Luận án Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954)

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI .7

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án .7

1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã giới thiệu và

những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết.31

Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO TRANH THỦ THỰC HIỆN KHẢ NĂNG

HOÀ BÌNH TỪ THÁNG 9 - 1945 ĐẾN HẾT NĂM 1949 .34

2.1. Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo tranh thủ thực hiện khả năng hoà

bình của Đảng.34

2.2. Chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình của Đảng từ tháng 9

- 1945 đến hết năm 1949 .42

2.3. Đảng chỉ đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình từ tháng 9 - 1945

đến hết năm 1949.59

Chương 3: CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG TRANH THỦ

THỰC HIỆN CÁC KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH TỪ NĂM 1950

ĐẾN NĂM 1954 .80

3.1. Chủ trương tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình của Đảng từ năm

1950 đến năm 1954.80

3.2. Đảng chỉ đạo tranh thủ tạo khả năng hoà bình từ năm 1950 đến năm 1954.94

Chương 4: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM. 119

4.1. Nhận xét . 119

4.2. Một số kinh nghiệm . 145

KẾT LUẬN . 159

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA

TÁC GIẢ. 163

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 166

PHỤ LỤC. 179

pdf215 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 320 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng lãnh đạo tranh thủ thực hiện các khả năng hòa bình trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à Chính Phủ ta muốn kết thúc cuộc chiến tranh bằng đàm phán hoà bình không phải chỉ là để tuyên truyền đối ngoại. Chủ trương đó xuất phát từ bối cảnh quốc tế, đường lối hiện tại của phe xã hội chủ nghĩa là hoà hoãn quốc tế và trong tiền lệ, đã có nhiều cuộc chiến tranh do thương lượng hoà bình mà đi đến đình chiến. Mặc dù còn phức tạp, nhưng vấn đề Việt Nam vẫn có thể giải quyết bằng cách thương lượng hoà bình. Chủ trương của ta là “ gọn cờ hoà bình phải do tay ta nắm lấy và dương cao lên”. ếu thực dân Pháp không thực tâm, mặt nạ hoà bình giả hiệu của chúng sẽ bị bóc trần [42, tr.553]. 93 Đó chính là thiện chí, mong muốn, quan điểm, chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ ư ng đ i với Hội nghị G nev Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rõ hoà bình, độc lập hòan toàn phải đấu tranh gian khổ mới giành được. Vì thế, tháng 12-1953, Đảng nhận định: “căn cứ vào lực lượng so sánh giữa ta và địch lúc này, điều kiện thương lượng hoà bình chưa chín muồi. Ta phải đẩy mạnh kháng chiến, tiêu diệt cho thật nhiều sinh lực địch hơn nữa thì địch mới chịu nhận thương lượng để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, tôn trọng quyền tự do, độc lập của dân tộc ta” [42, tr.556]. Chủ tịch Hồ Chí Minh hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ và hiểu rõ vấn đề ngoại giao trên thế mạnh. Vì thế, đề cập đến Hội nghị Giơnevơ, ngày 27-2-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nhận định: Hội nghị Giơnevơ là một bước tiến tới làm cho tình hình thế giới và Viễn Đông bớt căng thẳng, việc đấu tranh để khôi phục hoà bình ở Việt Nam là ý nguyện của nhân dân, nhưng cần phải biết rằng chỉ có chiến thắng địch mới có thể thực hiện được hoà bình chân chính. Ngày 2-5-1954, Ban Bí thư Trung ương Đảng nhận định: “Ta không đánh giá cao Hội nghị Giơnevơ nhưng không bỏ lỡ cơ hội tranh thủ dư luận và tranh thủ Hội nghị Giơnevơ có thể bắt đầu đi đến các cuộc gặp sau” [81, tr.55]. Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị đề ra phương châm hành động là một mặt mở mặt trận đấu tranh trên bàn hội nghị để đi đến một giải pháp hoàn chỉnh đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương, đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, một mặt tích cực chỉnh đốn lực lượng, đẩy mạnh đấu tranh quân sự hỗ trợ cho đấu tranh ngoại giao. Vì: Ta kháng chiến, ta đàm phán cũng đều nhằm một mục đích giành độc lập, thống nhất thật sự cho dân tộc. Hiện nay, súng ở trên ba mặt trận bắn càng nhiều, càng trúng đích chừng nào thì trên bàn họp Giơnevơ ta càng thêm lợi thế chính trị chừng ấy. Giải quyết vấn đề theo nguyên tắc có lợi cho ta và địch có thể thừa nhận nhưng trước hết là có lợi cho ta. Giải quyết vấn đề phải có quan điểm toàn cục. Trong Hội nghị Giơnevơ ít nhất phải tranh thủ được thắng lợi chính trị [177, tr.158]. 94 Trong khi Hội nghị Giơnevơ đang diễn ra, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 6, từ ngày 15 đến 17-7-1954, phân tích tình hình và nhiệm vụ mới, nêu rõ chủ trương: Tranh lấy hoà bình không phải là một việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường kỳ, gian khổ, phức tạp, nó có những điều kiện thuận lợi cho ta là: các nước bạn ủng hộ ta, nhân dân thế giới cũng ủng hộ ta, nhân dân ta hăng hái và tin tưởng vào Đảng và Chính phủ ta. Những điều khó khăn là: Mỹ ra sức phá hoại việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, phe chủ hoà Pháp thì vẫn chưa dứt khỏi ảnh hưởng của Mỹ [114, tr.317]. Với Hội nghị Giơvevơ, Đảng chủ trương: “Phải tranh thủ một thời gian ngắn đi đến ký kết Hiệp định đình chiến với Chính phủ Mendès France. Không bỏ lỡ cơ hội tốt. Không để cho đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp lợi dụng chỗ kéo dài của Hội nghị Giơnevơ mà gây tâm lý bi quan, thất vọng và phá hoại đàm phán” [81, tr.61]. Tranh thủ thực hiện các khả năng hoà bình là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Việt Nam. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm mọi cách có thể để tránh chiến tranh. Ngay cả khi buộc phải tiến hành chiến tranh, thì quyết tâm chiến đấu đến cùng để giành thắng lợi quân sự cũng là nhằm mở ra cánh cửa thương lượng, đàm phán nếu có cơ hội, sẵn sàng nói lên thiện chí, mong muốn hòa bình với bạn bè quốc tế, nhân dân Pháp và cả với Chính phủ Pháp. Các văn kiện của Đảng nêu trên chứng tỏ sự nhận thức sắc sảo, sát thực tiễn của Đảng, sự đúng đắn trong chủ trương tranh thủ thực hiện khả năng hoà bình ở từng thời điểm cụ thể với từng sách lược, phương châm linh hoạt, phù hợp và hiệu quả. 3.2. ĐẢNG CHỈ ĐẠO TRANH THỦ TẠO KHẢ NĂNG HOÀ BÌNH TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1954 3.2.1. Tranh thủ sự công nhận, ủng hộ của quốc tế * Tranh thủ sự công nhận, ủng hộ của Trung Quốc, Liên Xô Ngay sau khi Cách mạng Trung Quốc thành công, Đảng chú trọng đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao nhân dân. Các tổ chức, đoàn thể, lao động, thanh niên, phụ nữ đã tổ chức mít tinh, gửi điện chúc mừng nhân dân và Chính phủ Trung Quốc. Ngày 5-12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện tới Chủ tịch Mao Trạch Đông 95 chúc mừng sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Tuyên bố ngày 14-1- 1950, khẳng định tính hợp pháp và chính sách đối ngoại của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tiếp đó, ngày 15-1-1950, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Công hoà tuyên bố công nhận nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và tỏ ý sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. gay sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động, bí mật đi Trung Quốc, Liên Xô nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ, tranh thủ sự viện trợ của nước bạn cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Ngày 21-1-1950, Hồ Chí Minh tới Bắc Kinh. Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Chu Ân ai và các lãnh đạo Đảng, hà nước Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo tình hình cách mạng Việt am, đường lối, chủ trương của Đảng và đề nghị Trung Quốc giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt am. ãnh đạo Trung Quốc hoàn toàn đồng tình, ủng hộ và hứa sẽ tích cực giúp đỡ cách mạng Việt Nam cả về vật chất và tinh thần. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng bày tỏ ý muốn đi iên Xô gặp Stalin để thông báo cho Chính phủ Liên Xô biết về tình hình cách mạng Việt am, đề nghị ưu Thiếu Kỳ - Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc chuyển đề nghị đó tới Stalin. ưu Thiếu Kỳ đã chuyển đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đang ở thăm iên Xô, để chuyển tới Stalin, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô. Ngày 1-2-1950, Stalin đã gửi điện cho Hồ Chí Minh qua Đại sứ Liên Xô ở Bắc Kinh A.I Shibaev, và yêu cầu (qua ưu Thiếu Kỳ) chuyển tới Hồ Chí Minh, với nội dung: Đồng chí Hồ Chí Minh. Vài ngày trước, đồng chí Mao Trạch Đông báo cho tôi biết rằng đồng chí có ý định đến thăm Mátxcơva một cách bí mật. úc đó tôi đã trả lời rằng tôi không phản đối việc thăm của đồng chí. Nếu như sau khi iên Xô đã công nhận Việt am, đồng chí không thay đổi kế hoạch đến Mátxcơva, tôi sẽ rất vui gặp đồng chí tại Mátxcơva. Filipov (Bí danh của Stalin). 96 Sau đó, bức điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đề ngày 7-2-1950, từ Chita, (một địa điểm ở Liên Xô, trên tuyến đường sắt Xibiri đi Mátxcơva) gửi Xtalin đã giải thích rõ lý do vì sao Hồ Chí Minh đi iên Xô một cách bí mật. Ngày 3-2-1950, Hồ Chí Minh từ Bắc Kinh đi tàu hoả đến Mátxcơva. Tại cuộc hội đàm với Stalin, có sự tham dự của Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh giải thích tình hình Việt Nam, Đông Dương, lý do giải tán Đảng vào cuối năm 1945, tình hình khó khăn của Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà buộc Việt Nam phải tự tìm cách để tồn tại và đi lên. Hồ Chí Minh cũng thông báo về tình hình cuộc kháng chiến của nhân dân Việt am và đề nghị Liên Xô cùng phong trào cộng sản, công nhân quốc tế giúp đỡ. Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô hiểu rõ về tình hình khó khăn của cách mạng Việt am, đồng tình với đường lối, chủ trương của cách mạng Việt Nam, hứa sẽ tích cực viện trợ mọi mặt cho cách mạng Việt am, giúp đào tạo cán bộ trên mọi lĩnh vực phục vụ cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc sau này. Stalin khẳng định: Liên Xô sẵn sàng giúp đỡ Việt Nam tất cả những gì có thể. Từ nay trở đi, đồng chí có thể tin tưởng ở sự giúp đỡ của chúng tôi chúng tôi có nhiều hàng hoá, chúng tôi sẽ chuyển tới cho các đồng chí qua Trung Quốc. hưng vì điều kiện tự nhiên trở ngại, chủ yếu Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu, chúng tôi sẽ cung cấp [38, tr.286]. Cuộc tiếp xúc của Hồ Chí Minh, Mao Trạch Đông, Stalin tháng 2-1950 là cuộc tiếp xúc đầu tiên và cũng là cuối cùng của lãnh đạo cấp cao ba nước Xô- Trung-Việt. Đây là một cuộc gặp có ý nghĩa lớn đối với cách mạng Việt Nam, mở ra bước ngoặt mới, tăng cường sức mạnh vật chất, tinh thần đối với cuộc kháng chiến của Việt Nam, nâng cao, khẳng định vị thế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 9-2-1950 nhấn mạnh: “Việc Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân sốt sắng thừa nhận và đặt bang giao với Việt Nam chứng tỏ phe dân chủ thế giới do Liên Xô lãnh đạo quyết tâm giúp đỡ Việt Nam một cách công khai và chính thức trong hàng ngũ 97 các nước dân chủ thế giới” và “Việc thừa nhận ấy là cú đau đánh vào thực dân Pháp và phe lũ bù nhìn và cũng là một cú đánh vào bọn phản động Mỹ, Anh đương mưu tính trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt - Pháp”. Thái độ của Liên Xô đối với Việt am có tác động to lớn đến các Đảng Cộng sản và công nhân ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là đối với Đảng Cộng sản Pháp. hư vậy, ngay sau Tuyên bố ngày 14-1-1950 của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 18-1-1950, Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; ngày 31-1-1950, Liên Xô tuyên bố công nhận Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và trao đổi công sứ. Tiếp sau Trung Quốc, Liên Xô là hàng loạt các nước dân chủ nhân dân tuyên bố công nhận và đặt ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Cộng hoà Dân chủ nhân dân Triều Tiên (31-1-1950); Cộng hoà Tiệp Khắc và Cộng hoà dân chủ Đức (2-2-1950); Cộng hoà nhân dân Rumani (3-2-1950); Cộng hoà nhân dân Ba Lan và Cộng hoà Hunggari (5- 2-1950); Cộng hoà Bungari (8-2-1950); Cộng hoà nhân dân Anbani (18-2-1950). Đây là thắng lợi ngoại giao to lớn của Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá về sự kiện này như sau: Mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn trên thế giới Liên Xô và Trung Quốc dân chủ và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một nước ngang hàng trong đại gia đình dân chủ thế giới. ghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800 triệu nhân dân chống đế quốc. Chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này [118, tr.423-424]. Đây là thắng lợi ngoại giao, khích lệ tinh thần, tăng cường niềm tin trong quân và dân, làm cho thế, lực cách mạng ngày thêm vững mạnh. Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam từ đây đã trở thành một bộ phận trong cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân chủ của phe xã hội chủ nghĩa. Việt Nam không còn phải chiến đấu đơn độc, đã phá được thế bị bao vây, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam bắt đầu nhận được sự viện trợ vật chất, tinh thần ngày càng to lớn của các nước đồng minh, bè bạn. Đó là thành công trong thực hiện chủ trương tranh thủ khả năng hoà bình của Đảng. 98 Kể từ khi cách mạng Trung Quốc chưa giành được thắng lợi cuối cùng, cho đến lúc Trung Quốc giành được thắng lợi, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nhận định, nhìn thấy khả năng hiện thực là Trung Quốc sẽ là cánh cửa mở ra cơ hội, là cầu nối cho Việt Nam mở rộng quan hệ với bạn bè thế giới. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn nỗ lực, không từ bỏ một cơ hội nào dù là nhỏ nhất để biến cơ hội đó thành hiện thực, tạo ra các cơ hội mới xây đắp mối quan hệ đồng minh, láng giềng tốt đẹp với Trung Quốc, Liên Xô và bạn bè thế giới. Sau chuyến thăm bí mật Trung Quốc, iên Xô đầu năm 1950 của Hồ Chí Minh, để tạo điều kiện thuận lợi nối liền cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, tiếp nhận viện trợ của các nước, Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tiến công giải phóng Cao Bằng nhằm mở rộng và kiểm soát đường biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc. Quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Liên Xô ngày một gắn bó. Từ giữa năm 1950, Việt am đã phối hợp với Quân Giải phóng Trung Quốc tiêu diệt, truy quét tàn quân Tưởng ở biên giới hai nước; lập Hội Hữu nghị Việt - Trung; Việt Nam lập sứ quán và cử Đại sứ sang Bắc Kinh (4-1951), đồng thời lập cơ quan tổng lãnh sự ở Hoa Nam và tiếp nhận Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam trên tinh thần quốc tế vô sản, coi cách mạng Việt am cũng là một bộ phận của cách mạng thế giới, coi việc giúp Việt Nam cũng chính là giúp Trung Quốc. Chủ tịch Mao Trạch Đông nói: Chúng ta lại căn cứ vào tình hình của Việt Nam quyết định tiếp tục viện trợ Việt Nam chống Pháp, bí mật cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ tài chính kinh tế cho Việt Nam, còn cử cố vấn giúp Việt Nam tác chiến và công tác. Dù là chống Mỹ viện Triều hay là viện Việt chống Pháp đều là chủ nghĩa quốc tế, chủ nghĩa yêu nước, ý nghĩa trọng đại như nhau, vẻ vang như nhau, chỉ có phương thức viện trợ mỗi nơi có khác nhau... ... Bọn xâm lược thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt am, cũng là kẻ thù của nhân dân Trung Quốc; Trung Quốc giúp Việt am đánh bại quân xâm lược thực dân Pháp, lập lại hòa bình ở Việt am, đó là Trung Quốc giúp Việt Nam. Còn Việt am đánh bại bọn xâm lược thực dân Pháp, đuổi chúng ra khỏi Việt am, biên cương phía am của Trung 99 Quốc cũng giải tỏa khỏi mối đe dọa của bọn xâm lược thực dân Pháp, đó lại là Việt Nam giúp Trung Quốc. Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt am cũng giúp Trung Quốc, là sự giúp đỡ lẫn nhau [32, tr.4-7]. Từ năm 1950, Trung Quốc đã cử đoàn cố vấn gồm 79 người sang giúp Việt Nam. Trung Quốc nhận huấn luyện, trang bị vũ khí cho một số đơn vị bộ binh và một đơn vị pháo binh, vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô cho Việt am. Đặc biệt, Trung Quốc đồng ý cho Việt am đưa Trường Lục quân sang Vân am để đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Mối quan hệ hai quốc gia có bước phát triển mới trên cơ sở hữu nghị, tin cậy lẫn nhau. iên Xô đã viện trợ cho Việt Nam một trung đoàn pháo cao xạ 37 ly, một số xe vận tải Môlôtôva và thuốc quân y, trong đó có 5 tạ thuốc ký ninh. Ngoài ra, Liên Xô cũng chủ động phối hợp với Việt Nam trong tuyên truyền, vận động quốc tế, đề cao cuộc kháng chiến của Việt Nam: phủ quyết đề nghị của chính quyền Bảo Đại gia nhập Liên hợp quốc (9-1952), tỏ ý ủng hộ Việt Nam muốn ra nhập Liên hợp Quốc; khẳng định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là đại diện hợp pháp duy nhất của nhân dân Việt am; iên Xô cũng cử nhiều phóng viên, nhà báo, quay phim vào Việt am để thúc đẩy công tác tuyên truyền quốc tế về cuộc kháng chiến chống xâm lược của Việt Nam. Tháng 5-1952, Đại sứ quán Việt Nam tại Liên Xô đi vào hoạt động. Tại Đại hội lần thứ XIX của Đảng Cộng sản Liên Xô (10-1952), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư chúc mừng Đại hội và đồng chí Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Adecbaizan đã đọc bức thư trước Đại hội. Sự kiện đó góp phần làm cho đại biểu của các Đảng Cộng sản biết thêm về Việt Nam, về cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. * Tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới Đầu năm 1950, Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ nhân dân, xã hội chủ nghĩa đã lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tạo điều kiện thuận lợi, tăng thêm sức mạnh cho cách mạng Việt Nam. Việt Nam trở thành một bộ phận của phe dân chủ, chống lại lực lượng phản động, đế quốc, tích cực tham gia nhiều hoạt động quốc tế bảo vệ hoà bình, tranh thủ 100 các diễn đàn quốc tế để tuyên truyền, vận động sự ủng hộ quốc tế đối với nguyện vọng hoà bình, độc lập và cuộc kháng chiến chính nghĩa mà nhân dân Việt Nam đang tiến hành. Ngày 4-4-1950, Việt Nam tổ chức ngày hữu nghị giữa Việt Nam với các nước dân chủ nhân dân để biểu dương, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, cổ vũ tinh thần chiến đấu của quân, dân cả nước. Ban trù bị của Uỷ ban bảo vệ hoà bình thế giới của Việt Nam thành lập (6-1950) để chuẩn bị tổ chức Đại hội bảo vệ hoà bình thế giới ở Việt Nam. Ngày 16-11-1950, Việt am đã cử đoàn đại biểu đi dự Đại hội hoà bình thế giới lần thứ II ở Vácsava. Đại hội đã ra nghị quyết đòi chủ nghĩa đế quốc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược Triều Tiên, Việt Nam; Tích cực chuẩn bị tham dự Hội nghị Hội đồng hoà bình thế giới lần thứ 2 ở Viên, Áo (11- 1951), tuyên truyền rộng rãi quan điểm của phái đoàn dự Hội nghị trên các phương tiện báo, đài phát thanh để nhân dân hiểu chủ trương của Đảng, Chính phủ, tình hình thế giới tác động tới Việt Nam, tuyệt đối không ảo tưởng hoà bình vì đây không phải là một việc dễ dàng, mà phải do đấu tranh gian khổ mới giành được. Nhân dân Việt Nam phải vượt mọi khó khăn, tự lực cánh sinh để kháng chiến, nhưng cũng cần sự ủng hộ mạnh mẽ của bạn bè thế giới, nhân dân Pháp, các nước xã hội chủ nghĩa ( iên Xô, Trung Quốc) nhiệt tình giúp đỡ để kháng chiến mau đến thắng lợi cuối cùng. Hội nghị đã thông qua nghị quyết đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút quân đội nước ngoài ra khỏi Việt Nam và mở ngay các cuộc đàm phán để giải quyết vấn đề Việt Nam; Tham dự Hội nghị Châu Á- Thái Bình Dương vì hoà bình (10-1952) tại Bắc Kinh, đoàn đại biểu Việt am đã đóng góp tích cực vào phương hướng đấu tranh mới, khẳng định đấu tranh cho độc lập dân tộc là một nội dung quan trọng của sự nghiệp gìn giữ, củng cố nền hoà bình thế giới. Hội nghị lên án mạnh mẽ cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc, đòi chấm dứt ngay chiến tranh xâm lược ở Triều Tiên và ba nước Đông Dương Bên cạnh đó, Việt am cũng năng động, tích cực tham gia các hoạt động của các tổ chức dân chủ thế giới, trong phong trào thanh niên, phụ nữ dân chủ, tổ chức Liên hiệp công đoàn thế giới: Đại hội liên hoan thanh niên ở Béc lin (Đức, 1951), Hội nghị Liên hiệp công đoàn thế giới ở Vacsava (Ba an, 1951), Đại hội Liên hoan 101 thanh niên ở Bucarét (Rumani, 1953) ; cổ vũ, ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân Triều Tiên, lên án hành động xâm lược của đế quốc Mỹ Việc tiếp xúc, trao đổi, tích cực tham gia vào phong trào vì hoà bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ trên thế giới đã làm cho vị trí quốc tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được đề cao, làm rõ tính chính nghĩa cuộc kháng chiến, tranh thủ được sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế, các tầng lớp nhân dân ở nhiều quốc gia khác nhau trong và ngoài hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, tăng cường sức mạnh, thực lực của cách mạng. Đó là kết quả của việc Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức đúng xu thế phát triển của thời đại, biết tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi, phát huy tính chính nghĩa, gắn cuộc kháng chiến của Việt Nam với quốc tế. Sự ủng hộ rộng rãi, mạnh mẽ của nhân dân các nước đối với Việt Nam là thành công trong thực hiện chủ trương tranh thủ các khả năng hoà bình của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh. * Tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân Pháp Đảng, Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng việc phối hợp đấu tranh với nhân dân Pháp, coi sự đấu tranh của nhân dân Pháp vì hoà bình, dân chủ, phản đối chính quyền Pháp gây chiến tranh ở Việt am, Đông Dương, đòi Pháp rút quân về nước là nhân tố quan trọng thúc đẩy việc thương lượng đình chiến, mở ra khả năng hoà bình ở Đông Dương. Việt am đã không ngừng nỗ lực để khơi dậy và duy trì phong trào phản chiến của nhân dân Pháp nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của họ. Ngày 27-1-1950, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Pháp ra Nghị quyết khẳng định Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là người đại diện hợp pháp và chân chính của nhân dân Việt Nam; tố cáo thực dân Pháp dựng lên một chế độ bù nhìn. Đồng thời, Đảng Cộng sản Pháp cũng ra tuyên bố hoan nghênh Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân công nhận Việt am, coi đó là sự thể hiện chính sách tôn trọng nguyện vọng chính đáng của các dân tộc đòi tự do và độc lập. Tháng 7-1950, Đảng Cộng sản Pháp cử Léo Figuerre, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, Tổng Thư ký Đoàn thanh niên Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc hội Pháp, Phó Chủ tịch iên đoàn Thanh niên dân chủ thế giới, thay mặt phong trào đấu tranh vì hoà bình ở Việt Nam của Pháp sang thăm, tìm hiểu tình hình Việt Nam. 102 Việt am đã tổ chức tiếp đón chu đáo, thân tình. éo Figuerre đã thăm vùng giải phóng Việt Bắc, gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, đi thăm nhiều cơ sở kháng chiến, hậu cần, thăm các trại tù binh Âu-Phi, gặp gỡ, chuyện trò với nhiều lính Pháp bị bắt giữ Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi lời cám ơn tới nhân dân Pháp đã ủng hộ Việt am, đồng thời nêu ra điều kiện chủ yếu để lập lại hoà bình ở Việt am: “quân đội Pháp rút hết quân về nước, mối bang giao hai nước Việt - Pháp sau này sẽ phát triển trên cơ sở “hợp tác trên lập trường bình đẳng”. Bên cạnh đó, Việt Nam còn thể hiện thiện chí hoà bình qua việc chủ động đề ra chính sách đối với tù binh Pháp, thả 228 tù binh Pháp (gồm cả lính Bắc Phi và một số thường dân Pháp đang bị giam giữ, toàn bộ danh sách giao cho Léo Figuerre mang về Pháp) [110, tr.176-177]. Ngày 20-8-1950, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đàm phán với Hội Hồng thập tự Pháp để trao đổi tù binh và thường dân bị bắt. Chuyến thăm của Léo Figuerre tới Việt am có ý nghĩa lớn trong việc thúc đẩy phong trào đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam của nhân dân Pháp. Đặc biệt, cuốn sách ông viết với tựa đề “Tôi từ nước Việt Nam tự do trở về” đã góp phần làm cho nhân dân và một bộ phận chính giới Pháp hiểu hơn về bản chất cuộc chiến tranh phi nghĩa mà thực dân Pháp, can thiệp Mỹ đang tiến hành ở Việt Nam, hiểu về sự nghiệp chính nghĩa, mong muốn, thiện chí hoà bình của nhân dân Việt Nam. Tiếp theo, ngày 11-11-1950, Tổng iên đoàn ao động, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Liên hiệp thanh niên Pháp ra thông cáo chung khẳng định các đoàn thể Pháp sẵn sàng làm trung gian cho cuộc đàm phán hoà bình kết thúc chiến tranh giữa Pháp và Việt am và “Chính phủ Pháp phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đổ máu nếu cứ khăng khăng tiếp tục cuộc chiến tranh vô nhân đạo chống lại quyền lợi của nước Pháp” [110, tr.179]. Cùng với đó, chính giới Pháp cũng phân hoá ngày càng mạnh mẽ trong việc lựa chọn giải pháp đối với cuộc chiến ở Việt Nam, những người trong phái dân chủ xã hội Pháp liên kết, phối hợp chặt chẽ hơn với phái cộng sản trong Quốc hội Pháp đòi chấm dứt chiến tranh. Từ 1951 đến 1954, phong trào phản đối chiến tranh của các tầng lớp nhân dân Pháp ngày càng rộng rãi và quyết liệt. Tờ “Thế giới” (Le Monde) của Pháp, ngày 15-3-1952 khẳng định: “Cuộc chiến tranh Đông Dương đã làm kiệt sức lực chúng ta liều thuốc chữa bệnh là 103 ngừng cuộc chiến tranh ở Đông Dương để cứu nước Pháp” [110, tr.180]. Ngày 23- 11-1952, Đảng Cộng sản Pháp ra tuyên bố: “chính sách duy nhất phù hợp với quyền lợi của nước Pháp là lập lại hoà bình bằng cách công nhận nguyện vọng chính đáng đòi tự do, độc lập của nhân dân Việt am đang đoàn kết xung quanh Chủ tịch Hồ Chí Minh” [110, tr.181]. Ngày 27, 28-6-1953, tại Pari đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc nước Pháp gồm 1.870 đại biểu của các tầng lớp nhân dân thuộc 80 quận tham dự đấu tranh cho hoà bình ở Việt Nam - Đông Dương, đòi đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Các hoạt động họp mặt, mít tinh, hội thảo ủng hộ Việt Nam, phản đối chiến tranh liên tục diễn ra ở khắp nơi trên đất Pháp. Những hành động phản đối chiến tranh của Henri Martin, Raymond Dien là những minh chứng tiêu biểu của phong trào nhân dân Pháp đấu tranh đòi chấm dứt “cuộc chiến tranh bẩn thỉu” ở Việt Nam. Từ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực thúc đẩy, tranh thủ tình cảm, sự ủng hộ của nhân dân Pháp: Trong Thư gửi các bà mẹ và vợ có con và chồng chết trận ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảm ơn các bà mẹ, vợ Pháp đã hăng hái đấu tranh trong hàng ngũ các bà mẹ và vợ Pháp đòi hồi hương đạo quân viễn chinh và chấm dứt cuộc chiến tranh phi nghĩa, tội lỗi do thực dân Pháp gây ra. Chủ tịch hứa với các bà mẹ Pháp, nhân dân Việt Nam sẽ giữ gìn nguyên vẹn mồ mả của các binh sĩ đã phải bỏ mình trong chiến tranh Việt am, để khi chiến tranh chấm dứt, các bà mẹ có thể mang hài cốt của chồng, con mình về. Trong Thư gửi những ngư i bạn Pháp là những binh lính, hạ sĩ quan, sĩ quan Pháp ở Đông Dương về nước đã thành lập tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình, đòi hồi hương các bạn đồng ngũ đang buộc phải tham gia cuộc chiến ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: Nhân dân Việt Nam rất biết ơn những cố gắng của các bạn, cũng như biết ơ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_dang_lanh_dao_tranh_thu_thuc_hien_cac_kha_nang_hoa_b.pdf
Tài liệu liên quan