Luận án Dư luận xã hội về bảo vệ môi trường (qua khảo sát ở địa bàn có các khu công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh)

LỜI CAM ĐOAN . i

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN. iv

DANH MỤC BẢNG.v

MỞ ĐẦU .1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI

VỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG.20

1.1. Sự hình thành và phát triển khái niệm dư luận xã hội .20

1.2. Hệ thống các chỉ báo đo lường dư luận xã hội.24

1.3. Quan điểm về quá trình hình thành dlxh.26

1.4. Định hướng dư luận xã hội.29

1.5. Chỉ báo đo lường bảo vệ môi trường .31

1.6. Nghiên cứu dư luận xã hội về bảo vệ môi trường.34

1.7. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành dư luận xã hội về bảo vệ môi trường.41

CHƯƠNG II: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU DƯ LUẬN XÃ HỘI VỀ BẢO

VỆ MÔI TRƯỜNG.48

2.1. Các khái niệm cơ bản .48

2.2. Chức năng của dư luận xã hội.51

2.3. Các thuộc tính của dư luận xã hội.53

2.4. Cơ sở nhận thức và cơ sở xã hội của dư luận xã hội.55

2.5. Cơ chế hình thành của dư luận xã hội.58

2.6. Tiếp cận từ phương diện lý thuyết .59

2.7. Khung chính sách.64

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG DƯ LUẬN XÃ HỘI VỀ BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG TẠI ĐỊA BÀN CÓ CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH HÀ TĨNH.72

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu và sự hình thành dư luận xã hội về bảo vệ môi

trường tại địa bàn nghiên cứu.72

3.2. Nhận thức của nhân dân về bảo vệ môi trường.79

3.3. Thái độ của nhân dân về bảo vệ môi trường.93

pdf253 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dư luận xã hội về bảo vệ môi trường (qua khảo sát ở địa bàn có các khu công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường đất, nước và không khí ô nhiễm nên tôi rất lo lắng” [PVS. Nam. Huyện Kỳ Anh] “Sự cố Formosa vừa rồi đồng chí thấy đấy gây hại cho bà con Hà Tĩnh như thế nào nên chúng tôi hiện đang rất lo lắng về vấn đề môi trường nhưng cái khó là nếu như không có các KCN thì đời sống của nhân dân sẽ khó khăn lắm, lo thì rất lo nhưng không biết làm thế nào anh ạ, mong tỉnh có chính sách để cải thiện môi trường thôi. Ngoài thiên tai xảy ra thường xuyên thì tôi lo lắng nhất về chất thải công nghiệp gây ô nhiễm môi trường” [PVS. Nữ Thành phố Hà Tĩnh] Kết quả nghiên cứu đã phản ánh một vấn đề đáng chú ý là người dân tại địa bàn nghiên cứu đặc biệt lo lắng đến vấn đề chất thải từ các nhà máy và KCN (cao hơn so với các vấn đề khác, chỉ đứng sau “thiên tai, hạn hán, lũ lụt” và “sử dụng chất hóa học tràn nan trong sản xuất nông nghiệp”. Bởi thực tế theo báo cáo của UBND tỉnh Hà Tĩnh về công tác môi trường thì toàn tỉnh hiện nay chưa có KCN nào có hệ thống xử lý nước thải (KCN Vũng Áng 1 mới có dự án được duyệt nhưng chưa triển khai đầu tư, KCN Gia Lách đang lập dự án). Kết quả số liệu phản ánh 2 thuộc tính của dư luận xã hội là khuynh hướng của nhân dân là lo lắng về các vấn đề môi trường và cường độ của dư luận xã hội về vấn đề môi trường là rất lo lắng. Sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm xã hội Khi so sánh tương quan giữa nghề nghiệp với những lo lắng về vấn đề môi trường. Nhóm cán bộ công chức, viên chức và hưu trí lo lắng nhiều nhất 97 về các vấn đề: “Thiên tai, hạn hán, lũ lụt”; “sử dụng chất hóa học tràn nan trong sản xuất nông nghiệp”; “Chặt phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi”; sự gia tăng dân số”; “Thủng tầng ô zôn, mưa axit, hiệu ứng nhà kính”;“Chất thải sinh hoạt trong đời sống thường ngày”; “Chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp”; “Chất thải từ các nhà máy, khu công nghiệp”; chất thải từ hoạt động sản xuất thương mại, dịch vụ” cao hơn so với các nhóm nghề: nông dân; thương mại dịch vụ; học sinh sinh viên (xem phụ lục số 4) Khi so sánh tương quan giữa điều kiện kinh tế với những lo lắng của người dân về các vấn đề môi trường cho thấy: người được hỏi có điều kiện kinh tế khó khăn (1.67) thì lo lắng nhiều về các vấn đề môi trường sống hơn là người được hỏi có điều kiện kinh tế khá giả (1.36) và giàu có (1.50) (xem phụ lục số 4). Khi so sánh tương quan giữa biến số độc lập là tôn giáo với những lo lắng của người được hỏi về các vấn đề môi trường cho thấy: người được hỏi theo tôn giáo (1.79) lo lắng nhiều hơn về các vấn đề môi trường hơn là người được hỏi không theo tôn giáo (1.51). Cụ thể là: những người được hỏi theo tôn giáo lo lắng nhiều hơn đối với các vấn đề môi trường như: Thiên tai, hạn hán, lũ lụt; Sử dụng chất hóa học tràn nan trong sản xuất nông nghiệp; Chặt phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi; Thủng tầng ô zôn, mưa axit, hiệu ứng nhà kính; Chất thải sinh hoạt trong đời sống thường ngày; Chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; Chất thải từ các nhà máy, KCN; Chất thải từ hoạt động sản xuất thương mại, dịch vụ hơn là những người được hỏi không theo tôn giáo. Chính vì những lo lắng này mà những người có theo tôn giáo luôn dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động tụ tập, biểu tình phản đối chính quyền về các vấn đề môi trường tại tỉnh Hà Tĩnh thời gian qua. Hầu hết các cuộc biểu tình phản đối chính quyền tại Hà Tĩnh đều có liên quan đến bà con giáo dân, hệ thống công giáo có sự liên kết, hợp tác, trao đổi giữa các địa phương, có kế hoạch phối hợp rõ ràng trong các vụ tụ tập, biểu tình phản 98 đối chính quyền. Việc thông tin, tuyên truyền định hướng DLXH cho các đối tượng này đang gặp phải rất nhiều khó khăn không chỉ trong lĩnh vực môi trường mà còn nhiều lĩnh vực xã hội khác (đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng ) tại tỉnh Hà Tĩnh. Trong khi đó, sự lan truyền các thông tin sai sự thật, vu khống chính quyền lại lan truyền rất nhanh trong mạng lưới những người theo tôn giáo ở địa bàn nghiên cứu. Khi so sánh tương quan giữa đảng viên với những lo lắng của người được hỏi về các vấn đề môi trường. Kết quả cho thấy: người được hỏi không là đảng viên lo lắng nhiều về các vấn đề môi trường hơn là những người đảng viên. Cụ thể là: những người được hỏi không là đảng viên lo lắng nhiều hơn đối với các vấn đề như: Thiên tai, hạn hán, lũ lụt; Sử dụng chất hóa học tràn nan trong sản xuất nông nghiệp; Chặt phá rừng, khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi; Thủng tầng ô zôn, mưa axit, hiệu ứng nhà kính; Chất thải sinh hoạt trong đời sống thường ngày; Chất thải từ hoạt động sản xuất nông nghiệp; Chất thải từ các nhà máy, KCN; Chất thải từ hoạt động sản xuất thương mại, dịch vụ hơn là những người được hỏi là đảng viên. Số liệu cũng phản ánh một thực tế là những người đảng viên chủ yếu là cán bộ, công chức, viên chức, hưu trí trong hệ thống chính trị các cấp được hưởng lương ngân sách, có thu nhập tốt, những người không phải là đảng viên thường là công nhân, nông dân, kinh doanh, dịch vụ là những nhóm người chịu thiệt thòi, rủi ro nhiều hơn khi thiên tai, lũ, lụt và sự cố môi trường xảy ra cho nên họ lo lắng về các vấn đề môi trường hơn những nhóm người được hỏi là đảng viên là hoàn toàn có cơ sở thực tiễn để lý giải (xem phụ lục số 4). 3.3.2. Mức độ hài lòng của nhân dân về hoạt động bảo vệ môi trường Mức độ hài lòng của nhân dân về bảo vệ môi trường được tập trung đo lường 4 hoạt động: hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường; ứng phó với các sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm môi trường; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên. Đo lường mức độ hài lòng của nhân dân về hoạt động bảo 99 vệ môi trường cũng thể hiện rõ 2 thuộc tính của dư luận xã hội là khuynh hướng và cường độ. Ở đây, khuynh hướng của dư luận xã hội là hài lòng hay không hài lòng? Và cường độ là rất hài lòng hay rất không hài lòng về bảo vệ môi trường. 3.3.2.1. Mức độ hài lòng của nhân dân về hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường Để đo lường mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường ở địa phương, nghiên cứu sinh đã sử dụng thang đo likert với (Rất hài lòng bằng 5 điểm; Hài lòng bằng 4 điểm; bình thường (không có ý kiến) bằng 3 điểm; Không hài lòng bằng 2 điểm và rất không hài lòng bẳng 1 điểm). Mức độ hài lòng trong thang đo likert, chỉ số điểm trung bình (hài lòng: mean phải đạt từ 3.41 đến 4.2 điểm; Rất hài lòng: mean phải đạt từ 4.21 đến 5 điểm). Điểm trung bình càng cao càng chứng tỏ mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về hoạt động giữ gìn phòng, chống ô nhiễm môi trường tại địa phương càng lớn. Kết quả số liệu bảng 10 cho thấy người dân địa phương chưa thực sự hài lòng với các hoạt động giữ gìn phòng, chống ô nhiễm môi trường tại địa phương bởi chỉ số điểm trung bình chưa đạt ngưỡng hài lòng (3.41 đến 4.2 điểm) và rất hài lòng (4.21 đến 5 điểm). Trong các hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường, người được hỏi hài lòng nhất với hoạt động nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường (3.26); công tác xây dựng chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (3.24); Tôn vinh các gương người tốt, việc tốt trong bảo vệ môi trường (3.21); Công tác tuyên truyền người dân về bảo vệ môi trường (3.19); Xây dựng các phong trào bảo vệ môi trường (3.19). Công tác dự báo các tác động môi trường từ các dự án công nghiệp được triển khai trên địa bàn tỉnh được ít người được hỏi (2.99) hài lòng nhất . 100 Bảng 10. Mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường Trung bình Độ lệch chuẩn 1. Công tác xây dựng chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường 3.24 1.16 2. Nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường 3.26 1.19 3. Công tác tuyên truyền người dân về bảo vệ môi trường 3.19 1.18 4. Tôn vinh các gương người tốt, việc tốt trong bảo vệ môi trường 3.21 1.21 5. Xây dựng các phong trào bảo vệ môi trường 3.19 1.14 6. Công tác dự báo các tác động môi trường từ các dự án công nghiệp được triển khai trên địa bàn tỉnh 2.99 1.24 Kết quả công tác xây dựng chính sách, pháp luật và nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường được nhiều người được hỏi bày tỏ thái độ hài lòng nhất là hoàn toàn có cơ sở bởi trong thời gian qua TU, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã rất quan tâm đến công tác này đã tập trung cao cho việc xây dựng các chủ trương, chính sách về bảo vệ môi trường. Nhiều Nghị quyết quan trọng của Tỉnh ủy được ban hành như: Nghị quyết số 05-NQ/TU tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với một số lĩnh vực về bảo vệ môi trường đến năm 2025 và những năm tiếp theo; HĐND tỉnh đã ban hành các nghị quyết có liên quan (gồm 04 Nghị quyết) và UBND tỉnh đã ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa, triển khai thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh (gồm 03 chỉ thị, 03 kế hoạch, 17 quyết định) [56, tr 3]. Nâng cao nhận thức cho người dân về bảo vệ môi trường là hoạt động của chính quyền tỉnh Hà Tĩnh được người dân hài lòng đứng thứ 2 cũng hoàn toàn có cơ sở bởi: từ năm 2014 đến nay đã tổ chức 04 lớp tập huấn các văn 101 bản pháp luật về bảo vệ môi trường cho cán bộ quản lý môi trường cấp tỉnh, cấp huyện và cán bộ cấp xã với hơn 300 lượt người tham dự; cho cán bộ các đoàn thể cấp tỉnh như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Liên minh Hợp tác xã; tập huấn hướng dẫn thực hiện các chỉ tiêu môi trường trong xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xây dựng nông thôn mới các cấp của tỉnh; đã tổ chức 04 lớp đào tạo nghiệp vụ bảo vệ môi trường trong kinh doanh xăng dầu, khí dầu mỏ hóa lỏng (PLG) trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh cho hơn 500 học viên; Tổ chức các buổi tập huấn, hội thảo tuyên truyền về nước sạch, vệ sinh môi trường, thu gom và xử lý rác thải, xử lý ô nhiễm môi trường sau bão lũ Hàng năm tỉnh đã chỉ đạo các huyện, thành phố, thị xã tổ chức các đợt tuyên truyền, phổ biến các văn bản QPPL về TNMT cho hàng nghìn lượt người tham gia. Giai đoạn 2014-2016 ở cấp huyện cũng đã tổ chức 25 lớp tập huấn phổ biến pháp luật về bảo vệ môi trường, với hơn 1500 lượt người tham dự gắn việc tuyên truyền pháp luật về BVMT trong chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó các huyện tổ chức tuyên truyền, phổ biến tốt như: Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Lộc Hà, Nghi Xuân; đã tổ chức 45 lớp tập huấn về công tác xây dựng nông thôn mới cho các cán bộ Ban chỉ đạo xây dựng NTM cấp huyện và cấp xã với khoảng 2.000 lượt người tham gia. Đặc biệt, từ năm 2011 đến nay, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh đã mở chuyên đề về TNMT, trong đó đã dành thời lượng và vị trí ưu tiên trong chương trình phát thanh truyền hình để tuyên truyền về TNMT đã góp phần nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ TNMT. Công tác tuyên truyền còn được tổ chức qua các hội thi với nội dung tuyên truyền cổ động về môi trường; cấp phát tờ rơi với các chủ đề về nước sạch vệ sinh môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên rừng và tài nguyên biển; phát động các phong trào ra quân làm vệ sinh môi trường, treo bằng cờ khẩu hiệu, diễu hành cổ động Các hoạt động này củng đã thu hút hàng trăm ngàn người tham dự, thông qua đó nâng cao nhận thức của cán bộ và nhân dân, góp phần đưa hoạt động BVMT đi vào 102 nề nếp và xây dựng ý thức tự giác BVMT trong mỗi người dân [56, tr 7]. Việc người được hỏi hài lòng với công tác xây dựng chính sách, pháp luật và nhận thức cho nhân dân về bảo vệ môi trường chỉ dừng lại ở việc hài lòng những nỗ lực và các công việc đã triển khai của chính quyền địa phương còn về thực chất, hiệu quả của các chủ trương chính sách, hiệu quả của công tác nâng cao nhận thức cho người dân là một vấn đề khác bởi thực tế kết quả nghiên cứu cho thấy nhận thức của nhân dân chưa tốt về các chủ trương, chính sách, pháp luật về môi trường. Kết quả số liệu cũng cho thấy một phát hiện đáng chú ý là: công tác dự báo các tác động môi trường từ các dự án công nghiệp được triển khai trên địa bàn tỉnh chưa được người dân trên địa bàn nghiên cứu hài lòng. Bởi thực tế công tác này chưa được quan tâm đúng mức trong việc phê duyệt triển khai các dự án bởi trong suốt thời gian qua việc thu hút đầu tư bằng mọi giá đã ảnh hưởng đến công tác dự báo các tác động môi trường từ các dự án công nghiệp được triển khai trên đại bàn tỉnh hoặc việc dự báo các rủi ro từ các khu công nghiệp mang lại được thực hiện nhưng chưa tuân thủ đúng theo các phương pháp khoa học dự báo chuẩn. Sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm xã hội về mức độ hài lòng về hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường Hoạt động phòng, chống ô nhiễm môi trường bao gồm rất nhiều các hoạt động. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền bảo vệ môi trường có liên quan mật thiết đến đề tài nghiên cứu. Do vậy, tác giả lựa chọn hoạt động này để đo lường sự khác biệt trong các nhóm xã hội (xem phụ lục số 4). - Nhóm người được hỏi là công nhân hài lòng với công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường thấp hơn so với các nhóm nghề khác. Cụ thể là: Công nhân (2.67); Nông dân (3.16); Hưu trí (3.11); Thương mại dịch vụ (3.94); Công chức, viên chức (3.15); Học sinh, sinh viên (3.14) (xem phụ lục số 4). 103 - Nhóm người được hỏi có điều kiện kinh tế nghèo thì hài lòng với công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường thấp hơn so với nhóm người được hỏi có điều kiện kinh tế khá hơn. Cụ thể là: Nghèo (3.04); Trung bình (3.25); Khá giả (3.19); Giàu (3.43) (xem phụ lục số 4). - Những người được hỏi không là đảng viên thì hài lòng với công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường thấp hơn so với nhóm người được hỏi là đảng viên. Cụ thể là: Không là đảng viên (3.13); Là đảng viên (3.32) (xem phụ lục số 4). - Những người được hỏi có theo tôn giáo thì hài lòng với công tác tuyên truyền về bảo vệ môi trường thấp hơn so với nhóm người được hỏi không theo tôn giáo. Cụ thể là: Có theo tôn giáo (2.96); Không theo tôn giáo (3.25) (xem phụ lục số 4). 3.3.2.2. Mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về những việc làm ứng phó với các sự cố môi trường Sự cố môi trường biển Formosa đã gây thiệt hại trên 360 thôn/ xóm thuộc 67 xã, phường của 7 huyện, thành phố, thị xã ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống, việc làm, thu nhập của trên 44000 lao động trực tiếp, gần 4000 lao động gián tiếp. Công ty Formosa đã hoàn thành các hạng mục công trình bảo vệ môi trường, lắp đặt thêm 4 bồn lọc cao tải tại xưởng xử lý nước thải công nghiệp Các cấp chính quyền tỉnh Hà Tĩnh cũng đã và đang nỗ lực ứng phó với các sự cố môi trường. Để đánh giá mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về những việc làm ứng phó với các sự cố môi trường, nghiên cứu sinh sử dụng thang đo likert (Rất hài lòng bằng 5; Hài lòng bằng 4; Bình thường bằng 3; Không hài lòng bằng 2; hoàn toàn không hài lòng bằng 1. Với thang đo likert về mức độ hài lòng, chỉ số điểm trung bình (Hài lòng: từ 3.41 đến 4.21; Rất hài lòng: từ 4.21 đến 5). Kết quả số liệu bảng 11 cho thấy người được hỏi chưa thực sự hài lòng với các hoạt động liên quan đến ứng phó các sự cố môi trường ở địa 104 phương. Điểm trung bình của các chỉ tiêu chỉ dao động từ mức điểm trung bình từ 3.11 đến 3.32, chưa đạt tới ngưỡng điểm hài lòng và rất hài lòng. So sánh trong nội bộ bốn chỉ tiêu đo lường được đưa ra, người được hỏi hài lòng nhất đối với: Công tác xây dựng kế hoạch phòng, chống ứng phó với thiên tai, lũ lụt, sự cố môi trường (3.32); Công tác tìm kiếm, cứu nạn do sự cố môi trường (bão, lũ, lụt ...); Diễn tập phòng, chống thiên tai, lũ lụt, sự cố môi trường (3.16); Công tác đền bù, hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống do sự cố môi trường xảy ra (3.11). Người được hỏi hài lòng nhất đối với công tác xây dựng kế hoạch phòng, chống ứng phó với thiên tai, lũ lụt, sự cố môi trường cũng hoàn toàn phù hợp với thực tiễn bởi trong thời gian qua, tỉnh Hà Tĩnh đã thực hiện điều tra, đánh giá để xác định các khu vực bị ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; khoanh vùng, cảnh báo để giảm thiểu nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe người dân; đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa các rủi ro, sự cố môi trường do thiên tai như lũ quét, sạt lở đất, dịch bệnh, sự cố cháy rừng, hướng dẫn vệ sinh môi trường sau thiên tai, lũ lụt. Bảng 11. Mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về những việc làm ứng phó với sự cố môi trường Trung bình Độ lệch chuẩn 1. Công tác xây dựng kế hoạch phòng, chống ứng phó với thiên tai, lũ lụt, sự cố môi trường 3.32 1.21 2. Diễn tập phòng, chống thiên tai, lũ lụt, sự cố môi trường 3.16 1.11 3. Công tác tìm kiếm, cứu nạn do sự cố môi trường (bão, lũ, lụt ...) 3.31 1.14 4. Công tác đền bù, hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống do sự cố môi trường xảy ra 3.11 1.13 105 Sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm xã hội về mức độ hài lòng về những việc ứng phó với sự cố môi trường Hoạt động ứng phó với sự cố môi trường bao gồm 4 hoạt động được nêu bên trên. Song, nghiên cứu sinh chỉ lựa chọn công tác đền bù, hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống do sự cố môi trường xảy ra để phân tích bởi thời điểm điều tra được tiến hành là công tác đền bù, hỗ trợ cho người dân sau sự cố Formosa đã được thực hiện. - Nhóm người được hỏi là công nhân hài lòng với công tác đền bù, hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống do sự cố môi trường xảy ra ít nhất so với các nhóm nghề nghiệp khác. Cụ thể là: công nhân (2.78); Nông dân (2.96); Hưu trí (3.34); Thương mại, dịch vụ (3.50); Công chức, viên chức (2.93); Học sinh, sinh viên (3.29) (xem phụ lục số 4). - Nhóm người được hỏi theo tôn giáo hài lòng với với công tác đền bù, hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống do sự cố môi trường xảy ít hơn so với nhóm không theo tôn giáo. Cụ thể là: Theo tôn giáo (2.91); Không theo tôn giáo (3.16) (xem phụ lục số 4). - Nhóm người được hỏi là đảng viên hài lòng với công tác đền bù, hỗ trợ người dân ổn định cuộc sống do sự cố môi trường xảy ra cao hơn so với nhóm người được hỏi không là đảng viên. Cụ thể là: đảng viên (3.24); Không là đảng viên (3.04) (xem phụ lục số 4). 3.3.2.3. Mức độ hài lòng các tầng lớp nhân dân về việc làm khắc phục ô nhiễm môi trường Kết quả số liệu bảng 12 cho thấy đại đa số người được hỏi chưa hài lòng với các hoạt động khắc phục ô nhiễm môi trường ở địa phương. Điểm trung bình của các việc làm khắc phục ô nhiễm môi trường chưa ở mức hài lòng và rất hài lòng (Hài lòng: từ 3.41 đến 4.2; Rất hài lòng: từ 4.21 đến 5). Trong số các hoạt động khắc phục ô nhiễm môi trường, hoạt động nắm bắt tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường được nhiều người được hỏi hài lòng nhất (điểm 106 trung bình=3.09); tiếp theo đó là các hoạt động được xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Công tác quy hoạch lại các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị gây ra ô nhiễm môi trường (3.04); Xử lý sai phạm đối với các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường (2.93); Công tác nghiên cứu khoa học về bảo vệ môi trường (2.97); Công tác hướng dẫn người dân khắc phục ô nhiễm môi trường (2.97). Công tác nắm bắt tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường được nhiều người được hỏi hài lòng nhất, phù hợp với việc đánh giá các hoạt động này của UBND tỉnh Hà Tĩnh. Từ năm 2011 đến nay, tỉnh Hà Tĩnh đã thanh tra, kiểm tra công tác bảo vệ môi trường với trên 340 cơ sở sản xuất, kinh doanh. Qua thanh tra xử phạt vi phạm hành chính đối với 43 cơ sở có sai phạm về lĩnh vực môi trường. Đặc biệt, từ sau sự cố môi trường biển gây hiện tượng cá chết hàng loạt tại 4 tỉnh miền Trung từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên Huế công tác thanh tra, kiểm tra giám sát về môi trường được các cấp chính quyền tỉnh Hà Tĩnh ngày một quan tâm. Bảng 12. Mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về những việc làm khắc phục ô nhiễm môi trường Trung bình Độ lệch chuẩn 1. Công tác nắm bắt tình hình, thanh tra, kiểm tra, giám sát về môi trường 3.09 1.11 2. Công tác quy hoạch lại các khu, cụm, điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị gây ra ô nhiễm môi trường 3.04 1.10 3. Xử lý sai phạm đối với các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường 2.93 1.16 4. Công tác nghiên cứu khoa học về bảo vệ môi trường 2.97 1.07 5. Công tác hướng dẫn người dân khắc phục ô nhiễm môi trường 2.97 1.17 107 Sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm xã hội về mức độ hài lòng về những việc làm khắc phục ô nhiễm môi trường Hoạt động khắc phục ô nhiễm môi trường bao gồm 5 hoạt động được nêu bên trên. Song, nghiên cứu sinh chỉ lựa chọn hoạt động xử lý sai phạm đối với các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường để phân tích sự khác biệt trong các nhóm xã hội. - Nhóm công nhân là nhóm hài lòng với công tác xử lý sai phạm đối với các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường ít nhất so với các nhóm nghề nghiệp còn lại. Cụ thể: công nhân (2.69); nông dân (2.84); hưu trí (2.94); thương mại, dịch vụ (3.53); công chức, viên chức (2.72); học sinh, sinh viên (2.95) (xem phụ lục số 4). - Nhóm người nghèo là nhóm hài lòng với công tác xử lý sai phạm đối với các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường ít hơn so với nhóm người có điều kiện kinh tế tốt hơn. Cụ thể: nghèo (2.78); trung bình (2.98); khá giả (2.86); giàu (3.30) (xem phụ lục số 4). - Nhóm theo tôn giáo hài lòng với công tác xử lý sai phạm đối với các tổ chức, cá nhân gây ra ô nhiễm môi trường ít hơn so với nhóm không theo tôn giáo. Cụ thể: theo tôn giáo (2.77); Không theo tôn giáo (2.97) (xem phụ lục số 4). 3.3.2.4. Mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về những việc làm sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên Kết quả số liệu bảng 13 cho thấy đại đa số người được hỏi chưa hài lòng với các hoạt động khắc phục ô nhiễm môi trường ở địa phương. Điểm trung bình của các việc làm khắc phục ô nhiễm môi trường không ở mức hài lòng và rất hài lòng (Hài lòng: từ 3.41 đến 4.2; Rất hài lòng: từ 4.21 đến 5). Chỉ số điểm trung bình của các chỉ báo đo lường chưa đạt ngưỡng hài lòng và rất hài lòng. Trong số các tiêu chí đo lường việc làm khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, người được hỏi hài lòng với “Nhận thức của người 108 dân về sự cần thiết phải khai thác tiết kiệm, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên” (3.05); Công tác tuyên truyền người dân sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên (3.05); Sử dụng công nghệ sạch, công nghệ cao trong sản xuất để có môi trường tự nhiên thân thiện (3.01). Người được hỏi không hài lòng nhất đối với Công tác xử lý sai phạm đối với tổ chức, cá nhân sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên không hợp lý (2.83); Công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên (2.84). Bảng 13. Mức độ hài lòng của các tầng lớp nhân dân về những việc làm sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên Trung bình Độ lệch chuẩn 1. Nhận thức của người dân về sự cần thiết phải khai thác tiết kiệm, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên 3.05 1.17 2. Công tác tuyên truyền người dân sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên 3.05 1.05 3. Sử dụng công nghệ sạch, công nghệ cao trong sản xuất để có môi trường tự nhiên thân thiện 3.01 1.15 4. Công tác giám sát khai thác tài nguyên thiên nhiên 2.92 1.17 5. Công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên 2.84 1.15 6. Công tác xử lý sai phạm đối với tổ chức, cá nhân sử dụng, khai thác tài nguyên thiên nhiên không hợp lý 2.83 1.24 Sự khác biệt ý kiến giữa các nhóm xã hội về mức độ hài lòng với các hoạt động sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên Hoạt động sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên bao gồm 6 hoạt động được nêu trên. Nghiên cứu sinh chỉ lựa chọn công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên để đo lường sự khác biệt trong các nhóm xã hội khác nhau. 109 - Những người được hỏi là công chức, viên chức nhóm nghề nghiệp hài lòng với công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên ít hơn so với nhóm nghề nghiệp khác. Cụ thể: công chức, viên chức (2.45); công nhân (2.57); nông dân (2.61); hưu trí (2.77); thương mại, dịch vụ (2.53); học sinh, sinh viên (3.29) (xem phụ lục số 4). - Những người được hỏi có điều kiện kinh tế khá giả hài lòng với công tác quản lý tài nguyên thiên nhiên ít hơn so với những người được hỏi có điều kiện kinh tế thấp hơn. Cụ thể: khá giả (2.83); giàu (3.07); trung bình (2.87); nghèo (2.72) (xem phụ lục số 4). 3.3.3. Mong muốn của nhân dân về bảo vệ môi trường Kết quả số liệu bảng 14 cho thấy những mong muốn của nhân dân đối với hoạt động bảo vệ môi trường tại địa bàn nghiên cứu xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Hoàn thiện các chính sách, pháp luật hiện hành về bảo vệ môi trường (70.6%); Có hình phạt thật nặng, nghiêm đối với các cá nhân, tổ chức gây ô nhiễm môi trường (65.9%); Được cung cấp kiến thức trong các hoạt động bảo vệ môi trường (63.1%); Đẩy mạnh các phong trào bảo vệ môi trường trên địa bàn Tỉnh (61.9%); Cung cấp đầy đủ thông tin, công khai, minh bạch về các vấn đề bảo vệ môi trường cho người dân (60.5%); Giải quyết chu đáo, đầy đủ các thắc mắc của người dân trong vấn đề môi trường và bảo vệ môi trường (60%); Được thoải m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_du_luan_xa_hoi_ve_bao_ve_moi_truong_qua_khao_sat_o_d.pdf
Tài liệu liên quan