1
Lời cam đoan
Mục lục 1
Danh mục các chữ viết tắt 4
Danh mục các bảng 5
Danh mục các sơ đồ 6
Danh mục các đồ thị 7
MỞ ĐẦU 8
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỊNH
KIẾN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG ÁN PHẠT TÙ 16
1.1. Nghiên cứu về định kiến đối với người chấp hành xong án phạt
tù ở nước ngoài 16
1.1.1. Nghiên cứu về thái độ và dư luận xã hội đối với người chấp
hành xong án phạt tù 16
1.1.2. Nghiên cứu về thái độ của xã hội đối với quá trình tái hoà
nhập cộng đồng của người chấp hành xong án phạt tù 20
1.1.3. Nghiên cứu sự kì thị và phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc
làm đối với người chấp hành xong án phạt tù 24
1.2. Nghiên cứu về định kiến đối với người chấp hành xong án phạt
tù ở Việt Nam 27
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ĐỊNH KIẾN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG ÁN PHẠT TÙ 32
2.1. Định kiến 32
2.1.1. Khái niệm định kiến 32
2.1.2. Mối quan hệ giữa định kiến với phân biệt đối xử và với
khuôn mẫu 40
2.1.3. Lý luận về các yếu tố tác động đến sự hình thành và tồn tại
của định kiến xã hội 43
2.2. Người chấp hành xong án phạt tù 49
2.2.1. Khái niệm người chấp hành xong án phạt tù 49
2.2.2. Đặc điểm tâm lý của người chấp hành xong án phạt tù 53
2.2.3. Một số khó khăn mà người chấp hành xong án phạt tù gặp
phải trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng 56
35 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 638 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Định kiến về người chấp hành xong án phạt tù, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số kiến nghị nhằm làm giảm ĐK đối với NCHXAPT,
giúp họ tái hoà nhập cộng đồng thành công.
6. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
6.1. Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Trong luận án này, để tránh trùng lặp khi hành văn, thuật ngữ
NCHXAPT được diễn đạt theo một số cách khác nhau nhưng vẫn đảm bảo sự
tương đồng về ý nghĩa, chẳng hạn: người mãn hạn tù; người có tiền án; người
đi tù về; người có quá khứ phạm pháp.
ĐK được nói đến ở đây là ĐK của xã hội đối với một nhóm người cụ
thể, một hiện tượng tâm lý xã hội, chứ không phải là ĐK của cá nhân này đối
với cá nhân khác.
ĐK là một hiện tượng mang tính lịch sử và tương đối phức tạp. ĐK về
NCHXAPT được biểu hiện ra bên ngoài ở nhiều mặt khác nhau, tuy nhiên
luận án chỉ đi sâu phân tích một số mặt biểu hiện của nó trong thực tiễn như:
ĐK về tính cách của NCHXAPT; ĐK về khả năng hoàn lương và ĐK về vai
trò xã hội của NCHXAPT.
ĐK về NCHXAPT chịu tác động của nhiều yếu tố khác nhau nhưng luận
án chỉ tập trung tìm hiểu 3 yếu tố chính, đó là: Nhận định NCHXAPT là mối đe
doạ; Phương tiện truyền thông và Hành vi của những người xung quanh.
6.2. Giới hạn về khách thể và địa bàn nghiên cứu
Luận án tiến hành nghiên cứu trên mẫu khách thể bao gồm 497 người
(bao gồm 346 người dân thuộc một số quận nội thành Hà Nội như: Hoàn Kiếm,
Ba Đình, Đống Đa, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng và 151 sinh viên đang học tập
tại trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).
Sở dĩ luận án chỉ tập trung khảo sát trên người dân đang sinh sống tại
12
một số quận nội thành mà không mở rộng ra khu vực ngoại thành Hà Nội vì
qua tổng kết tình hình NCHXAPT tái phạm của Công an Hà Nội cho thấy các
quận nội thành là nơi diễn ra nhiều hoạt động kinh tế xã hội, đồng thời là địa
bàn có nhiều điều kiện thuận lợi cho tội phạm diễn ra. Tỷ lệ tái phạm của
NCHXAPT ở các phường thuộc quận nội thành cũng cao hơn nhiều so với
các khu mới đô thị hoá và ngoại thành [16, tr. 68].
Bên cạnh đó, luận án còn lựa chọn các sinh viên đang theo học trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội làm khách
thể nghiên cứu vì đây là những người trẻ tuổi và có sự hiểu biết khá sâu sắc
về các vấn đề xã hội. Ngoài ra, việc đo lường ĐK đối với NCHXAPT ở nhóm
khách thể này cũng cho phép luận án xác định liệu có sự khác biệt trong mức
độ biểu hiện ĐK của người dân và sinh viên hay không?
7. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
7.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên một số nguyên tắc mang tính phương
pháp luận sau:
7.1.1. Nguyên tắc quyết định luận duy vật biện chứng: Nội dung nguyên
tắc này chỉ ra tâm lý người mang bản chất xã hội- lịch sử, do yếu tố xã hội quyết
định. Vì vậy, việc nghiên cứu ĐK phải tôn trọng sự tồn tại khách quan của sự
vật, hiện tượng và phải gắn với hoàn cảnh xã hội cụ thể. Nhóm NCHXAPT là
những người có quá khứ phạm tội và sau khi rời trại giam thì họ lại trở về tái
hoà nhập với cộng đồng, và chính trong bối cảnh đó, ĐK xã hội nảy sinh và
phát triển. Việc tìm kiếm các giải pháp nhằm hoá giải ĐK đối với NCHXAPT
cần xuất phát từ chính môi trường xã hội nơi họ sống và hoạt động.
7.7.2. Nguyên tắc thống nhất giữa tâm lý và hoạt động: ĐK đối với
NCHXAPT hay bất kì một hiện tượng tâm lý xã hội nào đều được nảy sinh,
hình thành và phát triển trong hoạt động của con người và đến lượt mình
chúng lại chi phối hoạt động của các cá nhân và nhóm. ĐK hay bất kì hiện
13
tượng tâm lý nào thì cũng đều hình thành từ sự tác động qua lại giữa
NCHXAPT và cộng đồng xã hội và nó cũng được bộc lộ ra ngoài thông qua
hành vi mà cụ thể ở đây là xu hướng né tránh tiếp xúc hoặc phân biệt đối xử
(PBĐX) với đối tượng bị ĐK.
7.7.3. Nguyên tắc hệ thống: Nguyên tắc này chỉ rõ phải xem xét các sự
vật, hiện tượng một cách toàn diện, trong các mối liên hệ và hoàn cảnh cụ thể
để tìm ra quy luật vận động của chúng. Do đó, trong quá trình nghiên cứu cần
phải đặt ĐK về NCHXAPT trong mối quan hệ với các mặt biểu hiện cụ thể
của nó cũng như trong mối quan hệ với các yếu tố tác động; kể cả những đặc
điểm về dân tộc, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp, văn hóa... để có thể tìm ra
giải pháp nhằm giảm thiểu ĐK. Bên cạnh đó, cần sử dụng kiến thức của liên
ngành khoa học: tâm lý học xã hội, xã hội học, Luật học... trong tiếp cận và lý
giải ĐK về NCHXAPT, một vấn đề phức tạp và có tính lịch sử này.
7.7.3. Nguyên tắc phát triển: Tuân theo qui luật chung của mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới, các hiện tượng tâm lí cũng luôn vận động, biến đổi
và phát triển chứ không cố định, bất biến. Do đó, khi nghiên cứu ĐK xã hội
về NCHXAPT cần phải xem xét sự vận động của hiện tượng này ở từng giai
đoạn lịch sử cụ thể. Bên cạnh đó, với người có quá khứ phạm tội cần phải
nhìn nhận cả những cố gắng, nỗ lực hoàn lương của họ trong quá trình tái hoà
nhập cộng đồng.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu
7.2.2. Phương pháp chuyên gia
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
7.2.4. Phương pháp xử lý dữ liệu bằng toán học thống kê
7.2.5. Phương pháp phỏng vấn sâu
7.2.6. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
14
8. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
8.1. Về mặt lý luận
- Đề tài đã góp phần hệ thống hoá, cập nhật, bổ sung một số vấn đề lý
luận về ĐK và ĐK đối với NCHXAPT (khái niệm, đặc điểm, nội dung). Bên
cạnh đó, đề tài cũng xây dựng được khung lý thuyết và bộ công cụ đo lường
ĐK về NCHXAPT, đồng thời khái quát một số yếu tố tác động đến ĐK đối
với người có tiền án ở Việt Nam.
8.2. Về mặt thực tiễn
- Luận án đã chỉ ra một số mặt biểu hiện của ĐK về NCHXAPT tại các
quận nội thành Hà Nội hiện nay; đồng thời phác hoạ bức tranh chung về thực
trạng ĐK đối với NCHXAPT, theo đó trên địa bàn các quận nội thành Hà Nội
hiện nay có tồn tại ĐK đối với người mãn hạn tù song mức độ ĐK không cao.
Nhìn chung, người dân ĐK nhiều nhất với mặt NCHXAPT không phải là
người có những tính cách tốt; tiếp theo là mặt NCHXAPT là những người có
tính cách xấu và mặt NCHXAPT không thể hoàn lương; trong khi đó các mặt
NCHXAPT không thể đảm đương các vai trò xã hội và mặt NCHXAPT là
những người không có giá trị với xã hội lại ít bị người dân ĐK hơn.
- Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các yếu tố: Nhận định
NCHXAPT là mối đe doạ; Hành vi của những người xung quanh và Phương
tiện truyền thông đều có mối tương quan thuận và tác động đến ĐK đối với
NCHXAPT, trong đó yếu tố Nhận định NCHXAPT là mối đe doạ có tác động
mạnh nhất. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu thực tiễn, luận án đưa ra một số
kiến nghị nhằm giảm thiểu ĐK của xã hội với người đi tù về, trong đó nhấn
mạnh đến vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong việc đăng
tải thông tin có liên quan tới những người đi tù về; chính quyền các cấp cần
quan tâm tạo công ăn việc làm và động viên, thăm hỏi những con người có
quá khứ phạm pháp...
- Kết quả nghiên cứu của đề tài là một trong những nguồn tài liệu tham
khảo quan trọng cho việc xây dựng giáo trình và giảng dạy môn tâm lý học tư
15
pháp, tâm lý học tội phạm và tâm lý học quản lý, giáo dục người phạm tội
trong các nhà trường thuộc lực lượng Công an nhân dân.
- Đề tài cũng gợi mở một số vấn đề cần được tiếp tục mở rộng trong các
nghiên cứu tiếp theo như: Còn có những kiểu ĐK nào khác đối với người đi
tù về tồn tại trong thực tiễn? Bên cạnh việc Nhận định NCHXAPT là mối đe
doạ cho xã hội liệu còn những quan niệm nào đóng vai trò quan trọng trong
việc duy trì ĐK xã hội đối với người đi tù về hiện nay?
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, danh mục các công trình khoa
học đã công bố có liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận án được kết cấu thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về ĐK và ĐK đối với NCHXAPT
Chương 2: Cơ sở lý luận nghiên cứu về ĐK đối với NCHXAPT
Chương 3: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu thưc̣ tiễn ĐK đối với NCHXAPT
16
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỊNH KIẾN ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHẤP HÀNH XONG ÁN PHẠT TÙ
1.1. NGHIÊN CỨU VỀ ĐỊNH KIẾN ĐỐI VỚI NGƯỜI CHẤP HÀNH
XONG ÁN PHẠT TÙ Ở NƯỚC NGOÀI
Trên thế giới, vấn đề ĐK đối với NCHXAPT được đề cập tới trong những
công trình khoa học thuộc các lĩnh vực nghiên cứu khác nhau như: Luật học, Xã
hội học, Công tác xã hội, Tâm lý học. Các nghiên cứu này tập trung vào 3 nhóm
chính, đó là: thái độ và dư luận xã hội đối với NCHXAPT; thái độ của xã hội đối
với quá trình tái hoà nhập cộng đồng của NCHXAPT; sự PBĐX trong lĩnh vực
việc làm đối với NCHXAPT.
1.1.1. Nghiên cứu về thái độ và dư luận xã hội đối với người chấp
hành xong án phạt tù
Tập trung tìm hiểu ảnh hưởng của các biến độc lập như: giới, độ tuổi,
trình độ đô thị hoá đến biến phụ thuộc là dư luận của xã hội với phạm nhân,
NCHXAPT và công tác giáo dục, cải tạo trong các trại giam ở Croatia, nghiên
cứu của nhóm tác giả Mikšaj Todorović và Aleksandar Budjanovac (2000) phát
hiện người dân nói chung thể hiện thái độ tích cực đối với NCHXAPT và công
tác giáo dục cải tạo của các trại giam. Dữ liệu nghiên cứu cũng cho thấy nam
giới, thanh niên, người có trình độ học vấn cao và cư dân các đô thị lớn có thái
độ tích cực hơn với những NCHXAPT. Vì vậy, các tác giả đưa ra kiến nghị
việc thực hiện các biện pháp quản lý, giáo dục đối với những người đi tù về cần
tranh thủ sự hỗ trợ của các nhóm xã hội nói trên trong cộng đồng. Bên cạnh đó,
cần tập trung tuyên truyền, giáo dục đối với các nhóm xã hội biểu hiện thái độ
tiêu cực với người mãn hạn tù như: người cao tuổi, người có trình độ học vấn
thấp, cư dân sống ở vùng nông thôn vì điều này có thể giúp nâng cao nhận
thức, giảm hành vi PBĐX của xã hội với NCHXAPT [83, tr. 35-42].
17
Nghiên cứu dư luận xã hội về các khía cạnh khác nhau của tư pháp hình
sự như: tính công bằng của hình phạt, sự tin tưởng vào hệ thống tư pháp hình
sự cũng như thái độ đối với người có quá khứ phạm tội được tiến hành ở
Beilarus (2013) cho thấy ý kiến của những người ủng hộ và không ủng hộ án
tử hình đều dựa trên nhận thức của họ về hệ thống tư pháp hình sự nói chung
của Belarus. Những người ủng hộ án tử hình có xu hướng đánh giá hệ thống
tư pháp hình sự hiện tại là hợp lý và "mềm mại". Nhóm này thể hiện thái độ
thiếu thiện chí đối với NCHXAPT, thậm chí là không sẵn sàng tham gia các
hoạt động hỗ trợ các phạm nhân và người đi tù về trong quá trình tái hòa nhập
cộng đồng. Ngược lại, những người phản đối án tử hình lại tin rằng hệ thống
trại giam hiện nay đang hoạt động không hiệu quả và hệ thống tư pháp vẫn
còn tồn tại nhiều khiếm khuyết khi để xảy ra những vụ kết án oan người vô
tội. Họ thường có thái độ đồng cảm và sẵn sàng giúp đỡ những người có quá
khứ phạm pháp [59, tr. 1-108].
Quan tâm đến thái độ của cộng đồng với NCHXAPT nhưng thu hẹp vào
diện khách thể là các giáo dân, nghiên cứu của tác giả Rubio Arnal được thực
hiện năm 2014 đã khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý cá nhân như: lòng
khoan dung, sự hy sinh, khuynh hướng chính trị, sự sùng đạo, sự tha thứ... lên
thái độ đối với NCHXAPT. Nhà nghiên cứu đã cho giáo dân ở hai nhà thờ khác
nhau và ở hai vùng khác nhau xem một bộ phim tài liệu có nhiều chi tiết gây
xúc động nhằm tìm hiểu liệu thái độ cá nhân có thay đổi khi thái độ của cả
nhóm thay đổi hay không. Kết quả nghiên cứu cho thấy phương pháp tác động
bằng cách thay đổi thái độ của cả nhóm tỏ ra có hiệu quả hơn trong việc thay
đổi thái độ cá nhân và yếu tố dự báo là sự cảm thông với NCHXAPT đã tăng
lên sau khi giáo dân được xem bộ phim tài liệu đó [39, tr. 1-77].
Một phân tích tổng hợp trên hệ thống dữ liệu các công trình khoa học
về thái độ của xã hội đối với NCHXAPT của tác giả Candalyn Rade (2014)
đã tiến hành kiểm tra mối tương quan giữa thái độ đối với NCHXAPT với các
biến số: đặc điểm của cộng đồng (tôn giáo và niềm tin tôn giáo), đặc điểm của
18
NCHXAPT (loại tội danh đã vi phạm ghi trong hồ sơ hình sự, chủng tộc, dân
tộc, quá trình cải tạo trong trại giam, độ tuổi) và đặc điểm an ninh trật tự của
địa phương (tỷ lệ tội phạm); đồng thời kiểm tra tác động của biến điều tiết là
tiền án về tội phạm tình dục đến thái độ của cộng đồng. Kết quả cho thấy
những người có khuynh hướng bảo thủ về chính trị, người có trình độ học vấn
thấp và kể cả những người không có sự quen biết từ trước với NCHXAPT
thường biểu hiện thái độ tiêu cực hơn. Bên cạnh sự kỳ thị của xã hội,
NCHXAPT còn phải đối mặt với những rào cản trong một số lĩnh vực như
việc làm, nhà ở, chăm sóc y tế, điều trị các rối loạn tâm thần và nghiện ma
tuý. Thái độ tiêu cực của cộng đồng có sự đan xen vào từng lĩnh vực nói trên
nên nếu giảm thiểu được ĐK đối với người đi tù về thì sẽ góp phần gỡ bỏ các
rào cản khác trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Nghiên cứu cũng phát
hiện một số chứng cứ hỗ trợ cho Lý thuyết về mối quan hệ liên nhóm như là
một phương cách quan trọng để giảm ĐK (mặc dù chưa tính đến chất lượng
và hình thức của sự tương tác giữa các cá nhân với nhau) [75, tr. 1-46].
Một nghiên cứu mang tựa đề "Lời kêu cứu của những NCHXAPT ở Đài
Loan: ĐK, những khó khăn mà NCHXAPT có thể gặp phải và giải pháp giúp
đỡ họ" do tác giả Jusin Chang (2015) tiến hành cho thấy các phạm nhân sau
khi ra tù trở về với cộng đồng thường gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm
và thiết lập quan hệ với mọi người, kể cả người thân của mình. Tác giả đã sử
dụng cả phương pháp điều tra bằng bảng hỏi với các câu hỏi đóng (qua mạng
internet) đối với 82 khách thể và phỏng vấn sâu 06 khách thể (gồm 03 sinh
viên, 02 người dân và 01 chủ cửa hàng ăn nhỏ). Các câu hỏi trong bảng hỏi
tập trung tìm hiểu các cảm xúc cũng như quan điểm của cộng đồng về
NCHXAPT. Theo điều tra, mặc dù có tới 96% khách thể tin rằng người dân
Đài Loan giữ các KM tiêu cực và ĐK đối với NCHXAPT, song lại có tới
66% tin rằng cộng đồng sẵn sàng giúp đỡ và tạo điều kiện giúp đỡ họ tái hoà
nhập xã hội. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra một điểm trái ngược, đó là phần
19
lớn người dân khẳng định mình không ĐK đối với NCHXAPT và sẵn sàng
giúp đỡ họ tái hoà nhập cộng đồng nhưng thực tế thì lại tìm cách né tránh tiếp
xúc với những người có tiền án. Các khách thể được phỏng vấn cho rằng
chính quyền Đài Loan cần cố gắng nhiều hơn nữa trong việc giúp đỡ người có
quá khứ phạm pháp hoàn lương vì những đối tượng này có thể gây phương
hại cho cộng đồng khi bị bỏ rơi. Nghiên cứu cũng lý giải nguyên nhân dẫn tới
việc người dân có ĐK với NCHXAPT là do đa số khách thể tham gia khảo
sát (80,5%) không quen biết và không có cơ hội tiếp xúc những người có tiền
án. Không những thế, người dân được giáo dục rằng NCHXAPT là những
người đã làm những việc sai trái, vi phạm pháp luật và có thể gây nguy hiểm
cho xã hội. Vì thế, một trong những khuyến nghị mà nghiên cứu đưa ra đối
với cộng đồng và chính quyền Đài Loan, đó là cần giáo dục và khuyến khích
mối quan hệ giao tiếp giữa hai bên (người dân và người có tiền án) để họ có
thể hiểu nhau hơn [53, tr. 1-46].
Một nghiên cứu khác tiến hành khảo sát sự kỳ thị xã hội đối với
NCHXAPT đã từng phạm tội khủng bố trước đây và gia đình của họ do nhóm
tác giả Siti Nur Asiyah, Nailatin Fauziyah, Siti Khorriyatul Khotimah, Soffy
Balgies (2014) thực hiện. Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu
định tính bao gồm: quan sát và phỏng vấn sâu. Mục đích của nhà nghiên cứu
là nhằm tìm hiểu các kiểu tương tác với cộng đồng của gia đình người có tiền
án về tội khủng bố; Sự PBĐX của xã hội và ảnh hưởng của nó tới các gia đình
có người thân đã từng bị đi tù về tội khủng bố; Cách thức đối phó của
NCHXAPT với tình huống trên. Nghiên cứu phát hiện các mô hình tương tác
xã hội giữa gia đình của những người đã từng bị kết án về tội khủng bố và
cộng đồng được chia thành 2 giai đoạn: trước và sau khi họ phạm tội. ĐK của
xã hội biểu hiện thông qua quá trình cộng đồng khái quát hoá những người có
quá khứ phạm tội khủng bố, đánh giá tất cả các thành viên thuộc nhóm này
đều như nhau. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự PBĐX diễn ra khi NCHXAPT và
20
gia đình phải tiếp xúc với người dân sống ngoài ngôi làng Tenggulun-
Indonesia (nơi họ đang cư trú). Sự PBĐX có thể diễn ra theo kiểu công khai
(xa lánh NCHXAPT về tội khủng bố) hoặc theo kiểu nghịch chiều (chẳng hạn
tạo điều kiện hỗ trợ người đi tù về nhưng chỉ mang lại hiệu quả trước mắt cho
họ). Theo ý kiến của các khách thể, ĐK và PBĐX đã tác động vào giá trị bản
thân, lòng tự trọng và tình trạng sức khoẻ của họ. Cách thức đối phó của
những NCHXAPT đã từng phạm tội khủng bố và gia đình của họ với ĐK xã
hội và sự PBĐX chia thành 2 dạng cụ thể là: tập trung đối phó về cảm xúc và
đối phó với vấn đề trực tiếp tác động đến lợi ích của bản thân [41, tr. 71-90].
1.1.2. Nghiên cứu thái độ của xã hội đối với quá trình tái hoà nhập
cộng đồng của người chấp hành xong án phạt tù
Một nghiên cứu thuộc lĩnh vực công tác xã hội do Charles Nsanze
(2007) thực hiện nhằm tìm hiểu quá trình tái hoà nhập xã hội (nghiên cứu
trường hợp thành phố Gothenburg, Thuỵ Điển). Nghiên cứu đi sâu phân tích
ảnh hưởng của các cơ quan chính phủ, các mạng lưới xã hội không chính thức
tới NCHXAPT và kể cả những trở ngại mà người mãn hạn tù phải đối mặt
trong quá trình tái hoà nhập xã hội. Kết quả thu được đã chỉ ra cả chính quyền
lẫn mạng lưới xã hội không chính thức đều ảnh hưởng tới NCHXAPT theo
những cách thức khác nhau và với mức độ khác nhau. Trong khi Nhà nước hỗ
trợ về tài chính, nhà ở, chữa bệnh... thì mạng lưới xã hội không chính thức (gia
đình, đồng nghiệp, người thân hoặc hàng xóm) lại tác động kép lên
NCHXAPT. Một mặt, mạng lưới này tác động tích cực bằng cách động viên về
tình cảm, tư vấn tâm lý, hỗ trợ vật chất, tạo điều kiện cho người đi tù về bắt đầu
một cuộc sống mới; nhưng đồng thời lại có những ảnh hưởng tiêu cực thông
qua việc từ chối giúp đỡ một số NCHXAPT (là khách thể của nghiên cứu này)
chỉ vì quá khứ phạm pháp của họ. Chính sự kỳ thị của xã hội, những khó khăn
về nhà ở, tài chính cũng như sự rạn nứt trong quan hệ với gia đình đã làm giảm
nỗ lực hoàn lương của NCHXAPT sau khi ra tù [72, tr. 1-46].
21
"Tái hòa nhập- Cuộc sống sau khi ra tù" là một nghiên cứu do hai tác
giả Fergus Hogan và Jonathan Culleton (2008) thuộc Trung tâm Nghiên cứu
Gia đình và Xã hội, Viện Công nghệ Waterford thực hiện thông qua việc lập
ra một diễn đàn dành cho các phạm nhân và NCHXAPT tự kể những câu
chuyện về cuộc sống của mình. Dựa trên cơ sở phỏng vấn sâu theo hình thức
bán cấu trúc đối với 44 khách thể (bao gồm 7 phạm nhân và 9 NCHXAPT; 22
chuyên gia đang làm việc trong trại giam và những nhà cung cấp dịch vụ
ngoài cộng đồng; 5 cố vấn dự án và các điều phối viên dự án) các nhà nghiên
cứu đã chỉ ra những thách thức đối với NCHXAPT khi tham gia vào thị
trường lao động. Nghiên cứu cũng phát hiện hệ quả mà những người có tiền
án (đặc biệt là người chấp hành án trong thời gian dài) có thể gặp phải đó là bị
chấn thương về tâm lý. Nếu không có sự cảm thông, giúp đỡ từ chính quyền
và xã hội thì NCHXAPT sẽ khó tái hoà nhập được với cộng đồng và sẽ tái
phạm tội. Vì thế, cần thiết phải cung cấp cho họ các dịch vụ chăm sóc xuyên
suốt (throughcare) bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị ra tù [58, tr. 1-117].
Trong một nghiên cứu chuyên ngành Tội phạm học, tác giả Amanda
Breen (2011) trên cơ sở điểm luận các công trình khoa học đã chỉ ra
NCHXAPT tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn sau khi ra trại. Họ
thường bị mọi người dán nhãn là những kẻ xấu xa, phạm tội và bị xa lánh vì
đã từng bị đi tù. Các công trình khoa học trước đây thường tập trung tìm hiểu
cách thức xã hội áp đặt các khuôn mẫu (KM) đối với người mãn hạn tù nhưng
nghiên cứu này lại chọn tiếp cận theo hướng ngược lại, tức là phân tích cách
mà NCHXAPT diễn giải và nội tâm hoá các KM tiêu cực của xã hội đối với
mình và ảnh hưởng của chúng đến quá trình tái hòa nhập cộng đồng. Dữ liệu
thu được thông qua phỏng vấn sâu 18 người đi tù về ở Toronto cho thấy tất cả
những người được hỏi đều cảm nhận bị xã hội dán nhãn vì có tiền án. Không
những thế, 5 khách thể còn thuật lại các trải nghiệm của bản thân về mối đe
dọa mang tính định khuôn từ phía xã hội và cho biết điều này đã tác động tiêu
cực đến nỗ lực tái hòa nhập xã hội của họ [49, tr. 1-62].
22
Trong nghiên cứu chuyên ngành tâm lý học lâm sàng, nhằm tìm ra lời
giải cho câu hỏi "Có những yếu tố sinh thái chính nào đang tác động đến sự
tái hoà nhập của NCHXAPT khi họ trở về cộng đồng?", tác giả Neva
Hagedorn (2013) đã tổng quan các công trình tìm hiểu về mối quan hệ phức
hợp giữa hệ thống sinh thái xã hội và người mãn hạn tù. Thông tin thu được
từ các tài liệu thứ cấp được xử lý bằng phương pháp Phân tích chuyên đề.
Đây là cách tiếp cận nhằm xây dựng một khung phân tích thông qua so sánh,
đối chiếu thông tin trong các nghiên cứu hiện có và mô tả chúng dưới dạng
các chủ đề. Tác giả đã lựa chọn mô hình Hệ thống sinh thái của
Bronfenbrenner và tiến hành phân tích theo 10 chủ đề có liên quan tới quá
trình tái hoà nhập xã hội của NCHXAPT, trong đó tập trung làm rõ mối quan
hệ của quá trình này với 4 loại hình môi trường khác nhau. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra nếu xã hội tin tưởng rằng người đi tù về có thể hoàn lương thì sẽ
làm tăng khả năng hoàn lương của họ. Ngược lại, khi bị mọi người nhìn nhận
là mối nguy hiểm thì một hệ quả tất yếu là NCHXAPT sẽ tự đánh giá bản
thân theo cách mà xã hội đã dán nhãn và dễ dàng quay lại con đường phạm tội
trước đây. Sự thành công trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng không chỉ
phụ thuộc vào nỗ lực của cá nhân NCHXAPT mà còn phụ thuộc vào cả cách
thức mà cộng đồng ủng hộ và giúp đỡ những con người có quá khứ phạm
pháp đó [64, tr. 1-108].
Một công trình nghiên cứu khác thuộc lĩnh vực tâm lý học pháp lý do
tác giả Catherine Andrews thực hiện tập trung tìm hiểu quan điểm và thái độ
của xã hội đối với quá trình tái hoà nhập của NCHXAPT cũng như các yếu tố
ảnh hưởng đến quá trình này. Tác giả đã xây dựng một mô hình nghiên cứu
nhằm chỉ ra ảnh hưởng của một số yếu tố như: đặc điểm xã hội của cộng
đồng; đặc điểm xã hội của nhóm NCHXAPT tới quá trình tái hoà nhập cộng
đồng (tập trung vào hai lĩnh vực cụ thể là nhà ở và việc làm). Kết quả khảo sát
23
bằng bảng hỏi trên 2522 khách thể ở bang Victoria cho thấy thái độ của xã hội
đối với quá trình tái hòa nhập của người mãn hạn tù mang tính không thống
nhất và phụ thuộc vào bối cảnh mà quá trình đó diễn ra. Nhìn chung, cộng
đồng ủng hộ quá trình tái hòa nhập của NCHXAPT, tuy nhiên sự ủng hộ dành
cho lĩnh vực nhà ở nhiều hơn là lĩnh vực việc làm. Một mặt, những người
được hỏi nhất trí Chính phủ cần hỗ trợ người mãn hạn tù thông qua các chính
sách pháp luật (cấp độ vĩ mô) nhưng mặt khác lại không đồng ý sống gần hay
làm việc chung với họ (cấp độ cá nhân) vì lo sợ việc này có thể mang lại
nhiều rủi ro. Nghiên cứu cũng phát hiện những NCHXAPT chỉ có một tiền
án; được Toà xử án treo; hay đã hoàn thành chương trình cai nghiện và
chương trình giáo dục đào tạo về kĩ năng lao động, việc làm thường được
cộng đồng tin tưởng hơn là người tái phạm nhiều lần hoặc phải chấp hành án
với thời gian dài [38, tr. 1-488].
Trong công trình nghiên cứu của mình, các tác giả Efrat Shoham và Uri
Timor đã tiến hành khảo sát thái độ của một số nhóm xã hội khác nhau với quá
trình tái hoà nhập của NCHXAPT ở Israel. Mẫu nghiên cứu bao gồm 551
khách thể chia thành 3 nhóm: Nhóm thứ nhất bao gồm các nhân viên thuộc hệ
thống cơ quan thực thi pháp luật; nhóm thứ hai bao gồm các chủ sở hữu và nhà
quản lý doanh nghiệp; nhóm thứ ba là những người dân đang sinh sống trong
cộng đồng. Bảng hỏi về thái độ đối với quá trình tái hòa nhập của người mãn
hạn tù được thiết kế riêng cho từng nhóm khách thể và tập trung vào 4 khía
cạnh cơ bản: (1) Ảnh hưởng của dán nhãn tiêu cực gắn liền với quá khứ tù tội
"một lần phạm tội, mãi mãi vẫn là kẻ phạm tội"; (2) Thái độ của NCHXAPT
đối với việc tái hoà nhập cộng đồng; (3) Sự sẵn sàng duy trì mối quan hệ xã hội
hay nghề nghiệp với NCHXAPT của cộng đồng; (4) Việc hỗ trợ các hạn chế và
giám sát NCHXAPT tại cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cho thấy đa số các
khách thể trong diện điều tra đều bày tỏ thái độ ủng hộ đối với quá trình tái hoà
nhập cộng đồng của NCHXAPT (chẳng hạn người dân đồng ý thiết lập quan hệ
24
xã hội, sống cùng phòng, làm hàng xóm và thậm chí cho phép con của mình
kết bạn với con của người đi tù về). Tuy nhiên, trên thực tế vẫn tồn tại khoảng
cách giữa nhận thức và hành vi của người dân. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra
thái độ tiêu cực của nhà tuyển dụng lao động bắt nguồn từ ĐK và sự dán nhãn
tiêu cực đối với người có quá khứ phạm pháp. Trên cơ sở điều tra thực tiễn, các
tác giả kết luận để giảm thiểu ĐK cần thiết phải nâng cao nhận thức của công
chúng Israel về tầm quan trọng của công tác giáo dục, cải tạo phạm nhân và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004720_1_0529_2002807.pdf