MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 6
1.1. Nội dung các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10
1.2. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến đề
tài luận án
23
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬ VỀ
XỬ LÝ VI PHẠ PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
26
2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của xử lý vi phạm pháp luật trong thi
hành án dân sự
26
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật về
xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân ự
38
2.3. Khái niệm, ý nghĩa và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về xử lý vi
phạm pháp luật trong thi hành án dân sự
70
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ
86
3.1. Thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân
sự
86
3.2. Thực trạng hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi
hành án dân sự
106
Chương 4: GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN Ự
126
4.1. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong
thi hành án dân sự
126
4.2. Giải pháp về thực hiện xây dựng, hoàn thiện pháp luật 131
4.3. Giải pháp về nhận thức tư tưởng 150
4.4. Giải pháp về tổ chức thực hi n 156
KẾT LUẬN 162
NHỮNG CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 166
PHỤ LỤC
181 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 22/02/2022 | Lượt xem: 398 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở vật chất - kỹ thuật, thời gian, địa điểm, kế hoạch, tiến độ hoàn thành, kết
quả đạt được... Đối với nội dung xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS cần xác định r mức độ, phạm vi, khối lượng công việc trong mỗi giai đoạn xây
dựng và hoàn thiện các văn bản Q L, làm cho chúng phù hợp với mục tiêu và khả
năng thực tế để thực hiện. Tính khoa học đòi hỏi pháp luật về XLV L trong TH DS
được biểu hiện ở nội dung và hình thức các kết quả cụ thể đã đạt được trong mỗi giai
đoạn của quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS [53].
Về nội dung pháp luật: Tính khoa học đòi hỏi pháp luật về XLV L trong
TH DS được xây dựng và hoàn thiện theo những nguyên tắc tối ưu, xác định được
chính xác cơ cấu nội tại của nó và ở trình độ kỹ thuật lập pháp cao. Nội dung pháp
luật về XLV L trong TH DS phải được xây dựng theo quan điểm toàn diện, có
đủ luận cứ khoa học, mang tính phổ thông và ổn định cao.
82
Về hình thức thể hiện của pháp luật: háp luật về XLV L trong TH DS phải
được biểu đạt bằng ngôn ngữ pháp lý r ràng, cô đọng, lô gíc, chính xác và một nghĩa.
Tính khoa học đặt ra yêu cầu cần phải huy động được trí tuệ của con người
cũng như những trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS. Việc huy động được trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ của các nhà
khoa học, sẽ xây dựng được những quan điểm khoa học mang tính toàn diện, đề ra
những luận cứ khoa học phù hợp để hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS. Việc huy động các trang thiết bị hiện đại sẽ giúp cho công tác hoàn thiện
pháp luật về XLV L trong TH DS được thực hiện ở một trình độ kỹ thuật cao,
đáp ứng được yêu cầu của thực ti n và thời đại.
2.3.3.5. Tí t ực t ễ
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền, một mặt, thường xuyên
nghiên cứu, khảo sát nhu cầu, đòi hỏi về sự điều chỉnh của pháp luật về XLV L
trong TH DS, mặt khác, có tính tới khả năng, điều kiện hiện có để thực hiện các
Q L sẽ được ban hành. Bên cạnh đó, các chủ thể có thẩm quyền xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải thường xuyên tổng kết thực ti n
xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS để rút ra những bài học,
kinh nghiệm cần thiết [53].
Tính thực ti n đòi hỏi công tác hoàn thiện pháp luật về XLV L trong
TH DS phải thường xuyên có sự kiểm nghiệm và đánh giá, tổng kết pháp luật qua
thực ti n thi hành. Qua quá trình kiểm nghiệm, tổng kết, có thể đánh giá được mức
độ phù hợp cũng như tính khả thi của pháp luật về XLV L trong TH DS, đồng
thời, có thể dự liệu được những vấn đề phát sinh trong quan hệ xã hội cần có sự
điều chỉnh của pháp luật, từ đó, có sự sửa đổi, bổ sung hoặc điều chỉnh kịp thời
những nội dung của pháp luật về XLV L trong TH DS cho phù hợp và đáp ứng
đầy đủ những yêu cầu của thực ti n.
2.3.3.6. Tí cô g k a , b c
Tính công khai, minh bạch bắt nguồn từ quyền lực của pháp luật, trong điều
kiện hội nhập quốc tế, là một đòi hỏi, yêu cầu khách quan của hệ thống pháp luật
nói chung, pháp luật về XLV L trong TH DS nói riêng [53].
Tính công khai, minh bạch đòi hỏi pháp luật về XLV L trong THADS
phải được ban hành đúng thẩm quyền, theo trình tự luật định và công bố rộng rãi
theo quy định của pháp luật. Mọi trình tự, thủ tục của pháp luật về XLV L trong
83
TH DS phải đầy đủ, r ràng, cụ thể, ổn định, có thể dự đoán trước, tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận và thực hiện, tránh được sự tùy tiện.
Tính công khai, minh bạch đòi hỏi các văn bản pháp luật về XLV L trong
TH DS phải tiến tới được ban hành với hình thức pháp lý cao, hạn chế tối đa các
văn bản mang tính chất hướng dẫn, có phạm vi điều chỉnh hẹp hoặc giới hạn nội bộ.
Ngôn ngữ thể hiện trong mỗi văn bản phải r ràng, cụ thể, mạch lạc, một nghĩa và
d hiểu, d thực hiện [53].
Trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
tính công khai, minh bạch đòi hỏi các nhà làm luật phải có sự nghiên cứu, am hiểu
sâu về pháp luật trong nước cũng như pháp luật quốc tế, tuân thủ triệt để các nguyên
tắc lập pháp trong quá trình thực hiện, đồng thời, phải có sự đánh giá đúng đắn và
đầy đủ về trình độ phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như trình độ nhận
thức của người dân ở mỗi thời điểm... để quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của tính công khai,
minh bạch về cả nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật.
2.3.3.7. Tí dâ c ủ
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS phải
có sự tham gia rộng rãi, tích cực của nhân dân và các tổ chức xã hội dưới các hình
thức khác nhau.
Tính dân chủ đòi hỏi các Q L về XLV L trong TH DS phải thể hiện
được ý chí, nguyện vọng chính đáng của đông đảo nhân dân, đồng thời, phải có cơ
chế để nhân dân tham gia, giám sát quá trình thực hiện một cách có hiệu quả.
Tính dân chủ đòi hỏi pháp luật về XLV L trong TH DS phải được thể
hiện bằng các hình thức phù hợp với trình độ nhận thức của nhân dân, được di n đạt
d hiểu, d tiếp cận và thực hiện, ngôn ngữ pháp lý mang tính phổ thông cao [53].
Trong công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS,
tính dân chủ đòi hỏi Nhà nước phải công bố, công khai và tổ chức lấy ý kiến rộng
rãi đến các tầng lớp nhân dân về quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung. Nhà nước
cũng cần có những thiết chế tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân có thể tiếp cận và
tham gia đóng góp ý kiến của mình trong quá trình xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp
luật về XLV L trong TH DS.
Ngoài ra, để xác định được mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L
trong TH DS cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác như: Tính khả thi, tính hiệu
quả, tính thống nhất, tính hiện đại, tính cụ thể, tính xã hội hóa, trình độ kỹ thuật lập
84
pháp... Những tiêu chí này cùng với các tiêu chí cơ bản như nêu trên là cơ sở giúp
cho việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong TH DS được
đầy đủ và toàn diện.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
1. VPPL trong TH DS là hành vi trái pháp luật, có lỗi do chủ thể có năng
lực TN L thực hiện, xâm hại các quan hệ xã hội trong lĩnh vực TH DS, được pháp
luật về TH DS xác lập và bảo vệ. V L trong TH DS gồm có: V L hành chính,
tội phạm, V L dân sự, vi phạm kỷ luật, V L gây thiệt hại trong khi thi hành
công vụ về TH DS và V L gây thiệt hại về vật chất cho cơ quan TH DS. V L
trong TH DS là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu TN L trong TH DS. Mỗi
V L trong TH DS có TN L tương ứng: Trách nhiệm hành chính, trách nhiệm
hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
trách nhiệm hoàn trả của người gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và trách
nhiệm vật chất trong TH DS.
2. XLV L trong TH DS là hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
nhà nước và cá nhân có thẩm quyền nhằm xử lý đối với chủ thể thực hiện hành vi
V L trong TH DS bằng nhiều biện pháp khác nhau tương ứng với mỗi loại V L
có tính chất cưỡng chế và thể hiện quyền lực nhà nước. XLV L trong TH DS
gồm có: XLV L hành chính, xử lý tội phạm hình sự, XLV L dân sự, xử lý vi
phạm kỷ luật, XLV L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ và XLV L gây
thiệt hại cho cơ quan TH DS. XLV L trong TH DS có những dấu hiệu, đặc
điểm chung của XLV L, đồng thời, có những đặc trưng riêng cho phép phân biệt
với XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. XLV L trong TH DS
có ý nghĩa rất quan trọng, là hoạt động phòng ngừa, đấu tranh chống V L trong
TH DS, bảo đảm công bằng trong TH DS, bảo đảm tính nghiêm minh của những
bản án, quyết định được thi hành theo quy định của pháp luật về TH DS, đồng
thời, đó cũng là hoạt động góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác
TH DS, là cơ sở bảo đảm cho các quy định của pháp luật về TH DS được thực thi
đúng đắn, nghiêm minh và hiệu quả trong thực ti n, góp phần bảo đảm an ninh trật
tự và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS.
3. háp luật về XLV L trong TH DS là tổng thể các Q L điều chỉnh
hoạt động xử lý đối với những hành vi V L xâm hại các quan hệ xã hội phát sinh
trong tổ chức và hoạt động TH DS. Nội dung pháp luật về XLV L trong TH DS
bao gồm toàn bộ các quy định về V L; TN L; đối tượng chịu TN L; thời hiệu
85
truy cứu TN L; các hình thức và biện pháp XLV L; thẩm quyền XLV L; trình
tự, thủ tục XLV L và giải quyết khiếu nại, tố cáo về XLV L trong TH DS.
Hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS rất đa dạng và phong
phú, bao gồm nhiều văn bản Q L với các thứ bậc khác nhau, liên quan đến nhiều
luật chuyên ngành khác nhau. háp luật về XLV L trong TH DS có những đặc
trưng riêng do đặc thù của lĩnh vực TH DS quyết định. Chính điều này là cơ sở để
phân biệt bản chất của pháp luật về XLV L trong TH DS với pháp luật về
XLV L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
4. Hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS là quá trình hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác nhau, dựa trên những nguyên tắc nhất định
và bằng các hình thức, biện pháp khác nhau trên cơ sở cụ thể hóa ý chí của nhà
nước và nguyện vọng của nhân dân. Mục tiêu là làm cho hệ thống pháp luật
XLV L trong TH DS được toàn diện, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch,
có tính khả thi cao, có sự đổi mới căn bản, có đầy đủ các chế định pháp luật và hệ
thống Q L về XLV L trong TH DS, đáp ứng được yêu cầu quản lý và duy trì
trật tự pháp luật TH DS ổn định, trong khuôn khổ pháp luật, đáp ứng được yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng như
nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Quá trình hoàn thiện pháp luật về
XLV L trong TH DS chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, do đó, Nhà
nước cần có các điều kiện để đảm bảo cho quá trình đó được hiệu quả và đáp ứng
được yêu cầu của thực ti n. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong THADS
cần phải được tiến hành về cả nội dung và hình thức thể hiện của pháp luật.
5. Việc hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS hiện nay là rất cần
thiết và là một đòi hỏi mang tính khách quan. Từ thực ti n hiện nay đang đặt ra yêu
cầu cần phải hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS. Hoàn thiện pháp luật
về XLV L trong TH DS có ý nghĩa rất quan trọng trong lĩnh vực TH DS nói
riêng và trong đời sống xã hội nói chung.
6. Để xác định được mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L trong
THADS cần phải căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó có các tiêu chí cơ
bản: Tính toàn diện, tính đồng bộ, tính khoa học, tính thực ti n, tính phù hợp, tính
công khai, minh bạch và tính dân chủ. Những tiêu chí này cùng với các tiêu chí
khác là cơ sở giúp cho việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về XLV L
trong TH DS được đầy đủ và toàn diện.
86
C ươ g 3
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT TRONG
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
3.1.1. Ƣu điểm và thành tựu
Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã từng bước
được hoàn thiện đáp ứng yêu cầu của thực ti n, là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động
XLV L trong TH DS được đúng đắn, nghiêm minh, công bằng và hiệu quả, góp phần
quan trọng trong việc phòng ngừa, đấu tranh chống các V L trong lĩnh vực TH DS,
giữ gìn kỷ cương pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, đồng thời, tạo môi trường thuận lợi để hoạt động TH DS đạt chất lượng cao.
Căn cứ vào các tiêu chí cơ bản để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật
về XLV L trong TH DS, có thể nhận thấy một số ưu điểm và thành tựu cơ bản,
r nét về pháp luật XLV L trong TH DS như sau:
Trước hết, có thể nhận thấy, pháp luật về XLVPPL trong THADS được ban
hành tương đối đầy đủ và toàn diện đáp ứng yêu cầu XLVPPL trong THADS.
Xét về nội dung của pháp luật, có thể nói, pháp luật về XLV L trong
TH DS đã quy định một cách tương đối đầy đủ và toàn diện về các loại V L, các
hành vi V L trong TH DS. Theo đó, V L trong TH DS đã bao hàm đầy đủ
trong nó các loại V L của đời sống xã hội. Trong mỗi loại V L trong TH DS,
pháp luật đã có những quy định cụ thể, r ràng về từng hành vi V L. Những quy
định này cho phép chúng ta phân biệt được các loại V L trong TH DS với các
loại V L trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đồng thời, đó chính là căn
cứ pháp lý để xử lý các hành vi V L trong lĩnh vực TH DS trên thực ti n.
háp luật về XLV L trong TH DS đã xác định được từng loại TN L đối
với mỗi V L trong TH DS, tạo cơ sở pháp lý để xử lý đối với các chủ thể V L
trong THADS.
Việc xác định đối tượng chịu TN L trong TH DS rất phức tạp, bao gồm
nhiều đối tượng khác nhau trong đời sống xã hội, bất cứ cá nhân, tổ chức nào có
hành vi V L xâm phạm tổ chức và hoạt động TH DS. Đối tượng chịu TN L
trong TH DS được pháp luật quy định theo từng loại V L, tạo cơ sở pháp lý quan
trọng để XLV L đối với từng vụ việc cụ thể trong TH DS.
87
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã xác định r vấn đề thời hiệu
truy cứu TN L trong TH DS. Thời hiệu XLV L trong TH DS được pháp luật quy
định riêng đối với mỗi loại V L, không có quy định thời hiệu chung về xử lý đối với
mọi V L trong TH DS. Do đó, việc xác định thời hiệu để xử lý từng loại V L
cụ thể trong TH DS phải căn cứ vào quy định pháp luật đối với mỗi loại V L đó.
háp luật về XLV L trong TH DS đã quy định tương đối đầy đủ về các
hình thức và biện pháp XLV L trong TH DS, theo đó, trong lĩnh vực TH DS có
V L nào thì sẽ có hình thức, biện pháp xử lý tương ứng.
Vấn đề thẩm quyền XLV L trong TH DS cũng được pháp luật quy định cụ
thể theo mỗi loại V L riêng biệt, theo đó, có thẩm quyền XLV L hành chính, thẩm
quyền xử lý tội phạm hình sự, thẩm quyền xử lý vi phạm kỷ luật, thẩm quyền XLV L
dân sự, thẩm quyền XLV L gây thiệt hại trong khi thi hành công vụ về TH DS,
thẩm quyền XLV L gây thiệt hại về vật chất trong cơ quan TH DS. Các quy định
của pháp luật về thẩm quyền XLV L là cơ sở pháp lý quan trọng để việc XLV L
trong TH DS được thực hiện nghiêm chỉnh, đúng thẩm quyền và trên cơ sở pháp luật.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã quy định tương đối đầy đủ,
chi tiết về trình tự, thủ tục XLV L trong TH DS. Tuy nhiên, pháp luật không quy
định trình tự, thủ tục chung về xử lý đối với tất cả V L trong TH DS. Mỗi loại
V L trong TH DS tuân theo một trình tự, thủ tục khác nhau, do pháp luật quy định.
Tóm lại, một thành tựu cơ bản và r nét có thể nhận thấy, đó là trong những
năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản Q L khá đồ sộ về
XLV L trong lĩnh vực TH DS. Hệ thống văn bản pháp luật này là tương đối toàn
diện, bao hàm trong đó đầy đủ những Q L về V L và XLV L trong TH DS,
là cơ sở pháp lý để thực hiện hoạt động XLV L trong TH DS trên thực ti n.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS cơ bản đã có sự đồng bộ và thống nhất
nhất định.
Ở mức độ chung, có thể thấy rằng, mặc dù pháp luật về XLV L trong TH DS
không phải là một hoặc một nhóm văn bản Q L chung, thống nhất mà là tập hợp
của nhiều văn bản pháp luật nội dung khác nhau nhưng giữa các chế định pháp luật này
đã có sự đồng bộ, thống nhất nhất định. Chẳng hạn, những nội dung của pháp luật
về XLV L hành chính trong TH DS có sự kế thừa và tiếp nhận những nội dung về
xử lý tội phạm hình sự như tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, phòng vệ chính đáng, hình
thức xử phạt chính và bổ sung... Trong nhiều trường hợp, giữa vi phạm hành chính, vi
phạm kỷ luật và tội phạm trong TH DS chỉ là một ranh giới mỏng manh mà vượt
88
qua nó, vi phạm hành chính, vi phạm kỷ luật có thể chuyển hóa thành tội phạm trong
TH DS. Ngược lại, cùng một hành vi nhưng nếu vi phạm với số lượng không lớn
hoặc không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc không có hậu quả hoặc chưa bị XLV L
hành chính hoặc xử lý kỷ luật... thì chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm hình sự.
Ở mức độ cụ thể, pháp luật về XLV L trong TH DS cũng đã có sự đồng
bộ, thống nhất nhất định trong mỗi Q L. Chẳng hạn, các quy định pháp luật về
XLV L hành chính trong TH DS đã xác định cụ thể những hành vi V L hành
chính trong TH DS, từ đó xác định các hình thức và biện pháp xử lý, thẩm quyền
xử lý cũng như trình tự, thủ tục XLV L hành chính trong TH DS... Những nội
dung pháp luật này có sự thống nhất căn bản với nhau tạo thành hệ thống quy định
pháp luật về XLV L hành chính trong TH DS. Việc xử lý tội phạm hình sự trong
TH DS cũng vậy, các quy định pháp luật về xác định hành vi phạm tội cũng như
thẩm quyền, trình tự, thủ tục và chế tài của nó đều có sự thống nhất với nhau, tạo
thành những quy định cụ thể về xử lý tội phạm hình sự trong TH DS...
Nói chung, trong các chế định hay các Q L về xử lý đối với mỗi V L
trong TH DS có sự thống nhất, đồng bộ cơ bản trong bản thân nó, tạo thành chỉnh
thể tương đối thống nhất về mỗi loại V L trong TH DS.
Pháp luật về XLVPPL trong lĩnh vực THADS cơ bản đã phù hợp với điều
kiện chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.
Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS đã được xây
dựng và từng bước hoàn thiện trên cơ sở thực ti n chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
của đất nước, thể hiện r quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách
pháp luật của Nhà nước ta. Do đó, các quy định pháp luật phù hợp và phản ánh
tương đối đầy đủ, r nét thực ti n, trình độ phát triển chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội của đất nước, phù hợp với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, nhất là
các chủ trương lớn được nêu trong Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020, phù hợp căn bản với những nguyên tắc, yêu
cầu về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đồng thời, pháp luật cũng phản ánh được nguyện vọng, nhu cầu của nhân
dân về XLV L nói chung và XLV L trong TH DS nói riêng. Theo đó, những
quy định pháp luật về V L và XLV L trong lĩnh vực TH DS đều nhằm mục
đích bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của Nhà nước và công dân, bảo đảm sự
công bằng cho người dân khi tham gia vào quan hệ TH DS. Mọi hành vi V L
89
xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đều phải chịu hậu quả
pháp lý bất lợi trên cơ sở quy định của pháp luật. Xét ở khía cạnh này cho thấy, mục
đích của pháp luật về XLV L trong lĩnh vực TH DS chính là hướng đến phục vụ
nhu cầu và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân khi tham gia các quan hệ xã hội
trong lĩnh vực TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu
của quản lý nhà nước. Các quy định của pháp luật đã tạo điều kiện thuận lợi cho các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện XLV L trong TH DS cũng như quản lý
đối với việc XLV L trong lĩnh vực TH DS. Mặt khác, pháp luật về XLV L
trong TH DS cũng chính là công cụ, phương tiện để Nhà nước quản lý và duy trì
trật tự trong TH DS. Điều này được thể hiện r nét trong những quy định về nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, các quy định về trình tự, thủ tục, thời hạn
XLVPPL trong THADS...
Nội dung của pháp luật cũng đã có sự phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
cũng như các yêu cầu khách quan của lĩnh vực TH DS. Những quy định về các
hành vi V L và hình thức, biện pháp XLV L trong TH DS đã phản ánh tương
đối đầy đủ, khách quan sự vận động, phát triển của các mối quan hệ xã hội trong
lĩnh vực TH DS.
háp luật về XLV L trong TH DS cũng đã kế thừa có chọn lọc kinh
nghiệm của các nước trong việc xây dựng pháp luật, đảm bảo các nội dung pháp luật
không mâu thuẫn, chồng chéo với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Các văn bản về XLV L trong TH DS có sự phù hợp, thống nhất cơ bản
với nhau, văn bản có hiệu lực pháp lý thấp phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lý
cao hơn, Q L do cơ quan cấp dưới ban hành phù hợp với Q L do cơ quan cấp
trên ban hành và phù hợp với Hiến pháp.
Như vậy, hình thức thể hiện của pháp luật về XLV L trong TH DS có sự
phù hợp cơ bản với thực ti n ban hành văn bản Q L của nước ta cũng như phù
hợp với các quy định pháp luật hiện hành. Văn bản Q L là hình thức pháp luật
tiến bộ nhất, trong đó được phân ra theo thứ bậc cao thấp khác nhau là Hiến pháp,
luật và các văn bản Q L dưới luật. Mặc dù pháp luật về XLV L trong TH DS
được quy định trong nhiều văn bản Q L có thứ bậc khác nhau nhưng có sự gắn kết
thống nhất, phù hợp cơ bản với nhau. Các văn bản Q L về XLV L trong
TH DS được ban hành theo đúng thẩm quyền, có hình thức kết cấu và bố cục
tương đối chặt chẽ, hợp lý. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để hoạt động thực hiện
90
pháp luật và tuân thủ pháp luật về XLV L trong TH DS đạt được hiệu quả cao
trong thực ti n.
Pháp luật về XLVPPL trong THADS đã đáp ứng được tương đối yêu cầu
của tính khoa học.
Có thể nhận thấy, pháp luật về XLV L trong TH DS đã được xây dựng
trên quan điểm toàn diện, theo những nguyên tắc tối ưu, có đủ những luận cứ khoa
học, xác định được cơ cấu nội tại của nó, đồng thời, nó cũng được xây dựng ở một
trình độ kỹ thuật lập pháp ngày càng cao.
Từ các quy định của pháp luật hiện hành cho thấy, trong quá trình xây dựng và
từng bước hoàn thiện pháp luật về XLV L trong TH DS, chúng ta đã xác định được
vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc XLV L nói chung và XLV L trong TH DS nói
riêng, từ đó, ban hành các văn bản Q L để quy định về vấn đề VPPL và XLVPPL
trong TH DS phù hợp với thực ti n kinh tế, xã hội của đất nước, khắc phục những tồn
tại và giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh hoặc đang đặt ra xâm hại đến tổ chức
và hoạt động TH DS. Hệ thống văn bản Q L về XLV L trong TH DS cơ bản đã
đáp ứng được yêu cầu về XLV L trong TH DS ở nước ta trong những năm qua.
Có thể thấy, tính khoa học của pháp luật về XLV L trong TH DS được
biểu hiện r nét ở kết quả đã đạt được trong mỗi giai đoạn của quá trình xây dựng,
hoàn thiện pháp luật. Trong những năm qua, pháp luật về XLV L trong TH DS
đã từng bước được hoàn thiện ở từng giai đoạn khác nhau để đáp ứng yêu cầu của
thực ti n. Đối với pháp luật TH DS, từ năm 1993 đến nay đã trải qua nhiều giai
đoạn xây dựng và hoàn thiện, thể hiện bằng việc ra đời háp lệnh TH DS năm
1993, háp lệnh TH DS năm 2004 và Luật TH DS năm 2008 cùng với hệ thống
văn bản hướng dẫn thi hành. Đối với pháp luật về mỗi loại V L nói chung cũng vậy,
có sự xây dựng và hoàn thiện qua từng giai đoạn khác nhau, chẳng hạn, đối với pháp
luật xử lý vi phạm hành chính thể hiện qua các giai đoạn như sự ra đời của háp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1989, háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
1995, háp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và háp lệnh xử lý vi phạm
hành chính sửa đổi, bổ sung năm 2008, Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012...
Nội dung của pháp luật về XLV L nói chung cũng chính là cơ sở để đánh giá
tính khoa học của pháp luật về XLV L trong TH DS mà kết quả cụ thể của nó gắn
với từng giai đoạn xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mỗi loại V L đó. Đến nay,
chúng ta đã có được một hệ thống Q L tương đối đầy đủ và toàn diện về XLV L
trong TH DS, là cơ sở để xử lý đối với mọi hành vi V L trong TH DS trên thực ti n.
91
Pháp luật XLVPPL trong THADS đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của tính
thực tiễn.
Xét về nội dung pháp luật, có thể thấy, pháp luật về XLV L trong
TH DS là những quy tắc ứng xử chung của cộng đồng, đã được áp dụng và bảo
đảm được thực hiện trong thực ti n, đồng thời, đã phát huy được vai trò tích cực
trong đời sống xã hội, trở thành công cụ pháp lý quan trọng để đảm bảo an ninh trật
tự và an toàn xã hội trong lĩnh vực TH DS.
Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật hiện hành về XLV L trong
TH DS đã xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về hoạt động XLV L trong
lĩnh vực TH DS, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cũng như tăng cường mối quan
hệ giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan với nhau. Điều này được thể hiện r trong
những quy định về thẩm quyền XLV L, trình tự, thủ tục XLV L, giải quyết
khiếu nại, tố cáo về XLV L Qua đó đã giúp cho hoạt động XLV L trong
TH DS thống nhất trong toàn quốc, góp phần bảo đảm các quy định pháp luật được
thực thi nghiêm minh, có hiệu quả trên thực tế cũng như phục vụ các nhiệm vụ
chính trị nói chung.
háp luật về XLV L trong TH DS là cơ sở và có ý nghĩa tạo tiền đề cho
hoạt động của cơ quan TH DS, các cơ quan hành chính nhà nước và các cơ quan
tiến hành tố tụng trong quá trình tham gia vào các quan hệ TH DS được minh bạch
và công khai hơn, mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia và thực
hiện quyền giám sát của mình đối với hoạt động TH DS nói chung và hoạt động
XLV L trong TH DS nói riêng.
Trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật về XLV L trong TH DS,
chúng ta luôn có sự tìm hiểu những yêu cầu, đòi hỏi của thực ti n xã hội, có sự tiếp
thu, chọn lọc kinh nghiệm của thực tế đất nước và quốc tế, từ đó, có sự điều chỉnh
cho phù hợp. Do đó, hình thức phá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hoan_thien_phap_luat_ve_xu_ly_vi_pham_phap_luat_tron.pdf