Luận án Kết hợp hệ thống và hiện đại trong xây dựng ý thức chính trị công nhân ngành than Quảng Ninh hiện nay - Nguyễn Thị Huyền Thái

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ

TÀI LUẬN ÁN

6

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến ý thức chính trị và xây

dựng ý thức chính trị cho giai cấp công nhân

6

1.2. Các công trình nghiên cứu về thực trạng và giải pháp kết hợp

truyền thống và hiện đại trong xây dựng ý thức chính trị của

công nhân ngành than Quảng Ninh trong thời kỳ đổi mới

18

1.3. Giá trị của những công trình đã nghiên cứu và những vấn đề

luận án tiếp tục làm sáng tỏ thêm

20

Chương 2: KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG

Ý THỨC CHÍNH TRỊ CÔNG NHÂN NGÀNH THAN QUẢNG NINH

HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG

26

2.1. Ý thức chính trị và xây dựng ý thức chính trị của công nhân

ngành than Quảng Ninh hiện nay

26

2.2. Thực chất và tính tất yếu của việc kết hợp ý thức chính trị

truyền thống và hiện đại trong xây dựng ý thức chính trị công

nhân ngành than Quảng Ninh hiện nay

35

2.3. Yêu cầu cơ bản của việc kết hợp truyền thống và hiện đại trong

xây dựng ý thức chính trị công nhân ngành than Quảng Ninh

69

Chương 3: KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG

Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG NHÂN NGÀNH THAN QUẢNG

NINH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN

81

3.1. Thực trạng kết hợp truyền thống và hiện đại trong xây dựng ý

thức chính trị công nhân ngành than Quảng Ninh

81

3.2. Nguyên nhân của thực trạng kết hợp truyền thống và hiện đại trong

xây dựng ý thức chính trị công nhân ngành than Quảng Ninh

100Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG Ý

THỨC CHÍNH TRỊ CÔNG NHÂN NGÀNH THAN QUẢNG NINH

HIỆN NAY

118

4.1. Phát huy vai trò tích cực, tự giác của các chủ thể trong xây

dựng ý thức chính trị công nhân ngành than Quảng Ninh theo

hướng kết hợp truyền thống và hiện đại

118

4.2. Đầu tư thích đáng cho công tác giáo dục ý thức chính trị cho

công nhân ngành than Quảng Ninh theo hướng kết hợp truyền

thống và hiện đại

130

4.3. Tiếp tục đổi mới nội dung tuyên truyền giáo dục ý thức chính

trị cho công nhân công nhân ngành than Quảng Ninh hiện nay

theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại

138

4.4. Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, giáo

dục ý thức chính trị cho công nhân ngành than Quảng Ninh

theo hướng kết hợp truyền thống và hiện đại

147

KẾT LUẬN 151

CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

153

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 154

PHỤ LỤC

pdf186 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 461 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Kết hợp hệ thống và hiện đại trong xây dựng ý thức chính trị công nhân ngành than Quảng Ninh hiện nay - Nguyễn Thị Huyền Thái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình [15]. Như vậy, để xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh hiện đại, các chủ thể xây dựng YTCT cần giúp người công nhân khắc phục, loại bỏ một số nội dung truyền thống không còn phù hợp với phương hướng xây dựng GCCN Việt Nam nói chung và công nhân ngành than Quảng Ninh nói riêng theo hướng kết hợp truyền thống va hiện đại. 2.3.5. Đấu tranh, phê phán các quan điểm cực đoan Các chủ thể xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh theo hướng kết hợp truyền thống và hiện phải khắc phục đồng thời cả hai khuynh hướng cực đoan của người công nhân đang tồn tại: hoặc là theo chủ nghĩa truyền thống, chỉ ca ngợi, đề cao và phục hồi YTCTTT theo kiểu một chiều trong một môi trường đóng cửa, khép kín; hoặc là đón nhận, tiếp thu những yếu tố mới, hiện đại của YTCT không có chọn lọc, không cân nhắc, chạy theo “hiện đại hóa” bằng bất cứ giá nào mà không tính đến sự phù hợp với thể chế chính trị, với truyền thống của dân tộc. Chủ thể xây dựng YTCT cho công nhân ngành than phải theo hướng coi trọng truyền thống chứ không theo chủ nghĩa bảo thủ; tiếp nhận các giá trị YTCT hiện đại phù hợp chứ không theo “chủ nghĩa hiện đại” lai căng, đi ngược đường lối chính trị mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn. Nhiệm vụ của việc kết hợp truyền thống và hiện đại trong xây dựng YTCT cho công nhân ngành than Quảng Ninh đòi hỏi chủ thể xây dựng YTCT phải phát huy các giá trị YTCTTT dân tộc đồng thời tiếp thu và kết hợp với những giá trị tiến bộ của thời đại (cả của trong nước và nước ngoài). Còn với những YTCTTT cũ, lạc hậu thì phải xem nó như là yếu tố cần phải loại bỏ trong YTCT của người công nhân hiện đại. Điều đó vừa giúp người công nhân bảo tồn và phát huy sức mạnh nội sinh, tạo nên một lớp 80 công nhân mới có đủ khả năng và bản lĩnh chính trị thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tất nhiên việc giải quyết mối quan hệ giữa các giá trị YTCTTT và YTCTHĐ trong xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh không chỉ dựa vào bản thân họ hay chủ thể xây dựng YTCT cho họ mà phải dựa trên cơ sở thực tiễn và nền tảng kinh tế - xã hội mà trên đó các giá trị YTCT cũ hoặc mới được thừa nhận, phát triển hay loại bỏ. Điều này cũng đòi hỏi một quá trình lâu dài và liên tục với nhiều biện pháp đồng bộ nhằm tác động vào ý thức của mỗi cá nhân, tập thể và của toàn xã hội. Tiểu kết chương 2 Giống như YTCT của GCCN Việt Nam, YTCT của công nhân ngành than Quảng Ninh cũng mang những giá trị của YTCT dân tộc truyền thống. Nhưng do những nét đặc thù nghề nghiệp, lịch sử địa phương nên trong YTCT của công nhân ngành than Quảng Ninh có những nét riêng bao gồm cả những nội dung giá trị và phản giá trị. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, YTCT của công nhân ngành than Quảng Ninh cũng đứng trước những yêu cầu của YTCT công nhân thời kỳ hiện đại. Vì vậy để xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh tất yếu phải có sự kết hợp truyền thống và hiện đại. Thực chất của sự kết hợp truyền thống và hiện đại trong xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh hiện nay là khắc phục đồng thời cả hai khuynh hướng cực đoan đang tồn tại: hoặc là theo chủ nghĩa truyền thống tuyệt đối hóa YTCTTT, hoặc theo chủ nghĩa hiện tuyệt đối hóa YTCTHĐ không phù hợp với thể chế chính trị và truyền thống văn hóa của dân tộc. Vì vậy, xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh là sự giải quyết mâu thuẫn giữa tính kế thừa hạt nhân hợp lý với việc loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp. Lấy YTCTTT là cơ sở, nền tảng cho YTCT của công nhân ngành than Quảng Ninh hiện đại. Đấu tranh, phê phán những quan điểm cực đoan chỉ nghiêng về truyền thống hoặc hiện đại. Trước những yêu cầu đặt ra, sự kết hợp truyền thống và hiện đại là một giải pháp tất yếu trong xây dựng YTCT công nhân ngành than Quảng Ninh hiện nay. 81 Chương 3 KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA CÔNG NHÂN NGÀNH THAN QUẢNG NINH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1. THỰC TRẠNG KẾT HỢP TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI TRONG XÂY DỰNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ CÔNG NHÂN NGÀNH THAN QUẢNG NINH 3.1.1. Về việc nghiên cứu và truyền bá truyền thống cách mạng của công nhân Quảng Ninh nói chung và công nhân ngành than Quảng Ninh nói riêng Trong thời gian qua, các cấp lãnh đạo của ngành Than Quảng Ninh rất quan tâm đến việc giáo dục các giá trị truyền thống cho công nhân. Có thể khẳng định không có nhiều ngành công nghiệp ở Việt Nam có được sự quan tâm đến việc nghiên cứu, truyền bá các giá trị truyền thống cho công nhân của ngành mình đến như vậy. Bên cạnh các hoạt động văn hóa, thể thao, các cuộc thi tìm hiểu các giá trị truyền thống công nhân mỏ thường xuyên được tổ chức. Không chỉ các học giả, các nhà khoa học được ngành than mời về nghiên cứu, tổ chức hội thảo mà ngay tại các đơn vị cơ sở cũng có những buổi nói chuyện, những cuộc thi dành cho cán bộ công nhân tham gia về đề tài này. Chỉ tính riêng nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống, Công đoàn TKV đã phối hợp với Tạp chí Lao động và Công đoàn tổ chức Hội thảo khoa học “Phát huy truyền thống công nhân vùng mỏ trong đổi mới kinh tế của đất nước”, biên tập xuất bản các ấn phẩm: “Bác Hồ với ngành than”, “Binh đoàn than”, “Kỷ yếu 80 năm vinh quang thợ mỏ Việt Nam” Hàng năm, các cơ quan, đơn vị ngành than Quảng Ninh đều tổ chức các đợt sinh hoạt truyền thống hay, sáng tạo đã trở thành bản sắc của người công nhân ngành than Quảng Ninh như phong trào “thợ mỏ vào ca”, “giờ thứ 9” để cập nhật và bổ sung kiến thức về các giá trị truyền thống cho người công nhân. Bên cạnh đó, các đơn vị cũng tổ chức các đợt thăm quan về 82 nguồn, thăm lại chiến trường xưa. Các phong trào này không chỉ là của riêng ngành than mà còn là niềm tự hào, là ngọn cờ thi đua của tỉnh Quảng Ninh. Hầu hết tất cả các đơn vị, cơ quan của ngành than Quảng Ninh đều có phòng truyền thống, những đơn vị lớn đều có nhà truyền thống. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường của các trường đào tạo nghề mỏ, các sinh viên đã được giáo dục về truyền thống công nhân mỏ. Khi bắt đầu đi làm, những công nhân mới này lại được các đơn vị ngành than Quảng Ninh lại tổ chức cho đi thăm quan các đơn vị truyền thống của ngành, đặc biệt là khu khu triển lãm truyền thống công nhân ngành than tại Bảo tảng Quảng Ninh. Hiện nay, ngành than đang có chủ trương xây dựng lại khu di tích lịch sử, nơi phát tích của ngành than. Phát huy các giá trị truyền thống, trong những khó khăn không thể vượt qua, những người công nhân ngành than Quảng Ninh đã nhường cơm, sẻ áo, đơn vị khó khăn ít hỗ trợ đơn vị khó khăn nhiều, chia sẻ máy móc, thiết bị, công ăn việc làm. Đặc biệt, đợt mưa lũ lịch sử tại Quảng Ninh cuối tháng 7, đầu tháng 8 năm 2015 để lại những hậu quả nặng nề cho ngành than, nhiều đơn vị phải ngừng sản xuất đẻ khắc phục sự cố, nhiều cơ sở hạ tầng của ngành than bị hư hỏng nặng Tuy nhiên, vẫn còn một số cấp ủy Đảng ở cơ sở thuộc Đảng bộ Than Quảng Ninh chưa thực sự nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của việc nghiên cứu, truyền bá truyền thống cách mạng của công nhân Quảng Ninh nói chung và công nhân mỏ nói riêng. Chưa thấy được mối quan hệ, tác động giữa hiệu quả, chất lượng giáo dục giá trị YTCTTT với việc xây dựng chính trị, tư tưởng cho người công nhân và quá trình, kết quả sản xuất kinh doanh. Việc tuyên truyền, giáo dục, trang bị những hiểu biết về giá trị truyền thống và lý luận chính trị cho công nhân trong thời gian gần đấy chưa được quan tâm thỏa đáng. Nguồn kinh phí cho việc thăm quan, sinh hoạt văn hóa, văn nghệ và nghiên cứu tìm hiểu các giá trị truyền thống cũng bị cắt giảm. 83 Bên cạnh đó, nội dung, hình thức, phương pháp tuyên truyền các giá trị YTCTTT còn nghèo nàn, chậm đổi mới, còn cứng nhắc, máy móc, nặng nề, thiếu hấp dẫn, chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin cho người nghe. Bản thân người công nhân còn chưa nhận thức đúng đắn, còn xem nhẹ giá trị YTCTTT, không tha thiết, không thấy cần thiết phải tìm hiểu về truyền thống của ngành, của đơn vị mình. Điều này dẫn đến thực trạng, số công nhân hiểu biết về lịch sử truyền thống dân tộc, truyền thống địa phương và truyền thống của ngành chưa nhiều. Khi được hỏi anh (chị) có biết về lịch sử truyền thống công nhân mỏ, của ngành than hay của Quảng Ninh không? 32,7% trả lời là biết nhiều, 66,7% trả lời là biết ít, 0,67% trả lời là không biết (xem phụ lục). Công tác tuyên truyền về các giá trị tuyền thống chưa thật sự hiệu quả. Khi được hỏi những hiểu biết của anh (chị) về truyền thống công nhân mỏ, của ngành than hay của Quảng Ninh là từ đâu, 45,7% trả lời là từ phương tiện đại chúng, 24,3% trả lời từ các đợt học tập, sinh hoạt ở cơ quan, 7,33% trả lời là qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng, 22,7% trả lời là do tự tìm hiểu (xem phụ lục). 3.1.2. Về việc nghiên cứu, tổng kết, truyền bá những giá trị mới của giai cấp công nhân hiện đại Những năm qua ngành than Quảng Ninh đã thực hiện tốt việc quán triệt các Nghị quyết của Đảng về xây dựng phẩm chất chính trị mới của GCCN hiện đại. Toàn ngành đã thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, sinh hoạt chính trị trong các đơn vị và thường xuyên tuyên truyền phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng . Từng bước đổi mới nội dung giáo dục, quan tâm giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, đoàn kết, kỷ luật cho người công nhân. Các cấp lãnh đạo ngành than Quảng Ninh cũng tăng cường phối hợp với trường Đào tạo Cán bộ Nguyễn Văn Cừ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức nhiều lớp sơ cấp, sơ cấp, cao cấp lý luận chính trị. Trung bình mỗi năm, ngành than Quảng Ninh kết nạp được 1.200 đảng viên, 15 lớp bồi dưỡng kết nạp đảng, 10 lớp đảng viên mới, 3 lớp 84 trung cấp lý luận chính trị, 1 lớp cao cấp lý luận chính trị, 30 lớp bồi dưỡng cấp ủy [104]. Riêng năm 201, Đảng ủy Than Quảng Ninh đã chủ động tổ chức bồi dưỡng 44 lý luận cho trên 4.000 học viên; phối hợp tổ chức 10 lớp đào tạo lý luận , nghiệp vụ công tác Đảng cho trên 800 cán bộ [83]. Thực hiện tốt cơ chế và sự phân cấp trong công tác tuyên truyền. Trong đó, Tỉnh ủy Quảng Ninh là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng, Đảng ủy Than Quảng Ninh là cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo trong việc tổ chức và thực hiện, các sở - ban – ngành là cơ quan phối hợp. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, của tổ chức Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đối với công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân trong việc phổ biến các văn bản pháp luật có nội dung liên quan trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của cán bộ, công nhân lao động như: luật lao động, luật dân sự, luật phòng cháy chữa cháy, luật bảo hiểm xã hội Lồng ghép các buổi sinh hoạt, nói chuyện thời sự về các vấn đề quan trọng của đất nước và quốc tế. Từ năm 2010 trở lại đây, Đảng ủy Than Quảng Ninh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức được nhiều buổi sinh hoạt nói chuyện về tình hình biển Đông, tình hình kinh tế - xã hội, vấn đề về phòng chống tham nhũng; phối hợp với các sở, ban ngành tỉnh Quảng Ninh như: Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch, Sở Thông tin và Truyền thông triển khai tốt các các sự kiện chính trị lớn của đất nước, của tỉnh. Các phong trào thi đua yêu nước trong công nhân được các cấp ủy đảng ngành than Quảng Ninh được duy trì đều đặn. Trọng tâm là phong trào “Lao động giỏi, Lao động sáng tạo”, phong trào xây dựng “Cơ quan văn hóa”, phong trào “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”; phong trào “Xanh – sạch – đẹp, bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động”, phong trào “Tự quản an ninh”. Thực hiện chương trình cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, lao động “Trung thành, sáng tạo, tận tụy, gương mẫu” theo gương Bác Hồ Củng cố niềm tin vào sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng, lãnh đạo, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 85 Để đáp ứng yêu cầu đặt ra trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng là CNH, HĐH gắn với nền kinh tế tri thức, ngành than Quảng Ninh đã có nhiều bước tiến về đào tạo, nhằm phát triển về số lượng, đảm bảo về chất lượng, hợp lý về cơ cấu, tăng nhanh tỉ lệ lao động qua đào tạo với nhiều hình thức khác nhau: đào tạo ngắn hạn, dài hạn; đào tạo trong nước, nước ngoài, tái đào tạo, đào tạo nâng cao. Hàng năm, các đơn vị trong ngành than Quảng Ninh đều dành kinh phí thích đáng và thời gian đào tạo, đào tạo lại cho công nhân. Chi phí đó được tính vào giá trị đầu tư hạch toán và chi phí sản xuất của đơn vị. Ngoài ra Đảng ủy Than Quảng Ninh đã thực hiện tuyên truyền, vận động, hỗ trợ, có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện “Đẩy mạnh các hoạt động học tập suốt đời trong trong công nhân lao động tại các doanh nghiệp đến năm 2020” cho công nhân học tập, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ... Bên cạnh đó, ngành than Quảng Ninh cũng luôn có các chính sách tôn vinh thích đáng người lao động giỏi. Quan tâm quy hoạch, bồi dưỡng những người công nhân có tài, có đức để họ trở thành các nhà quản lý giỏi có trình độ cao, có khả năng tiếp cận với công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh hiện đại trong nền kinh tế thị trường, hội nhập. Quy hoạch nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghệ mới, hiện đại. Trên cơ sở quan điểm, công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp mà cụ thể là nếu trình độ công nghệ lạc hậu sẽ tạo ra công nhân bất cập về tay nghề, công nghệ hiện đại thì tạo ra công nhân hiện đại, Ban lãnh đạo ngành than Quảng Ninh xác định trong chặng đường trước mắt là chuyển dần các lao động thủ công, nửa cơ khí và cơ khí với công nghệ lạc hậu, lỗi thời sang sản xuất chủ yếu bằng công cụ cơ khí hiện đại, công nghệ tiên tiến. Đổi mới công nghệ khai thác than, trang bị máy móc, phương tiện hiện đại cho khai thác lộ thiên, cơ giới hóa khai thác hầm lò và đi lại của công nhân trong hầm lò. Trong thực tế, những năm qua ngành than Quảng Ninh đã và đang nhập ngày càng nhiều máy móc hiện đại. 86 Quan trọng hơn, công nhân và cán bộ của ngành than Quảng Ninh đã và đang vươn lên chế tạo thành công máy móc hoặc một bộ phận máy móc thay thế cho nhập ngoại. Người công nhân ngày càng điều khiển và vận hành máy móc hiện đại một cách thuần thục. Trình độ công nhân ngành than Quảng Ninh không thua kém gì trình độ công nhân ngành than trong nước và trong khu vực. Từ đặc điểm ngành nghề, ngành than Quảng Ninh vẫn cần một lực lượng lao động và một hàm lượng lao động cơ bắp đáng kể. Tuy nhiên, để hướng tới nền kinh tế tri thức, lãnh đạo ngành than Quảng Ninh đã tích cực phát triển các loại hình dịch vụ liên quan đến chế biến, khai thác, tiêu thụ than như dịch vụ thương mại, du lịch để tăng số lượng công nhân có trình độ cao. Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế cả nước, trong những năm qua, TKV đã tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, phát triển thương mại và từng bước mở rộng đầu tư ra nước ngoài khởi đầu cho một quá trình hình thành và phát triển tập đoàn xuyên quốc gia. Vì vậy, từ chỗ chủ yếu hợp tác nghiên cứu khoa học và đào tạo với các đối tác truyền thống đến nay, ngành than Quảng Ninh đã có quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp và định chế tài chính lớn trên thế giới như ASEAN, châu Á, châu Âu, châu Mỹ Có văn phòng đại diện tại Lào và Cămpuchia. Trong quá trình giao lưu hợp tác, công nhân ngành than Quảng Ninh đã có điều kiện tiếp thu khoa học công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm, rèn luyện tác phong và tính tổ chức, kỷ luật trong hoạt động công nghiệp. Tuy nhiên, lãnh đạo ngành than Quảng Ninh cũng yêu cầu đội ngũ công nhân của mình phải biết vươn lên chớp thời cơ, vượt lên những khó khăn hiện tại về kinh tế cùng với những hạn chế của chính mình. Các doanh nghiệp trong ngành phải tích cực, chủ động sắp xếp công việc, tìm kiếm thị trường và đối tác, xúc tiến thương mại, đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh, liên kết với nhau chiếm lĩnh thị trường trong và ngoài nước, giành những thuận lợi tối đa cho những hiệp định thương mại tự do mới đem lại. 87 Lãnh đạo ngành than Quảng Ninh cũng xác định, giao lưu, hiểu biết, tiếp thu văn hóa nhân loại, sàng lọc và lựa chọn những giá trị phù hợp với đất nước, con người Việt Nam. Công nghệ và vốn nước ngoài rất quan trọng nhưng yếu tố quyết định sự phát triển trong sản xuất kinh doanh là yếu tố nội sinh bao gồm cả năng lực khoa học, năng lực kinh tế, văn hóa chính trị của người công nhân. Vì vậy, những năm qua, các cấp ủy ngành than Quảng Ninh đã lãnh đạo đơn vị sản xuất kinh doanh trong ngành phát huy cao độ tinh thần “dựa vào sức mình là chính”, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài, xây dựng các yếu tố nội nội lực mạnh để tránh nguy cơ lệ thuộc về kinh tế, khoa học kỹ thuật, ô nhiễm môi trường, lãng phí tài nguyên và trở thành bãi thải công nghiệp cho nước ngoài. Quan hệ hợp tác theo phương châm “Từ tài nguyên khoáng sản và nguồn nhân lực đen giàu mạnh; thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; hài hòa với địa phương, cộng đồng; hài hòa với đối tác, bạn hàng; hài hòa với các công ty thành viên và người lao động”. Trong tiến trình đổi mới, hội nhập, cuộc đấu tranh về tư tưởng càng trở nên phức tạp nhất là trong điều kiện ngành than đang gặp khó khăn và thực hiện tái cơ cấu. Đảng bộ Than Quảng Ninh đã tích cực tuyên truyền SMLS của ngành trong giai đoạn hiện nay đến từng công nhân, đó là: 1- Phát triển công nghiệp than, công nghiệp khoáng sản, công nghiệp điện, vật liệu nổ công nghiệp và các ngành nghề khác nhau một cách bền vững. 2- Kinh doanh có lãi, đảm bảo và phát triển vốn nhà nước đầu tư tại Tập đoàn. 3- Bảo đảm an toàn lao động và bảo vệ môi trường sinh thái. 4- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa phương và phát triển cộng đồng. 5- Không ngừng nâng cao trình độ nghề nghiệp, đời sống vật chất, tinh thần của công nhân viên chức và người lao động. 6- Đáp ứng nhu cầu than của nền kinh tế; đóng góp ngày càng nhiều vào việc thực hiện mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" [82, tr. 24]. Đây cũng là nhiệm vụ, là sứ mệnh mà mỗi người công nhân ngành than Quảng Ninh phải tích cực phấn đấu, góp phần hoàn thành 88 SMLS toàn ngành. Vì vậy, phần lớn công nhân lao động TKV nói chung và ngành than Quảng Ninh nói riêng đều ý thức được trách nhiệm, SMLS của mình, giữ vững và phát huy truyền thống “Thợ mỏ anh hùng”, làm việc cần cù, chịu đựng vất vả, gian khổ gắn bó với nghề. Bên cạnh những mặt tích cực, việc nghiên cứu, tổng kết, truyền bá những giá trị mới của GCCN hiện đại của ngành than Quảng Ninh vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc quán triệt các nghị quyết, chủ trương của Đảng trong thực tế vẫn chưa chuyển thành tư tưởng và hành động của tất cả các tổ chức và cá nhân người công nhân. Một trong những vấn đề đáng quan tâm hiện nay là trình độ nhận thức chính trị của người công nhân ngành than Quảng Ninh vẫn chưa đáp ứng được với yêu cầu của trình độ phát triển kinh tế đất nước, công nghệ và toàn cầu hóa. Không ít công nhân không thể trình bầy một cách khái quát những nội dung quan trọng, cốt lõi nhất về vị trí, vai trò của giai cấp mình trong thời đại mới cũng như trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Do đó họ chưa ý thức được mình là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong xây dựng, phát triển nền kinh tế thi trường định hướng XHCN và trong hội nhập kinh tế quốc tế. Thậm chí một số công nhân còn có suy nghĩ rằng giai cấp mình không còn có vai trò tiên phong, vai trò lãnh đạo trong gia đoạn hiện nay. Một bộ phận không nhỏ công nhân chưa hiểu rõ về nghĩa vụ, quyền lợi chính trị của mình trong đời sống chính trị ở địa phương, cơ sở và trên phạm vi cả nước nói chung. Khi được hỏi “Theo anh (chị) vai trò quan giai cấp, tầng lớp nào có vai trò quan trọng nhất đối với quá trình phát triển của nước ta hiện nay?” Chỉ có 62,7% trả lời đúng là giai cấp công nhân. Cũng không ít công nhân còn chưa nắm vững những nội dung cơ bản trong các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, kể cả những chính sách pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình như: Quy chế dân chủ ở doanh nghiệp, Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật doanh nghiệp Chủ yếu người công nhân chỉ 89 quan tâm đến quy chế cơ quan đơn vị mình. Tỷ lệ công nhân đã đọc các văn bản khác có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của chính bản thân họ là rất thấp như: Hiến pháp (36,3%), Bộ luật lao động (50,3%), Luật Công đoàn (38,7%), Luật doanh nghiệp (33,3%), Luật đầu tư nước ngoài (11%), trong đó số người quan tâm đến các văn bản này chủ yếu cũng chỉ tập trung ở đội ngũ công nhân lao động gián tiếp có liên quan trực tiếp đến công việc cần tìm hiểu (xem phụ lục). Không ít công nhân không chịu khó rèn luyện, tu dưỡng nhằm nâng cao tay nghề, trình độ hiểu biết và phẩm chất đạo đức, không có nhu cầu tự nâng cao kiến thức, nhận thức, bản lĩnh chính trị, nâng cao năng lực tư duy để tiếp cận những vấn đề mới, dễ bằng lòng với bằng cấp hiện có mà ít chịu học tập, nghiên cứu nhiều hơn, sâu hơn đặc biệt là đối với các vấn đề lý luận chính trị. Khi được hỏi về mức độ quan tâm của anh (chị) đối với việc học tập nâng cao trình độ: 56% trả lời rất quan tâm, 35,7% trả lời quan tâm, 8,33% trả lời không quan tâm (xem phụ lục). Nhiều công nhân không nắm bắt được các nhận định của Đảng về tình hình mới, sự vận động của các trào lưu tư tưởng mới. Họ hầu như cũng rất ít hiểu biết về những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, cũng như của CNXH khoa học. Vẫn còn một số ít thiếu tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới đất nước, vào tương lai tiền đồ của dân tộc. Cá biệt một số công nhân quá coi trọng lợi ích vật chất, sống buông thả, chạy theo tiền tài, danh vọng hoặc có tâm lý sùng ngoại, tự ti dân tộc. Không ít công nhân coi việc học lý luận chính trị, chính sách pháp luật của Nhà nước là khô khan. Cho rằng học chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là giáo điều, lý thuyết suông, vô bổ, coi đó là môn học áp đặt, không thiết thực, xa rời thực tế, lạc hậu, lãng phí thời giờ của công nhân, của doanh nghiệp không tự nhận thấy nguyên nhân chính là do bản thân đã không gắn những vấn đề lý thuyết với thực tế sinh động nên thụ động trong 90 việc tiếp nhận, sử dụng, vận dụng, xử lý những kiến thức những thông tin mới. Một số công nhân không chịu tìm hiểu đến nơi đến chốn những vấn đề mang tính nền tảng, nguyên tắc, cho đó là điều không cần thiết nên trước thực tiễn, trước những mặt trái, tiêu cực của xã hội thường cảm thấy các kiến thức nền tảng đó không được thuyết phục, hoặc hồ nghi những kiến thức đã học. Lại có những công nhân ít suy ngẫm, đối chiếu kiến thức được trang bị với thực tế xem lý thuyết có phù hợp hay không mà áp dụng một cách máy móc hoặc mặc nhiên công nhận nên cũng không phát hiện được những sự giáo điều, lý thuyết suông của người dậy. Một số công nhân, nhất là những người trực tiếp sản xuất thậm chí còn “sợ” học chính trị không tự nhận thấy lợi ích thiết thân của việc học tập. Điều đó đã dẫn đến hiện tượng “nhạt Đảng, khô Đoàn, chán chính trị” trong một bộ phận công nhân. Mặt khác, việc truyền bá các giá trị mới, những kiến thức nền tảng là vũ khí lý luận GCCN có nội dung kiến thức trừu tượng, nhiều nhưng phương pháp truyền đạt chưa hấp dẫn người học, người nghe khiến cho người công nhân, trong đó có cả những cán bộ quản lý, không tha thiết, say sưa nghiên cứu, học tập. Các buổi sinh hoạt tại các tổ chức cơ sở đảng chỉ đơn thuần là giới thiệu nghị quyết, cung cấp tuyên truyền, giới thiệu thông tin, thông báo thời sự, tổ chức các hoạt động văn hóa văn nghệ mà mà ít có sự định hướng, đi sâu phân tích. Các phong trào diễn ra thường xuyên nhưng ít đổi mới nên hiệu quả mang lại chưa cao. Nguồn kinh phí sử dụng đầu tư cho công tác giáo dục chính trị - tư tưởng còn hạn chế. Do điều kiện ngành than đang gặp nhiều khó khăn nên so với nhiều năm trước, quy mô, tổ chức, kinh phí đầu tư xây dựng, chính sách đãi ngộ cho học tập có phần bị thu hẹp. Vì vậy, điều kiện học tập cho người công nhân đôi lúc gặp nhiều bất lợi về thiết bị, phương tiện hạn chế gây khó khăn cho việc gắn lý thuyết với vận dụng vào thực tiễn, học nhưng ít có điều kiện hành. Đặc biệt hầu hết các buổi sinh hoạt, học tập lý luận chính trị, người công nhân vừa phải tham gia học tập nhưng vẫn phải hoàn thành công việc ở cơ quan với khối lượng lớn dẫn đến tình trạng thiếu tập trung, tham gia không đầy đủ. 91 3.1.3. Về hiện đại hóa các giá trị truyền thống của công nhân mỏ, xây dựng các phẩm chất chính trị mới cho công nhân ngành than Quảng Ninh Xác định tầm quan trọng của việc đẩy mạnh tinh thần yêu nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành nhất l

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_ket_hop_he_thong_va_hien_dai_trong_xay_dung_y_thuc_c.pdf
Tài liệu liên quan