MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI 6
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6
1.2. Khái quát những vấn đề mà luận án kế thừa kết quả nghiên cứu của
các công trình khoa học đã được công bố và những vấn đề đặt ra
luận án cần phải giải quyết 25
Chương 2: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ 1997 ĐẾN NĂM 2000 28
2.1. Những yếu tố tác động tới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
trong phát triển kinh tế nông nghiệp 28
2.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên 42
2.3. Đảng bộ tỉnh Hưng Yên chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp 49
Chương 3: ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010 76
3.1. Chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp của
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên 76
3.2. Chỉ đạo thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp 92
Chương 4: NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM 113
4.1. Một số nhận xét 113
4.2. Một số kinh nghiệm 129
KẾT LUẬN 145
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 148
PHỤ LỤC 165
176 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến năm 2010 - Nguyễn Thị Nguyệt Ánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chưa có các cơ sở chế biến, sản
phẩm hàng hóa sản xuất ra đều do tư thương thao túng thị trường dẫn đến tình
trạng ép cấp, ép giá làm thiệt thòi cho người sản xuất.
Với những nguyên nhân trên đòi hỏi các cấp ủy Đảng, chính quyền
tỉnh Hưng Yên tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo sát sao và có hiệu quả hơn, nhằm
sớm khắc phục những tồn tại, phát huy những thành tựu để đưa kinh tế
Hưng Yên hướng tới sự phát triển bền vững.
Tiểu kết chương 2
Trong những năm 1997 - 2000, xuất phát từ thực tiễn địa phương,
bám sát đường lối, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nói chung,
KTNN nói riêng, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Hưng Yên đã, tập trung vào các lĩnh
vực chủ yếu: trồng trọt, chăn nuôi; cải tạo, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ
75
thuật; xây dựng các vùng sản xuất tập trung; tăng cường công tác quản lý
nhà nước, đổi mới chính sách phát triển nông nghiệp và xây dựng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
bằng việc ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quyết định nhằm lãnh đạo, chỉ
đạo các sở, ban, ngành và các địa phương trong tỉnh thực hiện. Nhiều nghị
quyết, chỉ thị của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế nông nghiệp được nhân dân
hưởng ứng sâu rộng và thực hiện có hiệu quả với những cách làm sáng tạo,
đã huy động được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, phù hợp với đặc
điểm của từng vùng, miền. Điều đó phản ánh sự quán triệt, vận dụng linh
hoạt của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên trong lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế
nông nghiệp ở một tỉnh đồng bằng.
Tuy nhiên, KTNN tỉnh Hưng Yên vẫn còn có một số hạn chế, khuyết
điểm, nhất là trong khâu tổ chức thực hiện; chưa tận dụng, khai thác triệt để
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, mặt nước; chất lượng và khả năng cạnh
tranh sản phẩm nông nghiệp của tỉnh Hưng Yên còn hạn chế. Đòi hỏi Đảng
bộ, chính quyền, cơ quan chuyên môn các cấp và người nông dân tỉnh
Hưng Yên phải nhận thức đầy đủ về những hạn chế, khuyết điểm đó, kịp
thời điều chỉnh, bổ sung chủ trương, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển nông
nghiệp của Tỉnh trong những năm tiếp theo, nhằm xây dựng Hưng Yên
thành Tỉnh nông thôn mới, có cơ cấu KTNN, công nghiệp phù hợp theo
hướng hiện đại.
76
Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010
3.1. CHỦ TRƯƠNG ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH HƯNG YÊN
3.1.1. Chủ trương của Đảng và những yêu cầu đối với nhiệm vụ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
* Chủ trương của Đảng về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp (2001- 2010)
Bước sang thế kỷ XXI, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
(04/2001) nhấn mạnh “đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn theo hướng hình thành nền nông nghiệp hàng hóa lớn phù hợp với
nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái của vùng, chuyển dịch cơ cấu ngành,
nghề, cơ cấu lao động, tạo việc làm thu hút lao động ở nông thôn” [51,
tr.171]. Đại hội đề ra phương hướng: Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các
nguồn lực cần thiết để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn. Đưa nông nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ
giới hóa, quy hoạch sử dụng đất hợp lý, đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi,
tăng giá trị thu được trên đơn vị diện tích, giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông
sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn...
Đại hội IX xác định rõ con đường CNH, HĐH của đất nước là con
đường đi tắt, đón đầu rút ngắn thời gian so với các nước đi trước, vừa tập
trung phát triển mạnh công nghiệp, vừa đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn. Chú trọng điện khí hóa nông thôn, phát triển mạnh công nghiệp
chế biến gắn với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ nông nghiệp, công
nghiệp gia công và dịch vụ.
77
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) ngày
18/3/2002 ra Nghị quyết 15-NQ/TW về “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”. Nghị quyết đã nêu
những nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển, những chủ trương
và giải pháp lớn nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn;
khẳng định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH,
HĐH đất nước. Nghị quyết xác định 5 quan điểm chỉ đạo:
Một là, khẳng định tầm quan trọng hàng đầu và ý nghĩa của CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn
bó, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả cho CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn.
Hai là, phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững, chú trọng phát huy
nguồn lực con người, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ, phát huy lợi
thế của từng vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Ba là, dựa vào nội lực là chính, tranh thủ tối đa ngoại lực, phát huy
tiềm năng của các thành phần kinh tế, kinh tế hộ, các loại hình doanh
nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân
nông thôn; giữ gìn, phát huy văn hóa truyền thống.
Năm là, phát triển nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng tiềm lực,
thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân [10, tr.94-95].
Những quan điểm của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương (khóa IX) là sự kế thừa, phát triển những quan điểm đã được
xác định trong Nghị quyết của các đại hội, các hội nghị Trung ương và của
Bộ Chính trị trước đó. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã được phản
78
ánh toàn diện, tập trung trên cả ba mặt chủ yếu: lực lượng sản xuất, quan hệ
sản xuất và kết cấu hạ tầng KT-XH.
Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) ngày 05-
8-2008, Đảng ra Nghị quyết số 26-NQ/TW “Về nông nghiệp, nông dân và
nông thôn”. Nghị quyết xác định mục tiêu trước mắt đến năm 2010 là: tạo
chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn và nâng
cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn, nhất là các vùng có nhiều khó
khăn; tăng cường nghiên cứu và chuyển giao khoa học- công nghệ tiên tiến,
tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực; tăng cường công tác xóa đói giảm
nghèo, đặc biệt là các huyện còn trên 50% hộ nghèo, tập trung giải quyết các
vấn đề xã hội bức xúc, giữa vững ổn định chính trị- xã hội ở nông thôn; triển
khai một bước chương trình xây dựng nông thôn mới; giảm tỷ lệ hộ nghèo
mới chuẩn
Từ quan điểm đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến nông- lâm- thủy sản được đề ra tại Đại hội VIII, đến quan điểm đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, tiếp tục phát
triển và đưa nông, lâm, ngư nghiệp lên một trình độ mới được đề ra tại Đại
hội IX và đẩy mạnh hơn nữa CNH, HĐH nông nghiệp và nông dân tại Đại
hội X cho thấy xuất phát từ thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước, nhận
thức của Đảng và Chính phủ Việt Nam là ngày càng quan tâm, chú ý tới
phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Các chủ trương, nghị quyết của Đảng đã góp phần giải quyết những
vướng mắc của không ít cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong quá
trình lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn; khẳng định đường lối phát
triển KTNN của Đảng là phù hợp với quy luật khách quan từ sản xuất nhỏ
79
lên sản xuất lớn. Góp phần quan trọng đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn;
phát huy được thế mạnh của KTNN.
* Những yêu cầu mới trong công tác lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của
Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
Bước vào thời kỳ mới, kinh tế nông nghiệp Hưng Yên đã được tiếp
thu những thành tựu quan trọng trong những năm đầu của quá trình đổi mới,
đây là tiền đề và điều kiện quan trọng để Đảng bộ tỉnh Hưng Yên tiếp tục đề
ra những chủ trương, các biện pháp phát triển nông nghiệp toàn diện, bền
vững. Tuy nhiên, nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp trong thời kỳ này
đặt ra những yêu cầu mới, có phần khó khăn, phức tạp hơn, trong đó có một
số thách thức lớn, đó là:
Một là, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Hưng Yên diễn
ra chậm, việc triển khai chủ trương của Đảng về nông nghiệp vào thực tiễn
còn nhiều lúng túng, hiệu quả thấp; trình độ sản xuất nông nghiệp còn thấp,
chủ yếu là sản xuất thủ công phân tán, manh mún, chưa tập trung thành vùng
chuyên canh hàng hóa lớn nên năng suất, chất lượng thấp, sức cạnh tranh
kém. Trong khi, sản xuất theo hình thức công nghiệp, bán công nghiệp
chiếm tỷ trọng rất ít, chưa tương xứng với lợi thế tiềm năng của tỉnh và yêu
cầu của CNH, HĐH.
Hai là, sản xuất nông nghiệp, nhất là chăn nuôi chưa đảm bảo sạch, an
toàn cho người sản xuất và người tiêu dùng, vấn đề ô nhiễm môi trường,
phát triển nông nghiệp thiếu bền vững; việc sử dụng đất nông nghiệp ở
Hưng Yên bị tác động mạnh mẽ bởi quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa.
Các khu công nghiệp, khu dân cư mới đang lấn dần diện tích đất nông
nghiệp. Chính sách giải tỏa, giá đền bù đất đai chưa hợp lý, việc thu hồi đất,
giao đất tràn lan vừa gây lãng phí tài nguyên đất nông nghiệp vừa gây khó
khăn trong lao động, việc làm.
80
Ba là, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
chậm, quy mô sản xuất nhỏ do đất đai manh mún chưa có tích tụ ruộng đất,
chi phí sản xuất cao, sản xuất chưa gắn kết với chế biến và tiêu thụ, chuyển
dịch chưa đều khắp các vùng, các địa phương. Một số vùng ven đô, việc
chuyển đổi cơ cấu giữa các ngành và vùng nông nghiệp diễn ra nhanh hơn,
sôi động hơn, trong khi những vùng sâu, vùng xa do cơ sở hạ tầng lạc hậu,
dân trí thấp thì sự chuyển dịch lại rất khó khăn.
Bốn là, các công trình thủy lợi nhiều nơi xuống cấp yếu kém, lạc hậu,
cơ giới hóa chưa phát triển rộng khắp, người nông dân lao động nặng nhọc,
thủ công còn phổ biến. Các cơ sở chế biến, bảo quản nông sản mặc dù bước
đầu được trang bị công nghệ hiện đại nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu.
Năm là, quan hệ sản xuất trong nông thôn còn nhiều bất cập chưa thúc
đẩy trình độ sản xuất phát triển, kinh tế hộ là lực lượng chủ yếu lại phân tán,
ít khả năng đầu tư sản xuất quy mô lớn, các chủ trang trại chưa mạnh dạn
đầu tư phát triển dài hạn. Việc chuyển đổi HTX nhiều địa phương còn hình
thức, hoạt động kém hiệu quả, nông trường và các DNNN chưa phát huy vai
trò chủ đạo trong kinh tế nông nghiệp.
Sáu là, cơ cấu chuyên ngành được đào tạo, bồi dưỡng ở nông thôn mất
cân đối, số lao động được đào tạo chuyên về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi
trồng thuỷ sản thiếu. Nông dân cần cù sáng tạo nhưng chưa được đào tạo
nên bộc lộ nhiều hạn chế: chưa có kiến thức về kỹ thuật nông nghiệp, thiếu
kiến thức về kinh tế thị trường, kinh nghiệm quản lý yếu kém
Trước những khó khăn thách thức đó, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh nỗ lực
lớn, tạo những bứt phá mới trong tư duy kinh tế, kịp thời có những chủ
trương sát đúng và chỉ đạo thực hiện đồng bộ, hiệu quả nhằm thực hiện
thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế nông nghiệp thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH.
81
3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hưng Yên
Thực hiện Nghị quyết số 15 tại Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn và Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XV, Tỉnh ủy Hưng Yên ra Nghị quyết số 06-
NQ/TU của Tỉnh ủy về Đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nông
nghiệp nông thôn giai đoạn 2001-2005 với mục tiêu: phát huy sức mạnh
tổng hợp, tranh thủ thời cơ, khắc phục những yếu kém, tiếp tục đổi mới, phát
triển nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, từng
bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân, rút ngắn khoảng
cách giữa thành thị và nông thôn.
Nghị quyết đưa ra một số chỉ tiêu cụ thể: Phấn đấu đến năm 2005, cơ
cấu kinh tế nông nghiệp trong toàn tỉnh Hưng Yên đạt tỷ trọng 34% GDP của
tỉnh, tốc độ tăng trưởng nông nghiệp bình quân đạt từ 4- 4,5%/năm, giá trị thu
được trên một ha canh tác đạt 37 triệu đồng/năm, cơ cấu sản phẩm lương
thực- rau quả, cây công nghiệp- chăn nuôi đạt: 35% - 29%- 36%, nâng diện
tích cây vụ động lên 45% diện tích canh tác, cung cấp 70% giống lúa tiến bộ
cho nông dân, năng suất đạt 12,5 tấn/ha/năm, lương thực bình quân đầu người
giữ ổn định 500kg/năm, giảm hộ nghèo xuống còn 3% [150, tr.83].
Trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XV, lần thứ XVI và một
loạt Nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch của Ban Chấp hành Tỉnh uỷ, ý kiến của
Thường trực, Thường vụ Tỉnh uỷ về kinh tế nông nghiệp, đã xuyên suốt mấy
chủ trương lớn sau:
3.1.2.1. Tiếp tục phát triển mạnh nông nghiệp toàn diện lên một
trình độ mới
Chủ trương “Tiếp tục phát triển mạnh nông nghiệp toàn diện lên một
trình độ mới” lần đầu tiên được nêu ra tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Hưng Yên lần thứ XV nhiệm kỳ 2001 - 2005, ngày càng được làm sáng rõ
82
về nội hàm trong những nghị quyết sau đó. Nội dung cốt lõi của chủ trương
này là áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đưa những giống cây trồng
vật nuôi có năng suất và giá trị kinh tế cao vào sản xuất trên những vùng
chuyên canh lớn nhằm tạo ra giá trị kinh tế cao, tăng giá trị thu được trên
một 1 ha canh tác; phát triển nông nghiệp toàn diện gồm cả trồng trọt, chăn
nuôi, thuỷ sản, cây ăn quả và cây đặc sản. Khâu giống vẫn được xác định là
một khâu đột phá. Ngày 15-02-2011, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thông báo
kết luận về khoa học công nghệ - môi trường, nhấn mạnh: Về giống lúa, tiếp
tục bổ sung vào cơ cấu giống lúa của tỉnh những giống mới, ưu thế về năng
suất, sản lượng. Về cây ăn quả, bình chọn được những giống đầu dòng, nhất
là nhãn đặc sản. Về giống vật nuôi, thực hiện tốt chương trình “Nạc hóa”
đàn lợn, đảm bảo 80% đàn lợn được sinh sản bằng phương pháp thụ tinh
nhân tạo, đàn lợn ngoại và 3,4 máu ngoại chiếm 45%, quy hoạch vùng nuôi
lợn chất lượng cao để cung cấp nguyên liệu cho nhà máy thịt cấp đông, “Sin
hóa” 100% đàn bò, phát triển đàn gia cầm đạt quy mô 7,5 triệu con, khai
thác triệt để tiềm năng mặt nước, diện tích ao hồ, sông để nuôi trồng thủy
sản [151, tr.408].
Áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học, công nghệ mới phục vụ chuyển
dịch cơ cấu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, thực hiện tốt chương
trình về giống, xây dựng hệ thống sản xuất giống cây trồng theo phương
pháp khoa học, đảm bảo chất lượng và có nhãn mác. Khuyến khích các
doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đầu tư vào sản xuất, bảo quản giống,
cung ứng kịp thời 70% số lượng giống lúa tiến bộ cho nông dân, trước hết là
giống lúa, ngô, cây ăn quả và một số cây công nghiệp chủ lực. Ứng dụng
công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón và chương trình phòng trừ
dịch hại tổng hợp IPM, góp phần bảo vệ môi trường, áp dụng công nghệ tiên
tiến trong canh tác, thu hoạch, bảo quản chế biến sau thu hoạch giảm tổn
thất trong sản xuất, tăng giá trị nông sản hàng hóa.
83
3.1.2.2. Hoàn thiện quy hoạch nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo ra
vùng chuyên canh lớn; đẩy nhanh dồn điền đổi thửa tạo cơ sở để phát
triển nông nghiệp hàng hoá
Tỉnh uỷ chủ trương đẩy nhanh tốc độ dồn điền đổi thửa, tạo thuận lợi
cho đầu tư, sử dụng máy móc, áp dụng khoa học công nghệ mới, tạo ra hàng
hoá nông sản quy mô lớn. Nghị quyết số 06- NQ/TU của Tỉnh ủy đưa ra các
giải pháp, trong đó giải pháp thứ 2, 6 và thứ 7 là:
Tùy theo vùng đất, trước mắt những nơi ruộng trũng, ruộng trồng lúa
hiệu quả kinh tế thấp, lựa chọn để mỗi năm chuyển đổi khoảng 1.000 ha
sang trồng cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị và hiệu quả kinh tế cao
như: Nhãn, vải, hoặc nuôi thủy sản; triệt để khai thác vùng đất bãi để trồng
cây công nghiệp, cây dược liệu, nhanh chóng lựa chọn, gieo cấy những
giống lúa chất lượng cao để cung cấp cho các đô thị, khu công nghiệp và
xuất khẩu, mở rộng diện tích nhãn vải đã được chọn lọc lên 1 vạn ha vào
năm 2005.
Khẩn trương quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, quy hoạch nông
thôn. Xây dựng quy trình và triển khai nhanh dồn thừa đổi ruộng, khắc phục
tình trạng manh mún ruộng đất, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân tăng
cường đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất và phát
triển kinh tế trang trại, nâng cao năng suất lao động, tăng nhanh giá trị trên
một ha canh tác.
Hoàn chỉnh thủy lợi theo quy hoạch giai đoạn 2001- 2010, đẩy nhanh
chương trình kiên cố hóa kênh mương nội đồng, xây dựng mới và nâng cấp
trạm bơm tiêu, tưới theo qui hoạch. Tạo mọi điều kiện để phát huy khả năng
của các trạm cơ khí nông nghiệp và đầu tư của nông dân để cơ giới hóa trên
90% khâu làm đất, tưới tiêu chủ động cho 90% diện tích gieo trồng, đáp ứng
85% nhu cầu vận chuyển ở nông thôn bằng cơ giới, 100% diện tích lúa, cây
84
màu được phòng trừ sâu bệnh kịp thời. Chủ động cung cấp nguồn điện cho
phát triển nông nghiệp [151, tr.87].
Ngày 21-03-2001, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thống báo ý kiến về bổ
sung quy hoạch thuỷ lợi tỉnh Hưng Yên đến năm 2010, chủ trương khảo sát
lại toàn bộ hệ thống thuỷ lợi; quy hoạch thuỷ lợi đồng bộ với quy hoạch giao
thông, quy hoạch điện, quy hoạch đề, kè, cống; xây dựng quy hoạch phù hợp
với từng vùng.
Để khai thác thế lợi của từng vùng, Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 16-
NQ/TU Về khuyến khích chuyển đổi cơ cấu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp tỉnh Hưng Yên đến năm 2005. Nghị quyết xác định mục tiêu
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tích cực
chuyển đổi cơ cấu xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa quy mô
lớn, có cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phù hợp, được ứng dụng các
thành tựu, tri thức khoa học kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để tạo ra năng suất
chất lượng cao, an toàn cho nhu cầu tiêu dùng, có khả năng cạnh tranh trên
thị trường trong nước và quốc tế, từng bước nâng cao đời sống vật chất tinh
thần cho nông dân, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, phấn
đấu đến năm 2005 đạt một số mục tiêu chủ yếu sau: Giá trị sản xuất nông
nghiệp tăng bình quân từ 4 - 4,5% năm, giá trị kinh tế nông nghiệp chiếm tỷ
trọng 34% trong tổng GDP của tỉnh, cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp, cây
lương thực 35%, rau quả cây công nghiệp 29%, chăn nuôi 36%, diện tích
cây vụ đông đạt 45% diện tích canh tác, giá trị thu được trên 1ha canh tác
đạt 37 triệu đồng, tiêu thụ được 80% tổng sản phẩm hàng hóa trong nông
nghiệp và giá trị xuất khẩu chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu, nâng giá
trị hàng nông sản tiêu thụ qua chế biến từ 30-40% [152, tr.52].
Để thực hiện mục tiêu đề ra, Nghị quyết Ban Thường vụ đã đưa ra
một số chủ trương quan trọng: Nhanh chóng xây dựng những vùng chuyên
canh sản xuất nông sản nguyên liệu lớn với chất lượng cao đảm bảo vệ sinh
85
an toàn thực phẩm, đạt giá trị cao trên mỗi đơn vị diện tích. Lựa chọn được
những cây trồng, sản phẩm có ưu thế của từng vùng, từng địa phương, tổ
chức sản xuất hàng hóa theo quy hoạch của vùng gắn với thị trường. Nhanh
chóng chuyển số diện tích trồng lúa và cây lương thực kém hiệu quả trên các
vùng trũng, vùng cao khô hạn thiếu nước sang nuôi trồng thủy sản, trồng cây
ăn quả, hoa, cây cảnh, cây công nghiệp có giá trị cao hơn. Tập trung khai
thác vùng đất bãi phù sa để trồng cây công nghiệp thích hợp gắn với thị
trường như: Đậu tương, lạc, đay, dâu tằm, cây tinh dầu, dược liệu, mở rộng
diện tích trồng nhãn, vải, cam đường canh lên một vạn ha với các giống đã
được bình tuyển, chọn lọc.
Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu mùa vụ để tăng diện tích và đảm bảo thời
vụ gieo trồng cây vụ đông đạt 45% diện tích canh tác với các cây rau màu,
củ quả có giá trị kinh tế cao và xuất khẩu, tích cực chuyển đổi cơ cấu giống
lúa, nâng cao chất lượng lúa hàng hóa, bố trí sản xuất hợp lý để có diện tích
lúa đặc sản chất lượng cao từ 30-40% diện tích ở những nơi có điều kiện và
tập quán, kinh nghiệm sản xuất. Diện tích còn lại tập trung làm lúa cao sản,
áp dụng rộng rãi tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh để đạt năng suất lúa 12,5
tấn/ha cả năm vào năm 2005 [152, tr.54].
Với vùng kinh tế ven đô thị, các khu công nghiệp, thuận tiện giao
thông, tỉnh chủ trương chuyển đổi sản xuất gắn với mở rộng diện tích
chuyên canh trồng các cây rau, củ, quả, thực phẩm, hoa cây cảnh để cung
cấp cho công nghiệp chế biến và thị trường Hà Nội. Đẩy mạnh việc dồn thửa
đổi ruộng, khắc phục tình trạng ruộng đất, manh mún, tạo thuận lợi cho đầu
tư thâm canh và chuyển đổi cơ cấu sản xuất, phát triển kinh tế trang trại.
Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu từng đàn gia súc, gia cầm, theo hướng tăng
số lượng những con vật nuôi có hiệu quả kinh tế cao. Thực hiện tốt chương
trình “Nạc hóa” đàn lợn và “Sind hóa” đàn bò, phát triển chăn nuôi bò sữa
quy mô hộ để đạt số lượng 420 con vào năm 2005, phát triển đàn gia cầm
86
với các giống chất lượng cao đạt 7,5 triệu con, khai thác tối đa diện tích mặt
nước để nuôi trồng thủy sản với các giống năng suất chất lượng cao gắn với
thị trường [152, tr.55].
Để sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp trong toàn tỉnh, Tỉnh ủy ra
Quyết định số 2623/QĐ-UB phê duyệt Qui hoạch phát triển nông nghiệp
nông thôn tỉnh Hưng Yên đến năm 2010 nhằm đạt tốc độ tăng trưởng ngành
nông nghiệp giai đoạn 2001-2005 đạt 4,5%-5%/năm, giai đoạn 2005-2010
đạt 4%- 4,5%/năm. Tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế năm
2005 đạt 32%, năm 2010 đạt 24%. Giá trị sản phẩm bình quân trên 1ha đất
canh tác năm 2005 đạt 37.000.000 đồng, năm 2010 đạt 42.000.000 đồng.
Chuyển đổi 5.000 ha đất lúa sản xuất bấp bênh, kém hiệu quả sang trồng cây
ăn quả, cây hàng năm khác và nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao
hơn. Tỉnh uỷ cũng quán triệt quan điểm: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông nghiệp phải gắn liền với việc ứng dụng mạnh mẽ và rộng rãi các tiến
bộ khoa học mới, đảm bảo cho kinh tế nông nghiệp phát triển ổn định, bền
vững. Phải phù hợp với mục tiêu chương trình kế hoạch phát triển kinh tế-
xã hội của địa phương, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế nông nghiệp,
nông thôn. Việc lựa chọn cơ cấu kinh tế phải bám sát nhu cầu thị trường, có
khả năng tiêu thụ được nông sản hàng hóa; giảm tỷ trọng ngành trồng trọt,
tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi và dịch vụ, ưu tiên cho sản xuất nông sản
hàng hóa xuất khẩu [155].
Qui mô phát triển các nhóm nông sản chủ lực đến năm 2010:
Cây lương thực: Giữ ổn định mức bình quân lương thực khoảng
500kg/người/năm nhằm đảm bảo an linh lương thực trên địa bàn và hàng năm
có khoảng 200.000 tấn thóc hàng hóa chất lượng cao. Đưa diện tích lúa chất
lượng cao lên 40% và lúa cao sản còn 60% trong cơ cấu gieo trồng [155].
Nhóm cây rau thực phẩm: Diện tích gieo trồng đạt 18.000 ha (2010),
đẩy mạnh phát triển rau chất lượng cao gắn với việc hình thành vùng nguyên
87
liệu cho chế biến, xuất khẩu và phục vụ các khu công nghiệp, đô thị, chú
trọng phát triển vùng rau chuyên canh ở địa bàn ven đô, khu nông nghiệp
công nghệ cao [155].
Nhóm cây công nghiệp: Ổn định qui mô gieo trồng khoảng 12.000 ha,
tập trung phát triển trên các vùng bãi ven sông Hồng, sông Luộc và một
phần trên đất vụ đông, gắn phát triển cây công nghiệp với chế biến và xuất
khẩu [155].
Các nhóm cây hàng năm: Cây dược liệu- tinh dầu phát triển 3.000 ha,
tập trung chủ yếu trên các địa bàn truyền thống ở Khoái Châu, Yên Mỹ, Văn
Lâm, Văn Giang, hoa- cây cảnh: Bố trí 1.500 ha, tập trung chủ yếu ở Văn
Giang, Khoái Châu, Văn Lâm, Mỹ Hào, Kim Động và thị xã Hưng Yên, sản
phẩm phát triển với cơ cấu đa dạng nhằm đáp ứng với nhu cầu ngày càng
cao của các khu đô thị và hướng tới xuất khẩu [155].
Cây ăn quả lâu năm: Phát triển 10.000 ha với cơ cấu khoảng 65% là
nhãn, ngoài ra các sản phẩm vải, cam Đường canh... chiếm khoảng 30%, còn
lại là các sản phẩm khác, vùng nhãn tập trung chủ yếu ven sông Hồng, Sông
Luộc, vùng vải tập trung ở Phù Cừ, Tiên Lữ, Ân Thi cam, quýt, táo... tập
trung ở Văn Giang, Khoái Châu, Văn Lâm, Yên Mỹ [155].
Nhóm các sản phẩm chăn nuôi: Đàn lợn qui mô 700.000 con, phát
triển mạnh theo hướng nạc, sản lượng thịt thành phẩm xuất khẩu dự kiến đạt
10.000 tấn, đàn gia súc chuyển mạnh đàn bò heo hướng thịt với qui mô
43.000 con và kết hợp phát triển đàn bò sữa 2.000 con, gia cầm 10 triệu con
trong đó gà 80%. Đa dạng hóa cơ cấu giống và phương thức chăn nuôi, diện
tích nuôi thủy sản 4.500 ha, trong đó 3.000 ha nuôi cao sản, chất lượng cao,
chú trọng các sản phẩm có giá trị xuất khẩu cao như cá rô phi đơn tính, tôm
càng xanh [155].
Phát triển công nghiệp chế biến và ngành nghề nông thôn: Phát triển
công nghiệp chế biến nông sản với các sản phẩm chủ lực như: rau quả, thịt
88
gia súc- gia cầm, lương thực, tinh dầu... Hình thành các khu công nghiệp chế
biến nông sản ở T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dang_bo_tinh_hung_yen_lanh_dao_phat_trien_kinh_te_no.pdf