PHẦN MỞ ĐẦU.1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.8
1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.8
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền vay
tại tổ chức tín dụng .8
1.2. Tình hình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo
đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng .16
1.3. Tình hình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân sự.19
2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận án .25
3. Những kết quả của các công trình nghiên cứu mà tác giả sẽ kế thừa .26
4. Những vấn đề mà luận án tiếp tục nghiên cứu.27
5. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu.28
5.1. Lý thuyết nghiên cứu của đề tài.28
5.2.Câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu của đề tài.30
5.3. Hướng tiếp cận nghiên cứu: .30
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG
THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM.34
2.1.Khái niệm, đặc điểm của tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ
chức tín dụng .34
2.2. Những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền
vay tại tổ chức tín dụng theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.44
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ GIÁM ĐỐC
THẨM, TÁI THẨM ĐỐI VỚI TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH
TIỀN VAY TẠI TỔ CHỨC TÍN DỤNG TỪ THỰC TIỄN CỦA TÕA ÁN
NHÂN DÂN TỐI CAO .64
3.1. Thực trạng pháp luật và thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh bảo đảm tiền vay tại tổ chức tín dụng ở Việt Nam.64
184 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng từ thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm của tòa án nhân dân tối cao, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thực tiễn ghi nhận trường hợp người có tài sản ủy quyền cho người
khác giao kết hợp đồng thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh tiền vay tại
Ngân hàng, sau khi lập hợp đồng ủy quyền và hợp đồng thế chấp thì người
chủ sở hữu tài sản (người ủy quyền) chết, sau đó các bên mới lập hợp đồng tín
dụng giữa người được ủy quyền với TCTD, trong đó người được ủy quyền
cam kết bảo lãnh cho khoản vay tại hợp đồng này. Khi xảy ra tranh chấp Tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm đều buộc những người thừa kế của người chết tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh [70].
Đây là vụ án phức tạp, cần phải xác định rõ giá trị pháp lý của từng hợp
đồng. Đối với hợp đồng ủy quyền và hợp đồng thế chấp tài sản được giao kết
khi người ủy quyền còn sống, nên các hợp đồng này không bị vô hiệu. Tuy
nhiên, khi ký hợp đồng tín dụng, người được ủy quyền ký vào hợp đồng này
với tư cách người bảo lãnh, tức là quan hệ bảo lãnh bắt đầu phát sinh từ khi
thiết lập hợp đồng tín dụng, nên đây là trường hợp bảo lãnh cho nghĩa vụ hình
79
thành trong tương lai và theo quy định của pháp luật thì nghĩa vụ phát sinh từ
hợp đồng tín dụng ký sau khi người bảo lãnh chết không nằm trong phạm vi
bảo lãnh [106, khoản 4 Điều 336]. Mặt khác, kể từ khi người chủ sở hữu tài sản
(người ủy quyền) chết thì quan hệ ủy quyền cũng chấm dứt, nên người được ủy
quyền ký vào hợp đồng tín dụng với tư cách bên bảo lãnh cũng sai [106, điểm đ
khoản 3 Điều 140]. Như vậy, mặc dù hợp đồng thế chấp tài sản là có hiệu lực,
nhưng việc thế chấp này là để đảm bảo cho nghĩa vụ bảo lãnh, trong khi đó quan
hệ bảo lãnh là vô hiệu, nên không làm phát sinh nghĩa vụ bảo lãnh. Do vậy,
không thể phát mại tài sản của người chết để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
- Bảo lãnh có điều kiện:
Theo quy định của Luật, “Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ
hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện” (khoản 2 Điều
293 BLDS 2015). Trong một vụ án cụ thể, bên bảo lãnh thế chấp tài sản để
bảo đảm cho nghĩa vụ bảo lãnh đối với khoản vay tại Ngân hàng, với điều
kiện cho phép người vay vay bổ sung sau khi tất toán khoản vay trước. Tuy
nhiên, các bên chưa tất toán khoản vay trước, nhưng lại vay bổ sung. Khi phát
sinh nghĩa vụ bảo lãnh, bên bảo lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối
với khoản vay bổ sung, vì chưa tất toán khoản vay trước. Tòa án xác định
không vô hiệu, người bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh [79, tr.518].
Tác giả cho rằng, trường hợp này cần phải xem xét, đánh giá, nếu cam kết bảo
lãnh có điều kiện này được thỏa thuận hợp pháp, được người nhận bảo lãnh
đồng ý thì phải được chấp nhận.
Bên bảo lãnh từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, vì lý do bên được
bảo lãnh không sử dụng tiền vay đúng mục đích, dẫn đến không có khả năng
trả nợ. Đối với trường hợp này thì tùy theo từng vụ án cụ thể, có trường hợp
Tòa án chấp nhận yêu cầu của bên bảo lãnh, chỉ thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh
đối với các khoản vay được sử dụng đúng mục đích, còn đối với các khoản
không sử dụng đúng mục đích thì không chịu trách nhiệm bảo lãnh [79,
tr.769]. Tuy nhiên, cũng có trường hợp Tòa án không chấp nhận lập luận của
80
bên bảo lãnh [79, Tr.489-498]. Theo quan điểm của tác giả thì trường hợp
người được bảo lãnh không sử dụng đúng mục đích khoản tiền vay không
phải là lý do để loại trừ trách nhiệm của bên bảo lãnh, trừ khi trong hợp đồng
bảo lãnh có thỏa thuận rõ về nội dung này.
Trường hợp có nhiều biện pháp bảo đảm cho một nghĩa vụ, trong đó có
bảo lãnh và thế chấp tài sản của bên vay, quá trình thực hiện, Ngân hàng đã
cho phép người được bảo lãnh rút tài sản thế chấp, chỉ còn lại tài sản của bên
bảo lãnh. Tòa án cấp giám đốc thẩm cho rằng việc cho rút bớt tài sản thế chấp
là không trái với các quy định của BLDS 2005 [Điều 319, 347] và Thông tư
07/2003/TT-NHNN ngày 19/5/2003 của Ngân hàng Nhà nước [79, tr.659].
Tuy nhiên, trong quyết định khác của cấp giám đốc thẩm lại yêu cầu làm rõ
xem người bảo lãnh có biết việc Ngân hàng cho người được bảo lãnh rút tài
sản thế chấp hay không để xác định có việc giữa Ngân hàng và bên được bảo
lãnh câu kết với nhau để đẩy trách nhiệm cho bên bảo lãnh [79, tr.615-616; 23
(cũ)]. Như vậy, đối với các trường hợp này thì TANDTC cũng không ấn định
hướng giải quyết mà hoàn toàn dựa vào chứng cứ của từng vụ án cụ thể để
đánh giá ý chí thực của bên bảo lãnh để xác định trách nhiệm bảo lãnh của họ.
Tác giả cho rằng, cần phải xác định rõ thời điểm giao kết hợp đồng bảo lãnh
đã tồn tại các hợp đồng thế chấp hay chưa? Nếu đã tồn tại và sự tồn tại này là
một trong những nguyên nhân làm cho người bảo lãnh ký kết hợp đồng bảo
lãnh, thì khi rút tài sản thế chấp cần phải được sự đồng ý của bên bảo lãnh.
Ngược lại, nếu khi ký kết hợp đồng bảo lãnh, bên bảo lãnh không quan tâm
đến việc nghĩa vụ được bảo lãnh đã được bảo đảm bằng biện pháp bảo đảm
khác, mà tự nguyện bảo đảm cho toàn bộ nghĩa vụ của bên được bảo lãnh, thì
việc rút tài sản thế chấp không ảnh hưởng đến quan hệ bảo lãnh, nên không
cần sự đồng ý của bên bảo lãnh.
81
3.2. Thực trạng pháp luật về xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng
- Về việc phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm:
Theo quy định của BLTTDS 2015, người có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật dựa trên cơ sở đề nghị của chính đương sự của vụ án; dựa trên
thông báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; và dựa trên kiến nghị của
Chánh án TAND cấp dưới (Điều 327 BLTTDS).
Trường hợp đương sự đề nghị phải bằng văn bản và chỉ được thực hiện
trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Việc ấn định thời hạn đề nghị 01 năm từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật
được thực hiện từ BLDS 2004 (sửa đổi năm 2011), các quy định trước đó
không ấn định thời hạn đề nghị, thời hạn này hoàn toàn phụ thuộc vào thời
hạn kháng nghị của người có thẩm quyền.
Đối với thông báo của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác về việc bản án,
quyết định có vi phạm pháp luật cũng phải được thực hiện bằng văn bản và
hiện tại Luật không ấn định thời hạn thông báo. Thực tế đang có cách hiểu rất
khác nhau về văn bản thông báo. Theo đúng quy định của luật thì trường hợp
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác phát hiện bản án có sai sót nên thông báo cho
người có thẩm quyền. Trong thực tiễn, rất ít trường hợp thông báo đúng tinh
thần quy định nêu trên, việc thông báo chỉ thực hiện trên cơ sở đơn đề nghị
của đương sự (thông báo chỉ mang tính chất chuyển đơn đề nghị), trường hợp
này còn có cách hiểu khác nhau, có đơn vị xác định là thông báo, đơn vi khác
chỉ xác định là đơn đề nghị của đương sự. Việc xác định chính xác là thông báo
hay đơn đề nghị có ảnh hưởng đến việc còn thời hạn thụ lý hay không và có
thuộc trường hợp được kéo dài thời hạn giám đốc thẩm đến 05 năm hay không.
Trường hợp Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TANDCC phát hiện
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có sai sót thì có thể kiến nghị
82
(bằng văn bản) đối với Chánh án TAND cấp trên xem xét kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Trường hợp này cũng không bị giới hạn thời
gian kiến nghị. Đây là quy định mới được bổ sung trong BLTTDS 2015, Bộ
luật TTDS trước đó không có quy định này. Tuy nhiên, quy định này lại thiếu
trường hợp kiến nghị của Chánh án TAND cấp huyện.
Theo số liệu thống kê của Vụ Giám đốc kiểm tra các loại án dân sự,
kinh tế Tòa án nhân dân tối cao (sau đây gọi tắt là Vụ Giám đốc kiểm tra II)
từ 2015-2019, 100% các vụ án tranh chấp hợp đồng bảo lãnh bảo đảm tiền
vay tại TCTD bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đều do
đương sự có yêu cầu (có thể gửi đơn trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ
chức, cá nhân khác).
Đối với VKSND, như đã nêu tại tr.64 của luận án, Viện trưởng
VKSND cấp trên (từ cấp cao trở lên) có quyền tự mình ban hành kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án
cấp dưới. Từ 2013-2018, có tổng số 10/66 vụ án tranh chấp hợp đồng bảo
lãnh tiền vay tại TCTD bị Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, đạt tỷ lệ 15,15%. Tuy nhiên, trong số 10 kháng nghị của Viện
trưởng VKSNDTC, có 04 kháng nghị không được Hội đồng Thẩm phán
TANDTC chấp nhận. Như vậy, tỷ lệ kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC
không được chấp nhận là 40%, một tỷ lệ khá cao, so với 100% kháng nghị
của Chánh án TANDTC đều được Hội đồng Thẩm phán TANDTC chấp nhận
[Nguồn dữ liệu của Vụ II.]
- Các quy định về người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Theo quy định tại Điều 331 BLTTDS năm 2015 thì Chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực của TANDCC; bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết, trừ quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; Chánh án TAND cấp
cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện
83
trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Các quy định này được áp dụng
chung cho các vụ án dân sự, thẩm quyền kháng nghị đối với các bản án, quyết
định giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD cũng tuân thủ
các quy định này.
Như vậy, so với BLTTDS 2004 sửa đổi năm 2011, có một số điểm
mới sau: Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh không còn
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đối với bản án,
quyết định có hiệu lực của TAND cấp huyện; thay vào đó là thẩm quyền
thuộc Chánh án TAND cấp cao và Viện trưởng VKSND cấp cao theo lãnh thổ
có quyền kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án cấp huyện và Tòa án cấp
tỉnh trong phạm vi lãnh thổ.
Sau gần 05 năm thực hiện, các quy định này đã bộc lộ những bất cập.
Thứ nhất là số lượng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm gửi TAND cấp cao
quá nhiều, đặc biệt là tại TANDCC Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, nên
số lượng đơn tồn đọng lớn; thứ hai là Chánh án TAND tỉnh không còn quyền
kháng nghị giám đốc thẩm, nên không kịp thời khắc phục những bản án,
quyết định có sai sót nghiêm trọng của TAND cấp huyện. Do vậy, tại Hội
nghị tổng kết công tác năm 2018, triển khai công tác năm 2019 của
TANDTC, hầu hết các Chánh án TAND cấp tỉnh đều đề nghị sửa quy định
này theo hướng trao lại quyền kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện cho Chánh án
TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp tỉnh. Tác giả cho rằng đề nghị này
là chính đáng và cần phải xem xét để sửa luật, vì ngoài việc đảm bảo tính kịp
thời khắc phục những sai sót của Tòa án cấp dưới, còn có nguyên nhân khác
cũng không kém phần quan trọng đó là việc quản lý về nghiệp vụ đối với các
Thẩm phán, Tòa án dưới quyền của Chánh án TAND cấp tỉnh.
- Về các căn cứ giám đốc thẩm:
Khoản 1 Điều 326 BLTTDS năm 2015 quy định 03 căn cứ để người
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật, cụ thể như sau:
84
Một là, kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những
tình tiết khách quan của vụ án, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự.
Kết luận của Tòa án trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án cũng có nghĩa là Tòa án giải quyết vụ án
không đúng với bản chất của vụ việc. Các sai sót này thường xảy ra đối với
các vụ án khi giải quyết phải căn cứ vào các chứng cứ gián tiếp, không có
chứng cứ trực tiếp, tức là phải đánh giá rất nhiều chứng cứ để đưa ra quyết
định. Quy định này về cơ bản không khác so với BLTTDS trước đó. Tuy
nhiên, điểm mới trong BLTTDS 2015 là những vi phạm nêu trên phải dẫn đến
hậu quả là gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Quy định bổ
sung này là hoàn toàn phù hợp, vì chỉ nên kháng nghị để giải quyết lại nếu sai sót
làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự, trường hợp có sai sót, nhưng không
ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự thì không cần thiết phải kháng nghị, kéo
dài thời gian giải quyết vụ án và kết quả vẫn không thay đổi.
Hai là, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự
không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi
ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
Hiện nay chưa có văn bản pháp luật tố tụng dân sự nào quy định thế
nào là “vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng”. Trên thực tế các vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng thường gặp như: Chưa xác định đầy đủ đương sự
trong vụ án; chưa làm rõ vấn đề cần chứng minh trong vụ án; xác định sai
thẩm quyền giữa Tòa án và cơ quan hành chính; xác định sai người đại diện;
vi phạm thủ tục trong việc xét xử vắng mặt đương sự, tiến hành định giá tài
sản không có mặt của đương sự hoặc thành phần của Hội đồng định giá không
đúng; nội dung bản án không phù hợp với diễn biến phiên tòa được thể hiện
tại biên bản phiên tòaTuy nhiên, điểm quan trọng là những vi phạm này
làm cho quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự không được bảo vệ đúng theo
quy định, khi đó mới đủ điều kiện để kháng nghị giám đốc thẩm. Đây cũng là
điểm mới trong Bộ luật TTDS 2015 so với Bộ luật TTDS 2004.
85
Ba là, có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án,
quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, quyền lợi ích của
người thứ ba.
Sai lầm trong việc áp dụng pháp luật là việc Tòa án đã áp dụng sai các
quy định của pháp luật vào việc giải quyết vụ án. Sai lầm này có thể là hệ quả
của việc đánh giá chứng cứ không đúng, chẳng hạn đối với vụ án tranh chấp
hợp đồng thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng các cơ quan tiến
hành tố tụng lại đánh giá hợp đồng thế chấp này bảo đảm cho nghĩa vụ chính
hoặc quan hệ này chỉ là bảo lãnh (thực tế này khá phổ biến), nên áp dụng
thiếu hoặc không đúng quy định của pháp luật.
Các sai lầm trong việc áp dụng pháp luật còn thể hiện dưới dạng Tòa
án đã áp dụng văn bản pháp luật không đúng, không còn hiệu lực. Chẳng hạn,
trong không ít trường hợp các bên tranh chấp hợp đồng tín dụng có biện pháp
bảo đảm là bảo lãnh, nhưng Tòa án áp dụng các quy định của Luật Thương
mại để giải quyết là không đúng; hoặc trường hợp các hợp đồng tín dụng, hợp
đồng bảo lãnh được giao kết ở thời điểm BLDS 2005 có hiệu lực thi hành,
nhưng khi giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng lại áp dụng các quy
định của BLDS 2015 để giải quyết.
Tương tự như hai căn cứ ở trên, khi áp dụng căn cứ này để kháng nghị
giám đốc thẩm, luật cũng quy định bản án, quyết định bị kháng nghị phải gây
thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích
công cộng, lợi ích Nhà nước, quyền, lợi ích của người thứ ba. Trường hợp
mặc dù có việc áp dụng pháp luật không đúng, nhưng không có thiệt hại xảy
ra thì không kháng nghị.
Qua nghiên cứu, khảo sát 66 Quyết định giám đốc thẩm các vụ án
tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD, tác giả nhận thấy, đa số
quyết định đều dựa trên hơn một căn cứ để kháng nghị, và thường là có cả vi
phạm về tố tụng, vi phạm về nội dung và sai sót trong cách tuyên của Tòa án
86
(46/66 quyết định kháng nghị với các căn cứ cả về nội dung, tố tụng và cách
tuyên của Tòa án, tỷ lệ 69,7%). Chỉ 19/66 quyết định kháng nghị với duy nhất
một căn cứ và đều là căn cứ mang tính chất vi phạm về nội dung (tính lãi suất
không đúng, chưa làm rõ tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, chưa xử lý
tài sản trên đất...). Như vậy, có thể thấy, trường hợp các vụ án chỉ thuần túy vi
phạm về tố tụng mà không ảnh hưởng đến nội dung, nội dung đã giải quyết
đúng, đảm bảo quyền lợi của đương sự thì sẽ không kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm.
Về thời hạn yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định:
Pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam hiện tại đang quy định theo hướng
thời hạn yêu cầu giám đốc thẩm của đương sự là 01 năm kể từ ngày bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật. Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì phải thông báo, kiến nghị bằng văn
bản cho người có thẩm quyền kháng nghị [114, khoản 1,2, 3 Điều 327].
Các quy định này của BLTTDS làm nảy sinh nhiều quan điểm trái
chiều trong thực tiễn. Thứ nhất, khái niệm “tổ chức, cá nhân khác” là những
chủ thể nào, có bao gồm các cơ quan như Cơ quan Thi hành án dân sự, Văn
phòng Luật sư, Công ty Luật hay cá nhân bất kỳ biết về vụ án? Thứ hai,
khoản 2 và khoản 3 không ấn định thời hạn thông báo, kiến nghị của cơ quan,
tổ chức, cá nhân. Vậy, có được hiểu là trong thời hạn (03 năm) kháng nghị
giám đốc thẩm quy định tại Điều 334 hay không; nếu là như vậy thì tại sao
đương sự lại chỉ có quyền đề nghị trong hạn 01 năm còn cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác lại được quyền thông báo, kiến nghị trong hạn 03 năm? Đối với
trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị (03 năm) mà thuộc trường hợp đương
sự đã có đơn trong hạn 01 năm, sau khi hết hạn 03 năm họ tiếp tục có đơn đề
nghị giám đốc thẩm, thì thời hạn được kéo dài thêm 02 năm. Tuy nhiên, quy
định này lại không được áp dụng đối với trường hợp thông báo, kiến nghị của
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác. Các quy định nêu trên tạo ra sự bất bình đẳng
87
giữa các chủ thể có quyền yêu cầu. Ngoài ra, theo quy định của Luật thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu
cầu Cơ quan Thi hành án dân sự ra Quyết định thi hành án trong thời hạn 05
năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật [Điều 30], nhưng
thời hạn để cơ quan Thi hành án kiến nghị chỉ là 03 năm kể từ ngày bản án có
hiệu lực pháp luật, điều này là mâu thuẫn. Thực tế, có nhiều trường hợp quá
hạn 03 năm cơ quan Thi hành án ra quyết định Thi hành án mới phát hiện bản
án, quyết định tuyên không chính xác, không thể thi hành được [70, tr. 17-19].
Vấn đề này phổ biến, bức xúc tới mức TANDTC đang có Tờ trình để xin ý
kiến UBTVQH theo một trong các hướng: gia hạn thời hạn kiến nghị giám
đốc thẩm đối với cơ quan Thi hành án, hoặc xác định kiến nghị của cơ quan
Thi hành án là tình tiết mới để kháng nghị tái thẩm [Tờ trình số
252/TANDTC-PC ngày 15/5/2019]. Tuy nhiên, UBTVQH không đồng ý với
cả hai phương án nêu trên, đề nghị TANDTC tiếp tục tổng hợp những vướng
mắc trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự để kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền khi sửa đổi BLTTDS [Công văn 392/UBTVQH14-TP].
Đối với tái thẩm, Luật không giới hạn thời hạn yêu cầu tái thẩm, tức là
người có quyền có thể yêu cầu tái thẩm vào bất cứ thời điểm nào, miễn sao
đảm bảo được các điều kiện để kháng nghị tái thẩm, nhưng Luật khống chế
thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm của người có thẩm quyền là 01 năm,
kể từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm [114, Điều 355]. Quy định này là hoàn toàn phù hợp, vấn
đề chỉ cần xác định rõ hơn ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được
căn cứ kháng nghị là ngày nào.
Qua khảo sát 10 vụ án có kháng nghị của Viện trưởng VKSNDTC: có
02 vụ thời hạn kháng nghị dưới 01 năm, có 07 vụ thời hạn dưới 02 năm và 01
vụ thời hạn kháng nghị thiếu 01 ngày là tròn 03 năm kể từ ngày bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật.
88
Trong khi đó, 56 vụ án do Chánh án TANDTC kháng nghị, có: 04 vụ
Chánh án kháng nghị trong thời hạn dưới 01 năm kể từ ngày xét xử phúc
thẩm; 02 vụ thời hạn này là trên 01 năm, nhưng dưới 02 năm; 38 vụ Chánh án
ban hành quyết định kháng nghị khi thời hạn giám đốc thẩm chỉ còn tính bằng
ngày, cá biệt có những vụ chỉ còn 1, 2, ngày (tỷ lệ 68%); có 02 vụ tính đến
ngày kháng nghị giám đốc thẩm là tròn 03 năm kể từ ngày xét xử phúc thẩm;
có 01 vụ Chánh án kháng nghị sau khi xét xử phúc thẩm trên 04 năm, dưới 05
năm (vụ án thuộc diện được kéo dài thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm)
(Nguồn Vụ Giám đốc Kiểm tra II TANDTC).
Như vậy, số liệu thống kê thể hiện, các vụ án do Viện trưởng
VKSNDTC kháng nghị thường có thời hạn kháng nghị ngắn hơn so với
Chánh án TANDTC. Đại đa số các vụ án do Chánh án TANDTC kháng nghị
đều có thời hạn trên 02 năm (chiếm 89,4%), và phần nhiều là gần đủ 03 năm
(chiếm 57,6%).
- Về thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm
Theo quy định của BLTTDS hiện hành, Ủy ban Thẩm phán TANDCC
có thẩm quyền xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định
của Tòa án cấp huyện, cấp tỉnh trong phạm vi lãnh thổ bị kháng nghị; Hội
đồng Thẩm phán TANDTC xét xử các bản án, quyết định của các TANDCC
bị kháng nghị.
Như vậy, thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm có thay đổi so với Bô luật
TTDS 2004, việc thay đổi này nhằm tương thích với việc tổ chức lại hệ thống
Tòa án 04 cấp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm
có phần không tương thích với thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm. Trong thực tế, có nhiều trường hợp Chánh án TAND tối cao
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án có hiệu lực pháp luật
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, thậm chí bản án của Tòa án cấp huyện, khi đó
sẽ giao về Ủy ban Thẩm phán TANDCC theo địa bàn để xét xử theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm đúng theo thẩm quyền.
89
Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm:
Bộ luật TTDS của Việt Nam đang quy định theo hướng Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm có các quyền: Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng
pháp luật của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; Hủy một phần hoặc toàn
bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại theo thủ
tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; Hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án; Sửa một phần hoặc toàn bộ bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật [114, Điều 343].
Trong các quyền nêu trên của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm thì quyền
sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án là
một trong những quyền còn có nhiều ý kiến khác nhau. Thực tế, quyền này đã
được quy định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, nhưng sau
đó đã bỏ ra khỏi các quy định của BLTTDS, đến BLTTDS 2015, nhà làm
Luật lại tiếp tục trao quyền này cho Hội đồng xét xử.
Một vấn đề cũng còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến thẩm
quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm là Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có quyền hủy quyết định giám đốc thẩm
của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao; giao Ủy ban Thẩm phán
Tòa án nhân dân cấp cao giải quyết lại theo thủ tục giám đốc thẩm hay
không? Thực tế xét xử tại Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã có trường hợp
này. Tuy nhiên Điều 343 BLTTDS không quy định quyền này.
Trong tổng số 66 Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao xét xử các vụ án tranh chấp liên quan đến hợp đồng bảo lãnh
bảo đảm tiền vay tại TCTD được khảo sát, có 45 vụ hủy bản án phúc thẩm, bản
án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại (68,2%); 17 vụ hủy bản án phúc thẩm để xét
xử phúc thẩm lại (25,75%); có 04 vụ Hội đồng Thẩm phán không chấp nhận
kháng nghị, giữ nguyên bản án phúc thẩm (đều do Viện trưởng VKSNDTC
90
kháng nghị); Có 03 trường hợp hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, bản
án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại, mặc dù quyết định đình chỉ xét xử phúc
thẩm không có sai sót, nhưng do bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật theo quyết
định phúc thẩm, nên phải hủy cả quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm; chưa ghi
nhận trường hợp nào Hội đồng Thẩm phán sửa một phần hoặc toàn bộ bản án
của cấp dưới; và không có vụ án nào Hội đồng Thẩm phán hủy bản án phúc
thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm [nguồn dữ liệu Vụ II].
Hội đồng xét xử tái thẩm có các quyền: Không chấp nhận kháng nghị và
giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do Bộ luật này
quy định; Hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải
quyết vụ án.[114, Điều 356]. Tuy nhiên, trong thời gian nghiên cứu, chưa ghi
nhận trường hợp nào người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
đối với các tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại TCTD.
3.3. Thực tiễn xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tranh chấp hợp
đồng bảo lãnh tiền vay tại tổ chức tín dụng tại Tòa án nhân dân tối cao
3.3.1. Thực trạng đơn đề nghị, kết quả thụ lý, giải quyết theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm đối với tranh chấp hợp đồng bảo lãnh tiền vay tại
tổ chức
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_bao_lanh_tien_vay_tai.pdf