kết chƣơng 3
Giai đoạn 2005 - 2015, mặc dù có nhiều biến động về kinh tế - xã hội,
ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở,
nhưng Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã có sự đổi mới trong lãnh đạo xây dựng
đội ngũ cán bộ, đề ra nhiều chủ trương, giải pháp chủ động, linh hoạt, đúng
đắn, phù hợp với tình hình thế giới, trong nước và địa phương. Công tác cán
bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị và yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ trong
thời kỳ mới, luôn quan tâm chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả từng
khâu của công tác cán bộ, hướng trọng tâm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở vào công tác tạo nguồn cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, trình độ lý luận chính trị, trình độ quản lý kinh tế, tin học, ngoại
ngữ, cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở.
Trong đào tạo, bồi dưỡng đã chú trọng cập nhật những kiến thức mới,
chú trọng bồi dưỡng kỹ năng, bồi dưỡng chức danh theo vị trí việc làm và coi
đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong việc thực hiện chiến lược cán bộ
giai đoạn mới. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch cán bộ, bảo đảm sự
chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Đồng thời,
101
thực hiện luân chuyển cán bộ, đưa công tác này thành nề nếp trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ. Đẩy mạnh việc xây dựng, ban hành và điều chỉnh chế
độ, chính sách đối với cán bộ cấp cơ sở bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, hướng
tới công bằng. Đổi mới công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng cán bộ, cải tiến
cách thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để chọn đúng người, bố trí đúng việc.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở,
các cấp ủy Đảng, chính quyền và các ngành của tỉnh Bình Dương cũng gặp
không ít khó khăn, thách thức như: Hệ thống chính quyền ở nước ta gồm 4 cấp,
nhưng xây dựng bộ máy chỉ hoàn chỉnh ở 3 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện),
còn cấp xã chỉ là những chức danh riêng biệt không được xây dựng thành một
bộ máy hoàn chỉnh; việc xử lý kỷ luật cán bộ cấp xã được quy định trong Luật
cán bộ, công chức năm 2008, tuy nhiên, các văn bản pháp quy dưới luật chưa
được ban hành đồng bộ, Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của
Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn có nội dung điều chỉnh
xử lý, kỷ luật cán bộ, nhưng thời điểm ban hành đã lâu, không còn phù hợp
với thực tiễn, không có quy trình hướng dẫn cụ thể khi tiến hành, cũng như
các hành vi vi phạm tương ứng với các hình thức kỷ luật, gây khó khăn trong
xử lý vi phạm, đặc biệt là xử lý kỷ luật đối với các chức danh dân cử và đoàn
thể cấp xã.
Trung ương chưa xây dựng được chế độ, chính sách đối với cán bộ,
công chức cấp xã phù hợp với chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công
chức cấp huyện trở lên để tạo sự liên thông trong đội ngũ cán bộ các cấp;
chưa xây dựng chương trình và hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với đối
tượng cán bộ Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp cơ sở;
Thực hiện chế độ chính sách đối với cán bộ Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp cơ sở chưa tương xứng; chưa có quy định cụ thể vai
trò phụ trách chi bộ quân sự đối với những đơn vị thực hiện Bí thư cấp ủy
đồng thời là Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp cơ sở; các quy định của Trung
102
ương về số lượng cán bộ cấp xã chưa chú ý đến tính đặc thù và sự phát triển
kinh tế- xã hội của vùng, miền, địa phương.
Tuy gặp không ít khó khăn, thách thức nhưng, Tỉnh ủy, Hội đồng
nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dương đã thể hiện quyết tâm cao trong
việc chỉ đạo triển khai công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở,
ngoài phụ cấp chức vụ lãnh đạo, cán bộ cấp xã còn được hưởng chế độ phụ
cấp phân theo loại xã, nhằm mục đích hỗ trợ thêm và tăng tính trách nhiệm
trong thực hiện phát triển kinh tế- xã hội của địa phương. Bản thân đội ngũ
cán bộ cấp cơ sở luôn có ý thức và tinh thần trách nhiệm cao, biết kế thừa,
phát huy những kinh nghiệm, truyền thống của quê hương và các thế hệ đi
trước. Những kết quả lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng đội ngũ cán bộ
cấp cơ sở của Đảng bộ tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 2005- 2015, không
chỉ góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định an ninh chính trị, phát
kinh tế - xã hội mà còn để lại nhiều kinh nghiệm quý để Đảng bộ tỉnh có
những chủ trương, biện pháp đúng đắn và thích hợp hơn nữa trong công tác
xây dựng đội ngũ cán bộ cho các giai đoạn tiếp theo.
103
Chƣơng 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÌNH DƢƠNG LÃNH
ĐẠO XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ TỪ NĂM 1997
ĐẾN NĂM 2015
4.1.1. Ƣu điểm, kết quả đạt đƣợc và nguyên nhân
4.1.1.1. Về ưu điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã nhận thức đúng đắn vai trò
của xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh
Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt
cấp cơ sở, các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Bình Dương xác định: Để thực
hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội thì cần có sự phối hợp
giữa các cấp, các ngành và doanh nghiệp, nhưng quan trọng hơn cả là sự vững
mạnh của cấp cơ sở và đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Bởi lẽ, cấp cơ sở là
nơi đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trực tiếp đưa vào
cuộc sống, là nơi mà uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng được biểu hiện
một cách cụ thể đối với quần chúng nhân dân thông qua đội ngũ cán bộ chủ
chốt của Đảng ở cơ sở. Do vậy, Tỉnh ủy xác định rõ nhận thức về xây dựng
đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng hệ
hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, là cơ sở để địa phương ổn định, phát
triển nhanh và bền vững, từ đó, yêu cầu, các cấp lãnh đạo cần xác định cán bộ
và công tác cán bộ là công việc của Đảng bộ, của cấp ủy Đảng, để từ đó các
cấp ủy Đảng và cán bộ chủ chốt ở mối cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị phải đích
thân chăm lo công tác cán bộ.
Để có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của
tỉnh, thì cần phải có chính sách cán bộ tốt. Chính sách cán bộ chính là nhân tố
104
quyết định tạo động lực, phát huy mọi khả năng của cán bộ trong quá trình
công tác. Nhận thức đúng đắn về vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ
sở và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đã tạo nên sự thống nhất
trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện ở các cấp,
các ngành và cả hệ thống chính trị. Tỉnh ủy Bình Dương đã ban hành 33 văn
bản lãnh đạo, chỉ đạo (phụ lục 11) về công tác cán bộ và có nhiều chương
trình hành động riêng về xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở. Trong phạm vi
t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dang_bo_tinh_binh_duong_lanh_djao_xay_dung_doi_ngu_c.pdf