Hát đối là một nét đẹp trong cưới xin của người Tày xưa nay. Người
hát đối (ông quan làng, bà pả mẻ) bên nhà trai và nhà gái dùng những vần
thơ để đối đáp với nhau tạo nên không khí vui vẻ, giàu giá trị truyền
thống. Những vần thơ ca ngợi công ơn sinh thành của cha mẹ, những lời
dặn dò cô dâu, chú rể trân trọng và kính nhớ tổ tiên. cùng với sự đức độ,
khả năng giao tiếp tốt của ông quan lang và bà pả mẻ là những giá trị, bài
học về văn hóa đặc biệt cần trân trọng và bảo lưu.
Tuy nhiên người dân, nhất là thanh niên hiện nay ưa thích những
bài hát hiện đại, những điệu nhạc nhảy tạo không khí sôi động và không
mặn mà nghe những bài thơ đối đáp. Hơn nữa, hiện nay hiếm thấy người
làm quan làng thuộc được nhiều bài thơ, nhất là ở những vị còn trẻ do bận
rộn mưu sinh không có thời gian học thơ truyền thống. Những lý do đó đã
tạo nên sự mai một văn hóa truyền thống nhanh chóng, đoàn nhà trai đến
nhà gái không còn bị ai trêu ghẹo chắn dây ngang cửa, đặt chậu nước nơi
bậc cầu thang. mà đi thẳng vào nhà.
185 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 363 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hôn nhân của người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c người nhà gái rải tiền lẻ được gọi là tiền qua cầu, đò. Nếu gặp một
đám cưới khác đi ngược chiều, đoàn đưa dâu sẽ dừng lại để hai cô dâu
mời nhau miếng trầu, đàn ông mời nhau điếu thuốc với ý nghĩa chúc phúc.
Nếu không may gặp mưa, mọi người không được xin trú nhờ tại các ngôi
nhà ven đường, chỉ được phép trú ở gốc cây bởi sợ hồn vía cô gái sẽ ở lại
nhà này.
Lễ cưới tại nhà trai
Theo phong tục, giờ đón dâu vào nhà tốt nhất vào giờ dậu là khi trời
vừa sẩm tối và gà chuẩn bị lên chuồng. Đây cũng là thời khắc quy tụ mọi
sinh linh. Vì vậy, nếu đón dâu về sớm, đoàn phải đứng đợi cách xa nhà
một đoạn. Về tới gần nhà trai, đoàn sẽ cử một người đi trước về báo cho
mọi người biết. Bà đón cầm một chiếc ô mới đưa cho chú rể che cho cô
dâu với hàm ý từ nay cô dâu sẽ được chồng và gia đình chồng bao bọc,
che chở. Vào tới nhà, cô dâu đi thẳng vào buồng cưới trước đó đã được
sửa sang với giường mới, chiếu mới. Những người khác mang của hồi
môn đặt vào trong nhà. Bà đưa đi vào phòng cưới đưa cho cô dâu một
chiếc đèn dầu mới, một bao diêm để châm lửa. Lửa được vặn cháy sáng
với ý niệm về sự khởi đầu cho một cuộc sống mới tốt đẹp.
Ở bên ngoài, đại diện hai bên gia đình mời nhau uống nước và trao
đổi về đám cưới. Được một lúc, bà đưa dẫn cô dâu ra khỏi phòng cưới để
cùng chú rể làm lễ gia tiên nhà trai. Đôi trẻ chắp tay trước ngực, đứng
trước bàn thờ gia tiên trong khi ông đưa đứng bên nói to, dõng dạc đại ý
xin tổ tiên chứng giám nay cô gái đã thành con dâu của gia đình, được
74
nhập hồn vía vào nhà trai. Sau đó, cô dâu cùng chú rể đi mời rượu ông bà,
những người cao tuổi, bố mẹ, chú bác nhà trai. Cũng như ở nhà gá i,
những người được mời rượu sẽ cho cô dâu một ít tiền mừng gói trong giấy
đỏ với mong muốn rằng đôi trẻ có cuộc sống gia đình hạnh phúc.
Theo phong tục, đêm đầu tiên cô dâu và chú rể không ngủ chung
phòng. Cô dâu thường ngủ cùng bà đưa và các phù dâu ở phòng cưới.
Đêm đó, bà đưa sẽ kể cho cô dâu về nhiều chuyện trong đó có chuyện
sinh hoạt nam nữ. Sáng sớm hôm sau, khi trời còn mờ tối, cô dâu và các
phù dâu dậy đi lấy nước về đun sôi, bỏ lá thơm vào rồi đổ ra chậu bưng
tới cho từng người theo thứ bậc gồm ông bà, bố mẹ chồng, ông đón, ông
đưa, bà đón, bà đưa và những người có tuổi khác rửa mặt. Sau đó, mọi
người cùng nhau ăn sáng. Bữa cơm kết thúc là lúc trời vừa sáng; ông đưa,
bà đưa và phù dâu xin phép nhà trai ra về. Cô dâu chú rể sẽ tặng ông đưa,
bà đưa và phù dâu một chút tiền gọi là hoàn phúc và một ít thịt và bánh
chưng để họ mang về.
Sáng ngày thứ 3 sau ngày cưới, đôi vợ chồng trẻ quay về nhà bố mẹ
vợ làm lễ lại mặt. Đi cùng họ có thể có em gái hoặc con nhà chú bác. Lễ
vật mang theo gồm rượu, thịt, gà và hai chiếc bánh chưng... Tất cả đồ lễ
này được bày lên bàn thờ gia tiên nhà gái để trình báo về sự khởi đầu của
một gia đình mới và mong được tổ tiên phù hộ. Sau đó, bố mẹ vợ sẽ làm
cơm. Đây là bữa cơm chính thức đầu tiên của rể mới tại nhà gái. Buổi xế
chiều, hai vợ chồng xin phép ra về, bố mẹ sẽ trao lại một phần lễ khi sáng
con rể mang sang với quan niệm hoàn phúc.
2.1.7. Các trường hợp hôn nhân đặc biệt
2.1.7.1. Lấy rể về làm con trai
Người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa rất xem trọng con trai
bởi nhiều lý do khác nhau, nhưng cơ bản là trách nhiệm duy trì nòi giống,
75
chăm sóc bố mẹ khi về già và thờ cúng tổ tiên Những gia đình chỉ sinh
được con gái, không có con trai thường có hai cách nhận con trai. Thứ
nhất là nhận con nuôi, thứ hai là tuyển rể rồi nhận làm con trai. Cách thứ
nhất ít thấy bởi quan niệm con nuôi không thực sự là con dù đôi khi người
được nhận là con chú, con bác. Họ có câu: “dac bấu kin khẩu fằn, măn
bấu chượng lục”, tức là đói cũng không ăn thóc giống, không sinh nở
được cũng không nuôi con người khác. Cách thứ hai được thực hiện nhiều
hơn bởi con gái là con đẻ, các cháu sinh ra sau này có quan hệ máu mủ
gần gũi hơn con của con nuôi.
Để có thể tìm được con rể tốt nhận làm con trai, trước hết người con
gái phải nết na, có sức khỏe và cần cù chịu khó... Người được chọn làm
con rể phải đạo đức tốt, tu chí và hòa nhã để có thể sống cùng gia đình
nhà vợ. Thông thường nhà gái chú ý đến những gia đình có nhiều con trai,
hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thiếu đất canh tác bởi chỉ vậy họ mới chịu
nhận đi làm rể đời. Trong gia đình, chỉ con trai thứ mới được phép đi ở rể.
Ngược lại, con gái cả thường được lấy chồng về ở với bố mẹ. Việc thỏa
thuận, xin nhận rể đời thường mất thời gian dài trước khi có được sự đồng
ý của nhà trai.
Lễ cưới trong trường hợp này gần tương tự như đám cưới thông
thường chỉ khác ở sự hoán đổi vị trí và vai trò giữa nhà trai và nhà gái.
Ngày tổ chức lễ dạm, lễ hỏi, lễ cưới, nhà gái cử đại diện mang theo lễ vật
sang nhà trai và lo chi trả cỗ cưới tổ chức tại nhà trai. Lễ cưới thường
không được tổ chức trang trọng như đám cưới thông thường. Chú rể không
dâng mẹ vợ tấm vải “bên ướt, bên khô” cũng như không có quà tặng cho
các anh, chị, em nhà cô dâu Kết thúc lễ cưới ở nhà gái, chú rể xin phép
bố mẹ vợ cùng các phù rể quay về nhà mình. Sáng hôm sau, cô dâu cùng
em gái mang theo gánh lễ nhỏ sang nhà trai và đặt lên bàn thờ gia tiên làm
76
lễ trình báo xin phép cùng chồng về nhà mình. Sau đó, mọi người ăn cơm
trưa, đến chiều muộn, hai vợ chồng quay trở lại nhà bố mẹ vợ.
2.1.7.2. Hôn nhân của những người góa vợ, góa chồng
Theo quan niệm truyền thống, người Tày ở vùng biên giới huyện
Phục Hòa thường chỉ thừa nhận kết hôn lần đầu và xem nhẹ kết hôn lần
sau, coi đó chỉ là sự vá víu. Phụ nữ và đàn ông góa chồng, góa vợ sau 3
năm mới được tái hôn. Sau khi chồng mất, người vợ tiếp tục ở nhà chồng
chăm sóc bố mẹ chồng và các con. Khi muốn đi bước nữa, tùy theo thỏa
thuận, có thể mang theo con hoặc để cho bố mẹ chồng nuôi. Thường con
trai lớn sẽ ở lại với ông bà, nhất là ở những gia đình chỉ có một con trai
duy nhất nay đã qua đời. Khi đi tài sản cá nhân được mang theo, tài sản
của chồng do anh em nhà chồng quản lý.
Tuy là vậy, nhưng thực tế trước đây, hầu hết phụ nữ góa chồng chấp
nhận sống một mình chăm con, hiếm có người tái hôn bởi họ đã được giáo
dục từ nhỏ về đức tính cam chịu, sự chung thủy và bổn phận, trách nhiệm
của người làm dâu, làm mẹ. Trong thời gian còn đang ở nhà chồng, nếu bị
phát hiện có quan hệ tình cảm với một người đàn ông nào đó, họ sẽ bị anh
em chồng mắng nặng lời, thậm chí đuổi ra khỏi nhà; dân bản thì dèm pha,
xem thường. Hơn thế, bởi cuộc sống khép kín, cơ hội tìm hiểu một người
đàn ông khác không có nhiều. Những người con trai còn trẻ tuổi, độc
thân dù có yêu mến nhưng sợ mọi người dị nghị, chê bai yêu gái góa
chồng cũng không dám tiến tới hôn nhân. Người có thể chấp nhận họ
thường là đàn ông góa vợ, có hoàn cảnh tương đồng. Với đàn ông thì
ngược lại, xã hội truyền thống trong một số trường hợp đặc biệt cho phép
họ đa thê và nếu chẳng may bị góa vợ, họ có thể tái hôn là lẽ bình thường.
Tùy theo độ tuổi, điều kiện kinh tế mà chọn vợ mới phù hợp, họ có thể có
cơ hội lấy những cô gái chưa chồng và còn trẻ.
77
Tuy nhiên, dẫu có thế nào thì tái hôn vẫn được xem là vá víu và vì
vậy đám cưới thường được tổ chức nhỏ gọn. Có nhiều trường hợp người
tái hôn chỉ làm vài ba mâm cơm mời người thân trong gia đình như một lễ
ra mắt chính thức.
2.1.7.3. Trường hợp có thai trước khi cưới
Người Tày có câu tục ngữ: “Dá đảy bươn chiêng pây cón bươn lảp”,
tức là “chớ để tháng giêng đến trước tháng chạp”. Họ coi trọng trinh tiết
của người con gái, xem thường hoặc chê bai những ai có quan hệ tình dục
trước khi kết hôn. Trường hợp chửa hoang, con không biết mặt cha là
đáng xấu hổ nhất, bị xã hội lên án. Cuộc sống của cô gái vì vậy sẽ luôn bị
cộng đồng xa lánh, khiến bố mẹ, gia đình phải xấu hổ theo.
Nếu thai nhi đó xuất phát từ tình yêu trai gái thì thường trong vòng
hai tháng sẽ tổ chức đám cưới. Tuy nhiên, “giá” của cô dâu sẽ không được
như những cô gái còn trinh nguyên mà ở mức thấp hơn. Số tiền thách cưới
giảm nhiều so với mức thông thường. Một số trường hợp nhà gái thậm chí
không yêu cầu nhà trai phải chi phí bất cứ thứ gì. Họ cảm thấy xấu hổ và
chấp nhận chịu thiệt thòi, xem việc không lấy tiền thách cưới, đồ lễ từ nhà
trai như hình thức chịu phạt vì chưa biết dạy con cẩn thận. Trước khi cô
dâu về nhà chồng, nhà trai sẽ mời thầy cúng tới làm lễ để giải xui với
quan niệm rằng phụ nữ mang thai không ở nhà mình mà ở ngoài (đâu đó)
luôn mang đến nhiều rủi ro, kém may mắn.
2.2. Những biến đổi trong hôn nhân
2.2.1. Biến đổi quan niệm kết hôn
Trong bối cảnh đời sống kinh tế của người Tày ở vùng biên giới
huyện Phục Hòa chuyển biến nhanh chóng dẫn đến những thay đổi rõ ràng
ở nhiều khía cạnh văn hóa, xã hội khác nhau thì giá trị hôn nhân truyền
thống dường như không thay đổi nhưng với biểu hiện sắc thái khác. Hôn
78
nhân vẫn có ý nghĩa quan trọng với cuộc sống của mỗi người. Cha mẹ
luôn mong con cái sớm trưởng thành, lập nghiệp, kết hôn rồi s inh con.
Con, cháu là nguồn vui sống, niềm hạnh phúc của cha mẹ, ông bà. Trẻ em
được cha mẹ, xã hội quan tâm nhiều hơn trong chăm sóc sức khỏe, giáo
dục với mong muốn sau này trưởng thành sẽ là công dân tốt, đóng góp
nhiều hơn cho xã hội thay vì mục tiêu chính là chỗ nương tựa cho cha mẹ
khi về già như trước đây.
Một số gia đình chỉ sinh được con gái, không có con trai đã không
cố gắng tìm mọi cách có con trai để có người nối dõi tông đường, thờ
cúng tổ tiên như trước đây. Sự thay đổi đó trước hết bởi Luật hôn nhân
gia đình Việt Nam chỉ cho phép một vợ một chồng, cùng các chế tài ly
hôn liên quan đến phân chia tài sản, con cái là rào cản khiến người chồng
khó quyết định ly dị và tái hôn nhằm có được con trai. Bên cạnh đó, Luật
bình đẳng giới qua công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức đã tác
động hữu hiệu, giảm thiểu quan niệm truyền thống phân biệt giới tính.
Nhiều người cho rằng, con trai, con gái như nhau, con gái có thể chăm sóc
tốt bố mẹ khi về già. Dẫu vậy, quan niệm cần có con trai để nối dõi tông
đường, thờ cúng tổ tiên đã định hình và khó thay đổi trong tư duy phần
lớn nam giới người Tày ở vùng biên giới huyện Phục Hòa.
Trong quan niệm trước đây, hôn nhân ngoài mục đích sinh con cái,
có người nối dõi tông đường thì còn để có thêm người lao động. Nhu cầu
cần có thêm lao động, có người chăm sóc bố mẹ khi về già vẫn còn và tùy
từng hoàn cảnh gia đình, nhu cầu này sẽ nhiều hay ít. Tuy nhiên, quan
niệm về mục đích này ở người Tày, Phục Hòa hiện nay đã thay đổi sắc
thái bởi hôn nhân là kết quả của tình yêu, hai vợ chồng cùng chia sẻ công
việc, trong đó có chăm sóc bố mẹ chồng khi về già.
79
2.2.2. Biến đổi quyền quyết định hôn nhân, tiêu chuẩn chọn vợ,
chọn chồng
Trước đây hôn nhân của người Tày ở huyện Phục Hòa theo hình
thức “bố mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Bố mẹ quyết định chuyện hôn nhân
của con dù có thể hỏi ý kiến con nhưng chỉ mang tính chất tham khảo.
Nhiều cặp vợ chồng đến ngày cưới mới biết mặt nhau. Hiện nay, nam nữ
được tự do yêu đương và có nhiều cơ hội gặp bạn khác giới như học cùng
trường, thông qua giao lưu bạn bè đồng trang lứa, qua người thân, họ
hàng hoặc qua các dịch vụ mạng internet, khi đi tham gia các lễ hội đầu
năm...
Đôi trẻ sau một thời gian tìm hiểu sẽ dẫn người yêu về nhà ra mắt
bố mẹ, người thân và lắng nghe ý kiến đánh giá, nhận xét của các thành
viên trong gia đình, đặc biệt là của bố mẹ về bạn trai hoặc bạn gái của
mình. Ý kiến của bố mẹ được xem trọng, nhiều trường hợp bố mẹ sau thời
gian tìm hiểu nhân thân người yêu của con đã không đồng ý và con phải
nghe theo. Tuy nhiên, về cơ bản, tư duy của các bậc cha mẹ người Tày ở
vùng biên giới huyện Phục Hòa hiện nay là tôn trọng tình cảm của con.
Bởi nên duyên phần nhiều xuất phát từ tình yêu nên những lựa chọn
phần nhiều xuất phát từ cảm tính tuổi trẻ. Tuy vậy, có một số tiêu chuẩn
của giới trẻ đem đến quyết định tiến tới hôn nhân. Trước hết là thước đo
cho những biểu hiện bên ngoài như hình thức ưa nhìn, trang phục gọn
gàng, đi đứng, nói năng đĩnh đạc, giao tiếp tốt, hòa đồng với mọi người sẽ
dễ cuốn hút người khác phái. Yếu tố thứ hai giới trẻ vùng biên giới huyện
Phục Hòa quan tâm ở người sẽ chọn làm bạn đời là nghề nghiệp. Nghề tốt
nhất là công chức nhà nước, nghề y và kinh doanh bởi ổn định, có thu
nhập tốt, có cơ hội thăng tiến và làm giàu, vì vậy, có thể đảm bảo kinh tế
gia đình trong tương lai.
80
Giới trẻ cũng chú ý đến môn đăng hộ đối. Tuy nhiên, nếu gia đình
phía nhà trai hoặc nhà gái có điều kiện kinh tế hơn, vị thế xã hội cao hơn,
giới trẻ phần nhiều không vì vậy mà ngần ngại, từ bỏ ý định tiến tới hôn
nhân như trước đây. Nhiều người thậm trí xem đó là cơ hội để thay đổi vị
thế kinh tế, xã hội của bản thân và gia đình.
2.2.3. Biến đổi tuổi kết hôn
Ngay từ năm 1959 khi đất nước còn trong chiến tranh, đời sống
kinh tế của người dân còn nghèo nàn, phần nhiều người tham gia kết hôn
khi còn rất trẻ, thường dưới 18 tuổi, đặc biệt ở vùng tộc người thiểu số thì
Việt Nam đã ban hành Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên, ở đó quy định
tuổi kết hôn ở nam là 20 tuổi và ở nữ là 18 tuổi trở lên. Từ đó đến nay,
Luật Hôn nhân và gia đình đã có những thay đổi nhưng tuổi quy định kết
hôn không thay đổi. Mốc tuổi đưa ra của luật từng bước làm thay đổi tuổi
kết hôn trong thực tiễn xã hội và những năm gần đây được thực hiện
tương đối triệt để tại các địa phương, tránh được tình trạng tảo hôn.
Ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, từ năm 1991 đến nay, độ tuổi kết
hôn theo chiều tăng dần. Giai đoạn đầu, từ năm 1991 đến năm 2000, sau
khi chiến tranh biên giới kết thúc còn nhiều người kết hôn sớm hơn độ
tuổi quy định. Từ sau năm 2000, do tác động từ Luật Hôn nhân và gia
đình, độ tuổi kết hôn dần tăng. Ngoài ra, sau các bậc học phổ thông, nam,
nữ thanh niên muốn đi làm, kiếm tiền ổn định kinh tế trước khi lập gia
đình. Trong những năm gần đây, những mong muốn này lớn hơn, bởi vậy
theo thống kê của Phòng Tư pháp huyện Phục Hòa năm 2015, tuổi kết hôn
trung bình lần đầu ở nữ là 24.2 tuổi và nam là 26.2 tuổi. Một điều thú vị
là khu vực biên giới huyện Phục Hòa dù trong phạm vi hẹp (6 xã, thị trấn)
nhưng có sự chênh lệch độ tuổi kết hôn ở các xã, thị trấn. Ở xã Triệu Ẩu,
xã vùng sâu của huyện Phục Hòa, tuổi kết hôn lần đầu ở nam là 28 tuổi và
81
nữ là 25 tuổi. Xã Mỹ Hưng gần trung tâm thị trấn huyện tuổi kết hôn lần
đầu ở nam là 27, ở nữ là 25. Ở thị trấn Tà Lùng nơi có cửa khẩu quốc tế
Tà Lùng thì tuổi kết hôn lần đầu ở nam là 26 tuổi và nữ là 24 tuổi; thị trấn
Hòa Thuận trung tâm hành chính của huyện tuổi kết hôn lần đầu ở nam là
26 tuổi, ở nữ là 24 tuổi.
Sự chênh lệch này đi ngược với suy luận quen thuộc rằng khu vực
xa trung tâm thường có tuổi kết hôn sớm so với khu vực trung tâm. Tuy
nhiên, nó phản ánh thực tế lao động việc làm và mức độ ổn định cuộc
sống giữa các xã. Hiện nay mức sống của cư dân ở khu vực trung tâm, thị
trấn huyện lị ở Phục Hòa cao hơn các xã vùng sâu, việc làm cũng dễ kiếm
hơn vì vậy tâm lý nam nữ thanh niên ổn định và tự tin hơn trong việc lập
gia đình. Những xã vùng sâu khó kiếm việc làm, mức thu nhập tại chỗ
thấp, phải đi làm ăn xa nên nam nữ thanh niên muốn trì hoãn cho tới khi
cảm giác có khả năng ổn định cuộc sống mới tự tin kết hôn.
2.2.4. Biến đổi nguyên tắc trong hôn nhân
Luật Hôn nhân và gia đình có quy định cấm kết hôn hoặc chung
sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những
người có họ trong phạm vi ba đời. Sau nhiều năm được các cấp chính
quyền tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, giới trẻ ở
huyện Phục Hòa cơ bản hiểu rõ. Tuy nhiên, họ đa phần tuân thủ theo
phong tục, không kết hôn với người cùng họ. N.T.L (33 tuổi, người Tày,
thị trấn Hòa Thuận) cho biết: “Người Tày trong cùng một họ tộc không kết
hôn với nhau. Người Tày không có nhà thờ họ như người Kinh. Vào ngày
mùng 3 tháng 3 âm lịch hằng năm mọi người trong họ đi tảo mộ với nhau.
Họ gần gặp nhau thường xuyên thì biết, họ xa thì các ông sẽ nói với con
cháu. Khi yêu ai, các ông sẽ hỏi yêu con nhà ai, có họ hay không”. Bởi
82
vậy, quy tắc ngoại hôn dòng họ cơ bản được thực hiện theo truyền thống
tộc người.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, có một số trường hợp anh em trong cùng
một họ lấy nhau. Ngay từ khi biết anh em cùng họ yêu nhau, người thân
trong gia đình, họ hàng đã khuyên bảo, can ngăn nhưng căn cứ theo quy
định của Luật Hôn nhân và gia đình, họ được phép kết hôn nên trước sự
quyết tâm của đôi trẻ, gia đình vẫn tổ chức lễ cưới.
Trong nguyên tắc cư trú sau hôn nhân trước đây, sau đám cưới, cô dâu
vẫn ở nhà bố mẹ đẻ cho đến khi sinh con đầu lòng, khi có việc cần thiết mới
về nhà chồng. Hiện nay, sau đám cưới, giống như người Kinh, cô dâu ở lại
nhà chồng và xác định là thành viên chính thức của gia đình chồng.
2.2.5. Biến đổi tính chất và hình thức hôn nhân
2.2.5.1. Biến đổi tính chất hôn nhân
Như đã đề cập ở phần hôn nhân truyền thống, hôn nhân của người
Tày được các nhà nghiên cứu nhận định mang tính chất mua bán khá rõ
nét và trong cuộc mua bán thứ “hàng hóa” đặc biệt này, nhà trai đóng vai
trò của kẻ mua, còn nhà gái chính là người bán (140, tr. 250). Tính chất
này tiếp tục được duy trì ở người Tày vùng biên giới huyện Phục Hòa, đặc
biệt số tiền dẫn cưới (tiền đầu) nhà trai mang sang nhà gái tăng nhanh
trong những năm gần đây. Những năm 2010, số “tiền đầu” nhà trai mang
sang nhà gái khoảng 10 triệu đồng, nhưng hiện nay khoảng 50 đến 60
triệu đồng. Lý do chủ yếu bởi người dân Phục Hòa có điều kiện kinh tế tốt
hơn so với trước. Không ít gia đình nhà trai có kinh tế khá giả chủ động
tăng số tiền dẫn cưới lên so với thỏa thuận trước đó với nhà gái với số tiền
mang sang là 100 triệu đồng hoặc hơn.
Cô dâu dùng số tiền này để mua sắm các vật dụng cần thiết như
chăn, màn, gối, xoong, bát đũa, tủ, tivi... mang sang nhà trai trong buổi
83
đón dâu về nhà chồng và chi trả cho cỗ cưới tổ chức tại nhà gái. Nhiều gia
đình cô dâu có kinh tế khá giả, nhất là ở khu vực thị trấn Tà Lùng, Hòa
Thuận đã cho con gái thêm tiền để mua xe máy, tặng trang sức quý trong
ngày cưới. Chiếc xe máy bố mẹ tặng cho con gái thường có giá trị từ 20
triệu đồng trở lên. Bởi vâỵ, bà N.V.T (sinh năm 1967, người Tày, Tà
Lùng) cho rằng: “Con gái lấy chồng hiện nay phần nhiều lỗ vì bố mẹ
thường phải cho thêm”.
Trong quan niệm của người Tày vùng biên giới huyện Phục Hòa, số
tiền dẫn cưới nhà trai mang sang nhà gái hàm chứa nhiều giá trị tinh thần
hơn giá trị kinh tế. Bởi sau khi sau lễ dạm khoản “tiền đầu” thường được
nhiều người quan tâm và hỏi gia chủ. Qua số “tiền đầu”, mọi người nhìn
vào đó để so sánh và bình phẩm, đôi khi có thể khiến gia chủ cảm thấy
không được thoải mái. “Tiền đầu” trở thành thước đo về giá trị của cô gái,
ngầm tạo nên sự so sánh, ganh đua giữa các gia đình sắp có con gái lấy
chồng. Ngược lại, trở thành nỗi lo lắng của phần đa các chàng trai sắp
cưới vợ.
Một số gia đình nhà trai có điều kiện kinh tế khó khăn sẽ phải vay
mượn người thân, họ hàng tiền để lo khoản “tiền đầu” cho con trai cưới
vợ. Theo đánh giá của nhiều người ở vùng biên giới huyện Phục Hòa, số
tiền dẫn cưới cao như vậy nhưng không phải quá lớn với các gia đình bởi
họ đã có nhiều năm nỗ lực tích lũy chuẩn bị cho đám cưới của con trai.
2.2.5.2. Thay đổi hình thức hôn nhân
Trong quan niệm truyền thống, người Tày ở vùng biên giới huyện
Phục Hòa tuân thủ chặt chẽ hình thức hôn nhân một vợ một chồng, sau lễ
cưới, đàn ông không được phép đi tìm phụ nữ khác và ngược lại. Trong
cuộc sống hiện nay, khi không gian xã hội và các mối quan hệ xã hội mở
rộng đã tạo cơ hội cho nhiều người có cơ hội ngoại tình. Bà N. T. T (53
84
tuổi, người Tày, thị trấn Hòa Thuận) cho rằng: “Trước đây chuyện ngoại
tình hiếm khi xảy ra, hầu như không có thì nay thấy có nhiều trường hợp”.
Trong bối cảnh đó, số lượng các cặp vợ chồng ly hôn cũng gia tăng.
Theo Phòng Tư pháp huyện Phục Hòa, tính từ năm 2010 đến 2015, số
lượng các cặp ly hôn tại một số xã, thị trấn như sau: tại thị xã thị trấn Hòa
Thuận có 5 trường hợp, ở xã Đại Sơn có 3 trường hợp và thị trấn Tà Lùng
có 5 trường hợp. Nguyên do dẫn tới ly được các cán bộ tư pháp của huyện
đồng nhất cho rằng chủ yếu bởi chồng hay uống rượu, cờ bạc, không chịu
làm ăn. Phụ nữ hiện nay mạnh mẽ hơn, có đủ khả năng đảm bảo cuộc
sống sau ly hôn và đánh giá của dư luận ít hà khắc hơn, dễ thông cảm hơn
về vấn đề này. Sau khi ly hôn, tài sản và con cái thường được chia đôi,
con gái theo mẹ, con trai theo bố.
2.2.4. Biến đổi phong tục và nghi lễ hôn nhân
2.2.4.1. Biến đổi đồ lễ cưới và của hồi môn
Trước đây, để tổ chức đám cưới, gia đình hai bên thường phải
chuẩn bị trong thời gian dài, từ nuôi lợn, nuôi gà.... Ở nhà trai, trước ngày
ăn hỏi nhà trai phải huy động người gói 200 - 400 chiếc bánh dày, ngày
cưới nhờ người giã gạo làm 200 chiếc bánh chưng... Ở nhà gái, trước ngày
cưới một thời gian dài cô dâu phải may chăn, đệm, quần áo, màn, gối...
Hiện nay ở các thị trấn có những người chuyên làm bánh cho lễ ăn hỏi, lễ
cưới... và các gia có con chuẩn bị cưới thường đặt mua tại đó. Những vật
dụng khác như chăn, màn, xoong, bếp được mua tại các cửa hàng ở thị
trấn hoặc sang Trung Quốc mua.
Theo phong tục, hôm ăn hỏi nhà trai bánh dày sang nhà gái nhưng
hiện nay được cho rằng có nhiều bất tiện ở công đoạn vận chuyển, nhà gái
muốn tặng bánh cho người thân thì phải chờ nhà trai mang sang và để
thuận tiện hơn, nhà trai đưa tiền cho nhà gái thuê người làm bánh. Nhiều
85
gia đình thay bánh dày trong lễ ăn hỏi bằng bánh chưng vì cho rằng bánh
chưng ngon hơn. Ngày cưới, nhà trai không còn dắt theo hai con lợn mang
sang nhà gái, giống như với bánh dày, bánh chưng, số tiền mua lợn sẽ
được tính tương đối để đưa cho nhà gái. Đồ lễ ăn hỏi hiện nay thường có
hoa quả, kẹo, bánh (phu thê, cốm), thuốc lá... được đựng trong 3- 5 chiếc
tráp tròn, màu đỏ giống như tráp cưới của người Kinh thường dùng.
Ngoài các vật dụng không thể không có như chăn, màn, bát, đũa,
xoong, bếp... đủ cho một gia đình nhỏ sử dụng, trong ngày cưới, cô dâu
được bố mẹ tặng xe máy, trang sức quý mang theo về nhà trai. Số lượng
đồ lễ, vật phẩm được cô dâu cùng nhà gái rình rang khuân về nhà trai
nhiều hay ít phản ánh rõ số tiền dẫn cưới nhà trai đưa cho nhà gái và điều
kinh tế của nhà gái. Theo bà Đ. T. N (54 tuổi, người Tày, thị trấn Hòa
Thuận): “Đám cưới của L. năm ngoái, em nó được họ hàng tặng mười
mấy cái nhẫn vàng, gia đình cho nó một cái khuyên vàng và tiền. Họ hàng
tặng nhiều như vậy là vì khi nhà người ta có đám cưới, cô cũng tặng cho
con họ như vậy”.
Việc mời khách tới dự đám cưới không nhất thiết phải trước 9
ngày như trước đây, có thể muộn hơn bởi không ai còn mất thời gian
chuẩn bị vật phẩm mang tặng đôi vợ chồng trẻ, tất cả được quy ra tiền
và để vào phong bì. Thiếp cưới có màu đỏ in chữ song hỉ và có cùng
mô típ với bất kỳ đám nào ở các địa phương khác hiện nay, chúng được
cô dâu, chú rể tương lai và các thành viên trong gia đình đưa tận tay
những người thân quen. Một số trường hợp người thân, bạn bè ở xa, họ
mời cưới bằng cách gọi điện, nhắn tin.
Trước ngày tổ chức lễ cưới, rạp cưới được dựng lên trước hiên nhà,
giúp mở rộng không gian đón khách, làm thay đổi cảm quan quen thuộc
của cuộc sống thường nhật để ai đi qua cũng có thể biết gia đình này sắp
86
hoặc đang có đám cưới. Rạp thường có mái che màu xanh, hồng, đỏ và
những riềm vải sáng màu như màu trắng, màu hồng phủ dài xuống chân
rạp, trên đó dán hoặc có nhiều hình chữ song hỉ, cặp uyên ương chim
câu... Bàn, ghế trong rạp được bọc vải có sắc đỏ, được xếp thành các hàng
ngang dành cho nhiều người ngồi. Xung quanh mỗi bàn bình quân có từ 6
đến 8 chiếc ghế. Trong rạp có hệ thống loa, màn hình tivi liên tục được
bật các bài hát về tình yêu, nhạc nhảy với âm thanh lớn để cả bản có thể
nghe thấy, giúp xóa tan không khí yên tĩnh và thay vào đó là không khí
vui vẻ, hội hè. Trong hơn 10 năm trở lại đây, các gia đình phần nhiều thuê
người chuyên nghiệp nấu cỗ cưới. Người nấu cỗ thuê tự mua thực phẩm,
có thể nấu tại nhà họ rồi chuyển đến nơi tổ chức đám cưới hoặc mang đến
một bãi đất trống gần rạp cưới để nấu... Mọi người cho rằng, chi phí để
thuê nấu cỗ hiện không quá đắt so với tự nấu, các thành viên trong g ia
đình, họ hàng nhờ vậy không còn phải tất bật, quần áo dính mùi dầu mỡ
thức ăn mà được diện trang phục đẹp đi đi, lại lại giữa các bàn nước... nói
chuyện hàn huyên với khách khứa tới tham dự đám cưới.
2.2.4.2. Biến đổi niềm tin hợp mệnh (xin lủc mỉnh)
Trước đây, cô dâu gần như xa lạ với nhà trai bởi không có sự giao
tiếp trước đó. Hiện nay, đôi trẻ trước khi kết hôn thường đưa người yêu về
nhà, từng bước làm quen để rồi thành thân thiết với mọi thành viên trong
gia đình. Theo phong tục, nhà trai vẫn xin nhà gái “bản lủc mỉnh” gắn với
niềm tin tâm lin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hon_nhan_cua_nguoi_tay_o_vung_bien_gioi_huyen_phuc_h.pdf