MỞ ĐẦU. 1
CHƯƠNG 1. 7
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT . 7
VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 7
1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước. 7
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. 14
1.3. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu . 24
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1. 28
CHƯƠNG 2. 29
LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN. 29
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM . 29
2.1. Khái niệm và những thành tố cơ bản của địa vị pháp lý Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm. 29
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm thủ tục sơ thẩm vụ án dân sự . 29
2.2. Các yếu tố thể hiện địa vị pháp lý Thẩm phán trong giải quyết vụ án dân
sự sơ thẩm. 43
2.3. Mối liên hệ giữa địa vị pháp lý của Thẩm phán với các chủ thể khác khi
giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm. 51
2.4. Sơ lược hình thành, phát triển địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải
quyết vụ án dân sự sơ thẩm. 64
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2. 68
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN
TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM . 69
3.1. Thực trạng quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải
quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm. 69
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong giải
quyết vụ án dân sự sơ thẩm . 104
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3. 123
CHƯƠNG 4. 124
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT. 124
VÀ NÂNG CAO ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA THẨM PHÁN TRONG
GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DÂN SỰ SƠ THẨM . 124
4.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong
giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm . 124
162 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Địa vị pháp lý của thẩm phán trong giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sát cùng
cấp về việc Tòa án đã thụ lý vụ án. Đối với vụ án do người tiêu dùng khởi kiện thì
Tòa án phải niêm yết công khai tại trụ sở Tòa án thông tin về việc thụ lý vụ án trong
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án. Trên cơ sở báo cáo thụ lý vụ án
của Thẩm phán được phân công thụ lý vụ án, Chánh án Tòa án quyết định phân
công Thẩm phán giải quyết vụ án bảo đảm nguyên tắc vô tư, khách quan, ngẫu
nhiên. Như vậy, Thẩm phán được phân công xem xét đơn khởi kiện xem xét thụ lý
vụ án và ban hành thông báo thụ lý. Đây là quy định mới của BLTTDS năm 2015.
Đối với vụ án phức tạp, việc giải quyết có thể phải kéo dài thì Chánh án Tòa án
phân công Thẩm phán dự khuyết để bảo đảm xét xử đúng thời hạn theo quy định
của BLTTDS. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hiện hành chưa quy định cụ thể nhiệm
vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán dự khuyết trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử. Vai trò của Thẩm phán dự khuyết tham gia việc xây dựng hồ sơ vụ án như
thế nào để đảm bảo tính nhất quán khi thực hiện việc thay đổi Thẩm phán.
Như vậy, thông qua hoạt động thụ lý vụ án có thể xác định được đương sự
trong vụ án, quan hệ tranh chấp, những tài liệu của người khởi kiện kèm theo đơn
khởi kiện, Tòa án sẽ giải quyết và xác định Thẩm phán nào là người sẽ giải quyết.
Tuy nhiên, với việc quy định Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện có thể không phải
là Thẩm phán giải quyết vụ án có thể dẫn đến tình trạng không thống nhất về quan
điểm giữa hai Thẩm phán về các nội dung như đơn khởi kiện đã đầy đủ chưa? Đã
71
đủ tài liệu kèm theo đơn khởi kiện chưa? Có thuộc thẩm quyền hay không Nhiều
vụ án, Thẩm phán sau được phân công giải quyết đã ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án, hoặc chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền khác, dẫn đến những
phản ứng tiêu cực và mất niềm tin của đương sự đối với Tòa án.
Theo quy định tại Điều 47 BLTTDS năm 2015, Chánh án Tòa án có quyền ra
quyết định phân công Thẩm phán thụ lý vụ dân sự. Thẩm phán không thể tùy tiện
trong việc nhận hay từ chối việc giải quyết vụ việc đã được Chánh án phân công.
Thẩm phán từ chối việc giải quyết vụ việc được phân công mà không có căn cứ theo
quy định tại Điều 52, Điều 53 BLTTDS sẽ bị coi là không hoàn thành nhiệm vụ.
Ngược lại, Điều 52 và Điều 53 BLTTDS quy định những trường hợp khi tiến hành tố
tụng, Thẩm phán phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi. Mục đích của quy
định nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc được vô tư, khách quan và để Thẩm
phán không bị chi phối bởi các tác động bên ngoài như quan hệ gia đình, hành chính,
kinh tế.... Trong trường hợp Thẩm phán thuộc một trong các trường hợp theo quy định
tại Điều 52 và Điều 53 BLTTDS mà vẫn tiến hành tố tụng và giải quyết vụ án, thì việc
giải quyết vụ án là vi phạm nghiêm trọng thủ tục TTDS, vụ án sẽ bị xem xét hủy và
giải quyết lại.
BLTTDS Liên bang Nga cũng quy định tại Điều 16“những căn cứ thay đổi
Thẩm phán” và Điều 17“Thẩm phán không được tham gia xét xử lại trong cùng
một vụ án”, những căn cứ để Thẩm phán từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi
tương đối giống TTDS Việt Nam. Tuy nhiên, thủ tục thay đổi Thẩm phán của
TTDS Liên bang Nga khác Việt Nam. BLTTDS Liên bang Nga xác định nếu có đề
nghị thay đổi Thẩm phán mà vụ án do một Thẩm phán giải quyết thì do chính Thẩm
phán đó quyết định. Nếu vụ án được giải quyết theo chế độ tập thể thì do những
Thẩm phán khác trong HĐXX quyết định và Thẩm phán bị đề nghị thay đổi không
có quyền biểu quyết.
Việc Thẩm phán từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi cũng được quy định
trong BLTTDS cộng hòa Pháp. Ngoài những căn cứ thay đổi Thẩm phán quy định
tại Điều 341, Thẩm phán thấy “trong tâm nhận thức mình cần từ chối tiến thành tố
tụng sẽ đề nghị Chánh án chỉ định một Thẩm phán khác trong Tòa thay thế mình
tiến hành tố tụng”. Tuy nhiên, để đương sự ý thức được trách nhiệm trong việc yêu
cầu thay đổi Thẩm phán, tại Điều 353 quy định nếu yêu cầu thay đổi Thẩm phán
72
không được chấp nhận thì người yêu cầu có thể bị phạt một khoản tiền và bồi
thường thiệt hại nếu có.
Ngoài ra, khi xem xét đơn khởi kiện, Thẩm phán phải xem xét quyết định áp
dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có yêu cầu. Thủ tục áp dụng
BPKCTT được thực hiện khi có người yêu cầu Tòa án có thẩm quyền áp dụng
BPKCTT, tuỳ theo yêu cầu áp dụng BPKCTT mà người yêu cầu phải cung cấp cho
Tòa án chứng cứ để chứng minh cho sự cần thiết phải áp dụng BPKCTT đó. Thông
thường Thẩm phán chỉ xem xét nội dung vụ án và giải quyết các yêu cầu của đương
sự sau khi đã thụ lý vụ án. Vì sau khi thụ lý mới xác định được Tòa án có thẩm
quyền giải quyết, yêu cầu khởi kiện là gì, Thẩm phán có thẩm quyền giải quyết là
ai. Tuy nhiên do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu
quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng BPKCTT quy định tại Điều 114 của
BLTTDS, đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó. Việc áp dụng quyết
định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ BPKCTT tại giai đoạn xử lý đơn khởi kiện phải đảm
bảo đơn khởi kiện vụ án phải thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án được đề nghị
về thẩm quyền theo vụ việc, theo lãnh thổ và theo cấp xét xử. Kèm theo đơn khởi
kiện, người khởi kiện phải nộp đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và các tài liệu chứng
cứ để áp dụng. Thẩm quyền áp dụng BPKCTT tại thời điểm xem xét đơn khởi kiện
do Thẩm phán quyết định trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu
cầu. Nếu không chấp nhận yêu cầu, Thẩm phán phải thông báo bằng văn bản và nêu
rõ lý do cho người yêu cầu.
3.1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
vụ án dân sự sơ thẩm
Một là, xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác; xác định
quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp luật cần áp dụng
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có nhiệm vụ xác định tư cách
đương sự, người tham gia tố tụng khác. Đương sự trong vụ án dân sự gồm: Nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự (người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập ; người tham gia tố tụng khác có thể là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch
73
Việc xác định tư cách đương sự trong vụ án có ý nghĩa quan trọng để giải quyết
quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Nếu Thẩm phán đưa thiếu đương sự hoặc xác định sai
tư cách đương sự trong vụ án sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của họ dẫn đến vụ án có
thể bị hủy để giải quyết lại. Do đó, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán cần
nghiên cứu nội dung vụ án để xác định và đưa đầy đủ đương sự, người tham gia tố
tụng nhằm giải quyết vụ án đúng quy định và triệt để.
Ngoài ra, trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán cần nghiên cứu lại hồ
sơ vụ án sau khi thụ lý, kết hợp với các tài liệu chứng cứ mới thu thập để xác định
lại quan hệ tranh chấp. Trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán xét
thấy quan hệ tranh chấp không phải là quan hệ tranh chấp khi thụ lý vụ án thì cần có
thông báo thay đổi. Nếu quan hệ tranh chấp dẫn đến không thuộc thẩm quyền của
Tòa án mình thì tùy từng trường hợp có thể chuyển thẩm quyền hoặc đình chỉ giải
quyết vụ án. Thông qua việc xác định quan hệ tranh chấp, Thẩm phán có thể xác
định những nội dung cần làm rõ, đối tượng cần giải quyết, những đương sự nào có
liên quan và đặc biệt là luật nội dung nào được áp dụng.
Hai là, lập hồ sơ vụ án dân sự; tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, tổ
chức phiên tòa, phiên họp để giải quyết
Quá trình lập hồ sơ vụ án của Thẩm phán có vai trò quyết định trong việc giải
quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Mọi hoạt động tố tụng của Thẩm phán đều
phải thực hiện theo quy định, nếu vi phạm có thể dẫn đến tất cả hoạt động tố tụng
khác trong giai đoạn sơ thẩm không có giá trị (vi phạm nghiêm trọng . Hoạt động lập
hồ sơ vụ án của Thẩm phán được xác định cụ thể thông qua các tài liệu, chứng cứ.
Căn cứ vào quan hệ tranh chấp, Thẩm phán phải thực hiện các hoạt động thu thập
chứng cứ khác nhau. Pháp luật tố tụng chỉ quy định mang tính chất chung, không quy
định bắt buộc mỗi vụ án phải thực hiện hoạt động thu thập chứng cứ như thế nào. Tuy
nhiên, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong hoạt động lập hồ sơ giải quyết vụ
án dân sự theo thủ tục sơ thẩm phải bảo đảm các nội dung theo Điều 198 BLTTDS
như sau:
Thứ nhất, lập hồ sơ vụ án: Hoạt động lập hồ sơ vụ án dân sự của Thẩm phán
là hoạt động thu thập tài liệu chứng cứ, ban hành các văn bản, quyết định tố tụng
nhằm giải quyết vụ án phù hợp về tố tụng và chính xác về nội dung. Việc xây dựng
hồ sơ vụ án của Thẩm phán phải bảo đảm theo quy định tại Điều 204 BLTTDS, cụ
74
thể: Hồ sơ vụ án dân sự bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của đương sự,
người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập liên quan đến vụ
án; văn bản tố tụng của Tòa án, Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án dân sự. Các
giấy tờ, tài liệu trong hồ sơ vụ án dân sự phải được đánh số bút lục, sắp xếp theo thứ
tự ngày, tháng, năm. Giấy tờ, tài liệu có trước thì để ở dưới, giấy tờ, tài liệu có sau
thì để ở trên và phải được quản lý, lưu giữ, sử dụng theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, yêu cầu đương sự nộp tài liệu, chứng cứ cho Toà án: Ngay từ khi
khởi kiện, người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện những tài liệu chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và phù hợp pháp
luật. Cũng như vậy, trong suốt quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự, các bên
đương sự có quyền và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án. Trường hợp tài liệu,
chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải quyết vụ việc thì Thẩm
phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ. Nếu đương sự không
giao nộp hoặc giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà
không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã
giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định để giải quyết vụ việc dân sự.
Kế thừa tinh thần của BLTTDS năm 2004, các quy định của BLTTDS năm
2015 cũng xác định việc chứng minh do các đương sự thực hiện. Trong quá trình
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm, Thẩm phán có nhiệm vụ giải thích cho
đương sự biết, nếu đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không
đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ, thì Tòa án tiến hành giải
quyết vụ việc dân sự theo thủ tục chung. Đương sự phải chịu hậu quả của việc
không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy đủ.
Thứ ba, Thẩm phán thực hiện một số biện pháp để thu thập chứng cứ theo
quy định tại khoản 2, 3 Điều 97 BLTTDS: Việc áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ khác phụ thuộc vào từng vụ án và từng loại vụ án. Đồng thời không phải
tất cả các biện pháp thu thập chứng cứ đều do Thẩm phán chủ động tiến hành, như
việc định giá tài sản, trưng cầu giám địnhcác biện pháp đó phải được một trong
các bên đương sự yêu cầu. Như vậy, bên cạnh quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
thuộc về các đương sự, Thẩm phán cũng có nhiệm vụ, quyền hạn thu thập chứng cứ
nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác, khách quan. Cụ
thể, Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp để thu thập tài liệu
75
chứng cứ như lấy lời khai của đương sự, người làm chứng; đối chất giữa các đương
sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng; trưng cầu giám định; định giá
tài sản; xem xét, thẩm định tại chỗ; ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ;
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự; xác minh sự có mặt
hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú. Về bản chất, vụ án dân sự là tranh chấp
giữa các bên đương sự và các bên phải có nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, phù hợp với nguyên tắc mà BLTTDS quy định là
“đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho Tòa án
và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp” [40]. Tuy nhiên,
với bản chất của Nhà nước XHCN, Tòa án là cơ quan duy nhất được Hiến pháp quy
định thực hiện quyền tư pháp có trách nhiệm bảo vệ công lý, quyền công dân, phù
hợp với điều kiện của nước ta khi trình độ nhận thức của người dân còn hạn chế;
việc cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức chưa đảm bảo. Do đó, song
song với nghĩa vụ của đương sự, BLTTDS cũng quy định Tòa án có nghĩa vụ hỗ trợ
đương sự trong việc thu thập, tài liệu chứng cứ để xác định sự thật khách quan của
vụ án. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, nước ta
đang hội nhập ngày càng sâu rộng trong các quan hệ quốc tế; trình độ nhận thức của
đương sự dần được nâng cao thông qua nhiều kênh thông tin, đặc biệt là Internet, thì
BLTTDS cần có sự thay đổi để TTDS trở về đúng nghĩa của nó, theo đó Tòa án chỉ
là cơ quan phân xử đúng sai, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ là của đương sự.
Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong việc thu thập chứng
cứ và xây dựng hồ sơ vụ án theo BLTTDS Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với
BLTTDS Liên bang Nga (Điều 150 , ngoài việc quy định nghĩa vụ chứng minh
thuộc về đương sự, nhưng trách nhiệm của Thẩm phán vẫn rất nặng nề trong việc
thu thập chứng cứ và chứng minh giải quyết vụ án.
Pháp luật TTDS Hoa Kỳ có nhiều điểm khác với pháp luật TTDS Việt Nam.
Pháp luật TTDS Hoa Kỳ quy định các đương sự phải tự tìm kiếm, thu thập mọi
chứng cứ cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình. Trong trường hợp Thẩm phán
thấy rằng chứng cứ mà các đương sự xuất trình chưa đầy đủ, để giải quyết vụ việc
thì Thẩm phán yêu cầu các bên đương sự cung cấp thêm chứng cứ. Thẩm phán
không bao giờ tự mình thu thập chứng cứ [11]. Như vậy, khác với pháp luật TTDS
76
Hoa Kỳ, pháp luật TTDS Việt Nam xác định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương
sự, nhưng việc xem xét và đánh giá chứng cứ do Thẩm phán thực hiện. Hơn nữa,
pháp luật quy định thời điểm đương sự phải cung cấp chứng cứ không cụ thể, mà do
Thẩm phán quyết định nhưng không vượt quá thời hạn chuẩn bị xét xử.
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung biện pháp thu thập chứng cứ là “xác minh sự
có mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú”. Đây là biện pháp để Thẩm phán
xác định tính chính xác của việc thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết và là căn cứ
xác định đương sự có che dấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ hay không. BLTTDS năm
2015 bỏ quy định Thẩm phán có quyền “yêu cầu thẩm định giá tài sản”. Việc yêu
cầu thẩm định giá tài sản là quyền của các đương sự thỏa thuận lựa chọn tổ chức
thẩm định giá tài sản, để thực hiện việc thẩm định giá và cung cấp kết quả thẩm
định giá cho Thẩm phán. Kết quả thẩm định giá là nguồn chứng cứ để Thẩm phán
xem xét giải quyết vụ án. Như vậy, yêu cầu thẩm định giá tài sản không phải là biện
pháp thu thập chứng cứ. Mặc dù BLTTDS năm 2015 đã quy định và khắc phục một
số tồn tại, vướng mắc trong quá trình Thẩm phán thực hiện việc thu thập chứng cứ.
Tuy nhiên, vẫn còn những quy định chưa phù hợp và cụ thể, ảnh hưởng đến việc
chứng minh của đương sự và thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán, cụ thể
như sau:
- Về xem xét, thẩm định tại chỗ: Điều 101 BLTTDS quy định về xem xét,
thẩm định tại chỗ để xác định tài sản tranh chấp, những tài sản có liên quan là cơ sở
cho việc định giá tài sản tiếp theo. Trong nhiều trường hợp, Thẩm phán không xem
xét thẩm định tại chỗ và quyết định định giá tài sản chỉ trên sự liệt kê tài sản của
đương sự, khi tiến hành định giá thì phát sinh những tài sản khác có liên quan (Ví
dụ: Định giá quyền sử dụng đất, trên đất có cây, có các công trình khác mà trong
quyết định định giá tài sản không có. Hội đồng định giá không thể định giá tài sản
phát sinh được vì tài sản đó chưa có trong quyết định định giá. Việc định giá lại
phải làm lại từ đầu, gây tốn kém và kéo dài thời gian tố tụng. Vì vậy, việc xem xét
thẩm định tại chỗ là bước quan trọng để Thẩm phán cùng đương sự xác định những
tài sản tranh chấp, những tài sản nào có liên quan.
Việc xem xét thẩm định tại chỗ còn có ý nghĩa là cơ sở để Thẩm phán
(HĐXX quyết định giải quyết vụ án, đặc biệt khi giải quyết tranh chấp nhà đất nếu
chỉ nhìn trên sơ đồ, bản vẽ do đương sự cung cấp, không trực tiếp xem xét, thẩm định
77
tại chỗ sẽ dẫn đến sai sót khi quyết định. Thực tế việc giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm
liên quan đến tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp mốc giới còn có
nhiều khó khăn, vướng mắc liên quan đến xác định vị trí tranh chấp, xác định phần
của mỗi đương sự được hưởng trong quyết định và sơ đồ kèm theo quyết định. Ngoài
ra, đối với các vụ án có nhiều nhà, công trình, nhiều bất động sản trên đất, việc xem
xét thẩm định tại chỗ do Thẩm phán và đại diện UBND cấp xã (hoặc cơ quan tổ chức
nơi có tài sản thực hiện sẽ không bảo đảm sự chính xác. Nếu Thẩm phán căn cứ vào
kết quả xem xét thẩm định đó để quyết định chia từng phần tài sản sẽ không bảo đảm
cho việc thi hành án. Chính vì vậy, BLTTDS cần quy định việc xem xét thẩm định tại
chỗ có thể có sự tham gia của các cơ quan chuyên môn khác. Đồng thời việc xem xét
thẩm định “được ghi thành biên bản” là chưa đầy đủ, có những trường hợp phải thẩm
định, đo vẽ thực hiện bằng máy đo hoặc hình ảnh, video để có thể đưa ra được kết
quả chính xác.
- Về “định giá tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 97 và khoản 3
Điều 104 BLTTDS. Tòa án ra quyết định định giá tài sản theo yêu cầu của một bên
hoặc các bên đương sự. Tuy nhiên, nếu đương sự không yêu cầu định giá tài sản thì
Thẩm phán giải quyết như thế nào? Đây là khó khăn thực tế mà các Thẩm phán gặp
phải và dẫn đến mỗi Thẩm phán có những cách giải quyết khác nhau, như ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử hoặc tiến hành
mở phiên tòa và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện vì thiếu căn cứ, yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền xác định giá hoặc tự Tòa án ra quyết định định giá tài sản và trả
chi phí. Vì vậy, BLTTDS cần phải trao cho Thẩm phán có quyền chủ động ra quyết
định định giá tài sản, không cần yêu cầu của đương sự, vì kết quả định giá là chứng
cứ quan trọng mà đương sự không thể tự mình cung cấp được. Về chi phí định giá
có thể giải quyết theo hướng, khi thụ lý vụ án, yêu cầu người khởi kiện nộp một
khoản tiền để tạm ứng chi phí định giá.
Một khó khăn nữa trong quá trình định giá tài sản là việc đương sự gây khó
khăn bằng việc không hợp tác (như không giao tài sản, không mở cửa cho vào định
giá nhà, thiết bị, [26] với Hội đồng định giá, mà hành vi đó không phải là cản trở
mà chỉ là không hợp tác, dẫn đến không thể xác định được giá. Theo quy định tại
khoản 6 Điều 489 BLTTDS và Thông tư số 15/2003/TT-BCA ngày 10/9/2003 của
Bộ Công an về hướng dẫn hoạt động hỗ trợ tư pháp, thì hành vi không hợp tác
78
không phải là hành vi cản trở. Do vậy, BLTTDS cần mở rộng quy định cho Thẩm
phán có quyền xử phạt và cưỡng chế việc định giá tài sản đối với trường hợp không
hợp tác để việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh chóng.
Tại khoản 5 Điều 70 BLTTDS quy định các đương sự phải có nghĩa vụ
“cung cấp tài liệu, chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình”. Tuy nhiên, BLTTDS chưa quy định trường hợp một bên đương sự có quyền
yêu cầu bên đương sự kia đang quản lý chứng cứ, phải xuất trình cho Tòa án. Tại
Điều 106 BLTTDS chỉ quy định “Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp
chứng cứ”, chưa có quy định “yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ”. Do đó, có
nhiều vụ án mặc dù một bên đương sự có đơn đề nghị Tòa án buộc bên kia phải
xuất trình tài liệu, chứng cứ, nhưng Tòa án không có căn cứ để ban hành quyết định.
Hiện nay, pháp luật đã trao cho Thẩm phán có quyền quyết định về thời hạn
giao nộp tài liệu, chứng cứ của đương sự, nhưng lại không có các chế tài trong
trường hợp đương sự không cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án.
Dẫn đến vụ án kéo dài gây tốn kém thời gian và chi phí tố tụng. Trong khi đó, nghĩa
vụ trong trường hợp đương sự không cung cấp chứng cứ, Điều 57 BLTTDS liên
bang Nga xác định người không cung cấp theo yêu cầu của Tòa án có thể bị phạt
tiền; BLTTDS Nước cộng hòa Pháp xác định tại Điều 11 “Thẩm phán có thể ra lệnh
cho họ (đương sự) cung cấp yếu tố cấu thành chứng cứ đó, trong trường hợp cần
thiết có thể áp dụng biện pháp phạt tiền để cưỡng chế” [35]; pháp luật TTDS Hoa
Kỳ xác định nếu một bên từ chối không cung cấp chứng cứ hoặc không trả lời về
vấn đề nào đó thì Thẩm phán sẽ ban hành lệnh buộc người từ chối phải cung cấp
chứng cứ hoặc áp dụng các biện pháp chế tài cần thiết [11].
Ba là, đề nghị Chánh án Tòa án phân công Thẩm tra viên hỗ trợ thực hiện
hoạt động tố tụng: Điều 50 BLTTDS năm 2015 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn
của Thẩm tra viên. Đây là quy định mới so với các BLTTDS trước đó, cụ thể hóa
quy định tại Điều 93 Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Trong quá trình giải quyết vụ
án, căn cứ vào số lượng vụ án, vụ án có nhiều đương sự, nhiều nội dung thì Thẩm
phán đề nghị Chánh án phân công Thẩm tra viên hỗ trợ thực hiện hoạt động tố tụng.
Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm tra viên có quyền thu thập tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến vụ việc dân sự; giúp Thẩm phán thực hiện hoạt động tố tụng
theo quy định. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra là Thẩm tra viên có nhiệm vụ, quyền
79
hạn như một thư ký hay không? Thẩm tra viên có được tiến hành tố tụng tại phiên
tòa với vai trò là Thư ký tòa án hay không. Hiện nay, một số Tòa án địa phương
(chủ yếu là Tòa án cấp tỉnh , Thẩm tra viên vẫn được Chánh án phân công làm thư
ký tại các phiên tòa, phiên họp. Tuy nhiên, căn cứ các quy định của Luật tổ chức
Tòa án nhân dân và BLTTDS, việc phân công như vậy là không phù hợp.
Bốn là, ban hành các quyết định tố tụng:
- Quyết định áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 112 BLTTDS thì thẩm quyền áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời do Thẩm phán xem xét, quyết định. Tại phiên tòa, việc
giải quyết vụ án dân sự do HĐXX tiến hành nên việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ
BPKCTT do HĐXX xem xét, quyết định. Tòa án áp dụng BPKCTT trên cơ sở yêu
cầu của đương sự, trừ trường hợp Tòa án có thể tự mình áp dụng một số BPKCTT
theo quy định tại Điều 135 BLTTDS. Trong những năm qua khi giải quyết vụ án
dân sự, các BPKCTT rất ít khi được áp dụng, một phần là do các đương sự không
yêu cầu, yêu cầu không đúng, không chính xác hoặc không có tài sản bảo đảm.
Thực tế, Thẩm phán (HĐXX có tâm lý không tự áp dụng BPKCTT, vì nếu Thẩm
phán (HĐXX áp dụng sai, gây thiệt hại có thể phải bồi thường thiệt hại.
Về các BPKCTT, BLTTDS nước Liên bang Nga chỉ quy định năm
BPKCTT, Thẩm phán có thể áp dụng theo yêu cầu của đương sự hoặc tự mình áp
dụng. Ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể áp dụng nhiều
BPKCTT khác [25]. Về việc bồi thường do việc áp dụng BPKCTT, BLTTDS Liên
bang Nga không quy định cụ thể việc bồi thường do Tòa án áp dụng không đúng.
Ngược lại, BLTTDS Việt Nam quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp Tòa án tự mình hoặc đương sự yêu cầu áp dụng BPKCTT không đúng
gây thiệt hại.
- Quyết định tạm đình chỉ; tiếp tục giải quyết; đình chỉ giải quyết vụ án
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc Tòa án quyết định tạm ngừng
việc giải quyết vụ án dân sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán có quyền
quyết định tạm đình chỉ, tại phiên tòa do HĐXX quyết định. Để khắc phục vướng
mắc trong việc giải quyết vụ án khi Thẩm phán (HĐXX thiếu căn cứ tạm đình chỉ,
dẫn đến tình trạng các vụ án quá hạn, BLTTDS năm 2015 mở rộng căn cứ tạm đình
chỉ vụ án. Về thẩm quyền tạm đình chỉ vụ án theo quy định của BLTTDS cộng hòa
80
Pháp được quy định từ Điều 377 đến Điều 383. Tuy nhiên, khái niệm tạm đình chỉ vụ
án theo pháp luật TTDS Cộng hòa Pháp khác với TTDS Việt Nam. Căn cứ tạm đình
chỉ vụ án “ngoài những trường hợp do pháp luật quy định, vụ án bị tạm đình chỉ theo
quyết định hoãn xét xử hoặc xóa sổ thụ lý vụ án”. Quyết định hoãn xét xử tạm ngừng
quá trình tố tụng trong một thời gian hoặc cho tới khi phát sinh một sự kiện nhất định.
Việc hoãn xét xử vụ án không chấm dứt thẩm quyền của Thẩm phán [35].
Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự: Theo quy định tại Điều 216,
trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lý do tạm đình chỉ giải quyết vụ án quy
định tại Điều 214 của Bộ luật này không còn thì Tòa án phải ra quyết định tiếp tục
giải quyết vụ án dân sự và gửi quyết định đó cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự hết hiệu lực kể từ ngày ban hành quyết định tiếp tục giải quyết vụ án dân sự.
Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án kể từ khi ban hành quyết định
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dia_vi_phap_ly_cua_tham_phan_trong_giai_quyet_vu_an.pdf