Trang phụ bìa
Lời cam đoan
MỤC LỤC.i
DANH MỤC BẢNG .iii
MỞ ĐẦU.01
1. Tính cấp thiết của đề tài .01
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.03
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.04
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.06
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án.11
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án.12
7. Kết cấu của luận án .12
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .13
1.1. Các nghiên cứu liên quan đến chợ .13
1.1.1. Nghiên cứu của các học giả trong nước .13
1.1.2. Nghiên cứu của học giả nước ngoài .23
1.2. Các nghiên cứu về chợ .27
1.2.1. Các nghiên cứu về chợ trên cả nước .27
1.2.2. Các nghiên cứu về chợ ở Nam Trung Bộ.30
1.3. Những nội dung luận án kế thừa .31
1.4. Những nội dung luận án cần giải quyết .32
Chương 2: SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA MẠNG LƯỚI CHỢ
Ở NAM TRUNG BỘ .35
2.1. Những yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển mạng lưới chợ .35
2.1.1. Điều kiện tự nhiên .35
2.1.2. Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội và truyền thống của cộng đồng
cư dân .38
2.1.3. Chính sách thương nghiệp của triều Nguyễn .46
2.1.4. Sự hình thành và phát triển của các đô thị, thị tứ .49
2.1.5. Mạng lưới giao thông thủy, bộ .51
195 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 338 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Mạng lưới chợ ở nam trung bộ thời Nguyễn (giai đoạn 1802 - 1884), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ữ vai trò đầu
mối trao đổi mua bán giữa miền ngược và miền xuôi. Đây chính là các chợ đóng vai
trò kết nối thương mại nội vùng và liên vùng, vừa là những chợ chính, nhưng cũng là
những chợ vệ tinh bổ sung, hỗ trợ cho hoạt động thương mại ở các phố cảng.
77
Chương 3: HOẠT ĐỘNG TRAO ĐỔI, BUÔN BÁN Ở CHỢ NAM TRUNG BỘ
3.1. Nguồn hàng hóa cung ứng cho các chợ
Trong thế kỉ XIX, Nam Trung Bộ được xem là vùng đất giàu có về tài nguyên
thiên nhiên, đặc biệt là sản vật của núi rừng và biển cả. Các nguồn hàng nông, lâm,
thổ, hải sản và các sản phẩm thủ công đều phong phú, đa dạng. Nguồn hàng đó
không chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ của cư dân mà còn đáp ứng nhu cầu trao đổi,
buôn bán giữa các địa phương trong vùng và với bên ngoài thông qua các chợ, thị
tứ, phố cảng, đô thị. Đồng thời, nó cũng mang lại sự phồn thịnh cho các tỉnh Nam
Trung Bộ và cũng chính là cơ sở để phát triển nội, ngoại thương dưới triều Nguyễn.
3.1.1. Các mặt hàng nông sản
Địa hình lãnh thổ các tỉnh Nam Trung Bộ thường bị chia cắt bởi các đèo, dốc
và núi ven biển; các vùng đồng bằng nhỏ hẹp nằm ở châu thổ của các con sông
ngắn, có độ dốc cao bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển, cùng với khí hậu nóng
ẩm đã gây nhiều khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Dù vậy, các đồng bằng châu
thổ sông Côn hay các vùng đồng bằng ở Phú Yên, Khánh Hòa vẫn được ghi nhận là
các đồng bằng trù phú, sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định.
Lúa được xem là cây trồng quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp ở Nam
Trung Bộ. Sách Đại Nam nhất thống chí liệt kê nhiều loại nông sản nổi tiếng ở Nam
Trung Bộ thế kỉ XIX, trong đó có lúa với hai loại nếp và tẻ. Dưới triều Nguyễn,
Tổng đốc Bình - Phú là Vũ Xuân Cẩn đánh giá cao tài nguyên đất đai và nông
nghiệp trồng lúa ở Bình Định. Theo ông: “Đất đai ở Bình Định màu mỡ không kém
gì các tỉnh Nam Kì, lại có đê bối giữ nước, có thể không bị hạn hán. Nông dân một
năm được hai vụ gặt rất được lời” [85, tr. 474]. Lúa cũng là một trong những sản vật
địa phương ở tỉnh Khánh Hòa được sách Đại Nam nhất thống chí liệt kê trong phần
thổ sản. Ở Bình Thuận, không có những đồng bằng màu mỡ nhưng cho đến những
năm cuối thế kỉ XIX, việc trồng lúa cũng được tiến hành ở khắp nơi trong tỉnh: các
ruộng lúa đã được cày xới và gieo hạt một phần đối với các ruộng không cấy. Với
các ruộng khác đã sẵn sàng việc cấy mạ mới. Những trận mưa lớn đã tạo điều kiện
thuận lợi cho nông nghiệp. Việc trồng và thu hoạch lúa tiếp tục là nguồn lương thực
chính của người Việt Nam [133].
78
Lúa, gạo là một trong những nông sản nổi tiếng của vùng và đã sớm trở thành
hàng hóa, được đem trao đổi, buôn bán trên thị trường. Đây không chỉ là mặt hàng có
nguồn gốc từ địa phương mà còn xuất phát từ các tỉnh Nam Kì mang tới. Dụ của vua
Minh Mệnh với bộ Hộ năm 1830 cho biết: “Các hạt Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình
Định, Phú Yên, Bình Hòa, Bình Thuận, đất cấy lúa không bằng Gia Định, nhân dân
ăn nhờ vào gạo miền Nam. Tự trước đến nay cứ đến lúc giáp hạt hoặc lúc lụt hạn tầm
thường, thuyền Nam tiện gió thì bọn nhà giàu đánh cao giá để được lợi nhiều nên giá
gạo ngày càng cao. Nếu không chuyên chở chỗ có đến chỗ không, thì nông dân Gia
Định đã bị cái nạn thóc rẻ mà nhà giàu các nơi lại được đầu cơ kiếm lợi, nhân dân lại
càng thiếu hụt. Tự nay phàm hạt nào bị gạo đắt, như gặp mùa xuân, mùa hạ thuyền
Nam tiện gió thì tư ngay cho thành Gia Định thông sức cho các nhà buôn trong hạt,
sắm cho nhiều thuyền chở gạo đến bán, để chỗ thiếu gạo khỏi phải đói kém mà lợi
cho sự sinh lí của nhà buôn” [83, tr. 24]. Như vậy, Dụ của vua Minh Mệnh không chỉ
thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến đời sống nhân dân mà còn cho thấy vai trò
điều tiết của nhà nước đối với lúa gạo - nguồn lương thực chính của nhân dân. Do đó,
lúa gạo sản xuất ở Gia Định cũng được đem trao đổi, mua bán ở các tỉnh Nam Trung
Bộ. Lúa gạo không chỉ được trao đổi, buôn bán ở các chợ lớn mà còn được trao đổi,
buôn bán ở các chợ đầu nguồn. Mặt hàng này được các thương nhân miền xuôi chở
lên trao đổi với các dân tộc thiểu số vùng thượng nguồn để đổi lấy các mặt hàng lâm,
thổ sản. Vì vậy, ca dao miền Trung có câu: “Củi không giá là củi Lê Ban1/Củi đổi lấy
hàng gạo muối treo cây” [32, tr. 454].
Ngoài lúa gạo, ở các tỉnh Nam Trung Bộ cũng là nơi có nhiều nông sản nổi
tiếng khác như: đậu (đậu xanh, đậu đen, đậu vàng...), dưa, khoai lang, rau, dứa,
chuối, cau... Cuối thế kỉ XIX (năm 1897), đây vẫn là những nông sản nổi tiếng của
vùng được trao đổi, buôn bán trong các chợ và xuất đi các địa phương khác. Hoạt
động trồng lúa diễn ra ở nhiều nơi. Khoai lang được bán nhiều ở chợ. Ngô cho
thu hoạch tốt. Lạc chưa thu hoạch. Cau cho thu hoạch tốt.Tại Phan Rang xuất đi
các tỉnh Trung Kỳ các mặt hàng như cá khô, gạo (với tổng trị giá là 3.069 quan),
ngô, rau, thuốc lá, cau, gai, mây [132]. Hay như ở Bình Định, ngoài lúa là cây trồng
1
Lê Ban là người sáng lập ra chùa Dũng Tuyền, sau đổi thành Linh Phong thiền tự (1733). Chùa Linh Phong
còn được gọi là chùa Ông Núi, nay thuộc xã Cát Tiến, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
79
chính ra còn có lạc và đậu đỗ là những sản phẩm quan trọng của Bình Định để làm
ra bột. Năm 1887, các mặt hàng này cũng được xuất đến Sài Gòn 42.316kg với giá
trị khoảng 1.360 quan và xuất khẩu 2.796kg ra nước ngoài [130]. Trong các loại
nông sản ở Nam Trung Bộ, xoài (xoài tượng, xoài cơm) được trồng ở nhiều địa
phương (Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,), và có lệ dâng vua. Ví như năm 1812,
quy định Bình Định hàng năm tiến 1000 quả xoài lớn (xoài tượng) để cúng tết Đoan
Dương và các ngày kị [81, tr. 837]. Theo lệ cũ, dưới thời Minh Mệnh, năm 1834,
các tỉnh Quảng Nam, Bình Định, Phú Yên đều hái tiến xoài tượng là của thổ ngơi
của các địa phương. Bên cạnh đó, Nam Trung Bộ còn là vùng đất nuôi sống và phát
triển nhiều cây công nghiệp như: dừa, trà, dâu nuôi tằm, mía.... Đây không chỉ là
nguồn hàng được buôn bán ở chợ mà còn là nguyên liệu cho các ngành thủ công
nghiệp truyền thống ở địa phương.
Nhìn chung, Nam Trung Bộ là vùng đất trù phú về nông nghiệp. Những sản
phẩm nông nghiệp được đem ra trao đổi, buôn bán ở các chợ đã phần nào đáp ứng
được nhu cầu lương thực cơ bản cho cư dân, bổ sung nguồn nguyên liệu cho các
ngành nghề thủ công; đồng thời, tạo cơ sở nền tảng cho hoạt động nội, ngoại thương
ngày càng mở rộng.
3.1.2. Các mặt hàng thủ công nghiệp
Một trong những mặt hàng tạo nên luồng thương mại mạnh mẽ ở Nam Trung
Bộ trong thế kỉ XIX là sản phẩm của các nghề thủ công. Nghề dệt vải lụa, nhiễu... nổi
tiếng ở các tỉnh Nam Trung Bộ. Đại Nam nhất thống chí cho biết: vải, lụa, lĩnh, là, sô,
sa, sản xuất ở hai huyện Bình Sơn và Mộ Đức (Quảng Ngãi); ở huyện Diên Phước,
Duy Xuyên, Hà Đông (Quảng Nam); ở Tuy Viễn, Bồng Sơn và các huyện khác của
tỉnh Bình Định. Ở dinh Bình Khang (Khánh Hòa) có nghề dệt trừu nam (một thứ
hàng tơ dày), dệt cói, được quy định nộp thuế hàng năm. Ngay từ năm 1794, ty biệt
nạp trừu nam đã được đặt ở Bình Khang, mỗi người mỗi năm phải nộp thuế thân 1
quan 1 tiền, 1 tấm trừu khổ 7 tấc dài 30 thước. Ở Bình Định và Phú Yên cũng có
nghề dệt trừu nam, thảm cói và chiếu trơn. Đặc biệt, ở Phú Yên có nghề dệt chiếu cù
du nổi tiếng. Chiếu sản xuất ở huyện Đồng Xuân và phủ Tuy Hòa. Trong đó, nghề dệt
chiếu ở Trường Thịnh (nay thuộc Đông Hòa, Phú Yên) xuất hiện sớm nhất. Ngay từ
đầu thời Gia Long (năm 1807), người dân Phú Yên đã phải nộp thảm vuông cù du
80
mỗi người 4 đôi (dân tráng). Chiếu cù du không chỉ đặc biệt ở nguyên liệu dệt (sợi
lác, sợi thưng) mà còn có hình dáng, kích thước (vuông), chất lượng (bền, chắc) nổi
tiếng khắp cả nước. Chiếu cù du dày, chắc một cách đặc biệt khác hẳn chiếu thường
nên mới phân chia: đội cù du dệt thảm cói, đội quan tịch dệt chiếu. Chính vì chiếu cù
du có độ bền chắc nên một thời nổi tiếng khắp vùng với câu ca: “Lụa nào tốt bằng lụa
Ngân Sơn/Cù du chiếu tốt tiếng đồn gần xa”. Đội dệt chiếu là tập hợp rất nhiều hộ dệt
chiếu trong làng. Ở đó có sự phân công lao động khá chặt chẽ. Người thợ cả đảm
nhiệm phần dệt chiếu, còn thợ phụ (kể cả trẻ em) cắt lác, chẻ lác... những công việc
nhẹ nhàng không đòi hỏi kỹ thuật cao. Vào triều Nguyễn (giai đoạn 1802 - 1884), hộ
dệt chiếu cù du tỉnh Phú Yên có 112 người [120, tr. 129].
Ngoài ra, trong thế kỉ XIX, ở Nam Trung Bộ còn có nhiều ngành nghề thủ
công như làm nón, rèn, đúc, đóng thuyền, các nghề chế tác vật liệu xây dựng (làm
đá ong, nấu vôi), nghề đan.... Sách Đại Nam nhất thống chí, phần “Thổ sản” cũng
đã ghi lại nhiều sản phẩm của các nghề thủ công truyền thống ở các tỉnh Nam Trung
Bộ như: nón, chiếu, rượu, bún song thằn, bột đậu.... (Bình Định); lụa, lĩnh (Khánh
Hòa); nước mắm (Bình Thuận). Đặc biệt, Bình Định và Phú Yên là vùng đất nổi
tiếng với cây dừa và sản phẩm từ dừa. Dừa không chỉ dùng để chế biến thức ăn (kẹo
dừa, bánh tráng dừa) mà còn dùng để sản xuất ra các sản phẩm thủ công như: dầu
dừa, dây dừa, gáo dừa, võng dừa, thảm dừa.
Nhiều làng nghề thủ công ra đời, có trình độ chuyên môn hóa cao. Ví như, ở
Bình Định có nhiều làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định như làng
nón Phú Gia, Kiều An (xã Cát Tường, huyện Phù Cát), các làng Bỉnh Đức (xã Tây
Vinh, huyện Tây Sơn), Tân Đức, Tân Nghi (thuộc xã Nhơn Mỹ, thị xã An Nhơn),
Gò Găng, Châu Thành, Phú Thành, (thuộc phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn);
nghề làm muối ở thôn Hưng Thạnh (Quy Nhơn), muối Đề Gi (Phù Cát); nghề rèn ở
Tây Phương Danh (phường Đập Đá, thị xã An Nhơn); nghề làm bún song thằn ở An
Thái (xã Nhơn Phúc, thị xã An Nhơn),. Ở Phú Yên, nghề muối Tuyết Diêm
(thuộc xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu) là một loại muối được đánh giá là ngon nhất
ở khu vực miền Trung và nổi tiếng. Nghề đóng tàu thuyền Đông Tác (nay thuộc
phường Phú Đông, thành phố Tuy Hòa) chuyên đóng tàu thuyền đi biển. Nghề
chằm nón nổi tiếng ở Phú Diễn. Trước thế kỉ XIX, làng Phú Diễn chỉ có vài ba gia
81
đình làm nghề chằm nón, đến thời Nguyễn đa số các gia đình trong làng đều làm
nghề chằm nón; từ nghề phụ, chằm nón đã trở thành một nghề chuyên nghiệp của
làng Phú Diễn. Nghề dệt lụa Ngân Sơn cũng đã có trình độ chuyên môn hóa cao.
Dưới triều Nguyễn, làng Ngân Sơn còn có tên gọi là Phường Lụa, nguyên là xã Bạc
Má, tổng Hạ, huyện Đồng Xuân, nay thuộc thị trấn Chí Thạnh, Tuy An. Ngân Sơn
có dòng sông Cái chảy qua đem phù sa bồi đắp, nên rất thích hợp trồng hoa màu,
cây công nghiệp, đặc biệt là cây dâu. Vì vậy, ngoài trồng trọt và chăn nuôi, không
nghề nào hiệu quả hơn trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Sản phẩm lụa Ngân Sơn đã
được lưu hành khắp cả nước và người ta gắn địa phương này với tên sản phẩm là
Phường Lụa và chiếc cầu bắc qua sông Cái mang tên cầu Phường Lụa. Nghề dệt
chiếu Cù Du cũng là nghề thủ công truyền thống và nổi tiếng ở Phú yên. Từ trước
thế kỉ XIX, nhiều làng dệt chiếu ở Phú Yên đã rất nổi tiếng với sản phẩm của mình.
Trong thế kỉ XIX, nghề dệt chiếu ở Phú Yên tiếp tục phát triển và được ghi trong
Đại Nam nhất thống chí, mục sản vật có chiếu cù du; trong Đại Nam thực lục có nói
đến việc dân Phú Yên mỗi năm phải nộp thảm vuông cù du. Phú Yên cũng có nhiều
làng gốm, nhưng gốm Quảng Đức nổi tiếng hơn cả. Thôn Quảng Đức còn gọi là
xóm Gõ thuộc xã An Thạch, huyện Tuy An. Quảng Đức nằm bên dòng sông Cái
(sông Ngân Sơn), vừa gần đường thiên lí lại vừa ở gần trung tâm tỉnh lỵ lúc bấy giờ
(Long Uyên), nơi đây còn có bến Hàng Giao ăn thông ra biển qua cửa Tiên Châu.
Đặc biệt, nghề dệt lụa và nghề làm đường ở các tỉnh Nam Trung Bộ đã có sự
chuyên môn hóa cao. Ví như nghề dệt, có sự phân công lao động rõ ràng: có hộ gia
đình chuyên dệt lụa, hộ chuyên dệt lãnh, hộ chuyên dệt gấm, hộ chuyên nhuộm. Sản
phẩm làm ra với nhiều màu sắc, họa tiết trang trí khác nhau: lụa màu xanh, tím,
hồng tươi và có thể dệt lụa trơn hay cải hoa. Tùy mỗi loại mà dệt trên các khung cửi
khác nhau. Muốn dệt được lụa hoa cần phải có 2 người phối hợp: một người dệt,
một người kéo hoa. Hầu hết ở các tỉnh Nam Trung Bộ đều phát triển nghề dệt lụa,
trong đó sản phẩm của nghề dệt lụa Ngân Sơn (Phú Yên) đã lưu hành khắp nơi
trong cả nước. Các thương nhân Bình Định rất ưa thích lụa Ngân Sơn, họ mua sỉ
từng gón (bó 10 tấm) và xuất cảng bằng ghe với số lượng lớn về Nha Trang, vào Sài
Gòn và sang cả Hồng Kông. Theo tài liệu của các công sứ hai tỉnh Phú Yên và Bình
82
Định thì ở đây trước kia sản xuất nhiều tơ, đông đảo nhà buôn Hoa Kiều đi vào từng
làng mua tơ bán vào Sài Gòn và sản xuất sang Hồng Kông [120, tr. 125].
Nghề làm đường cũng có trình độ chuyên môn hóa cao và nổi tiếng không chỉ ở
các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi mà nghề làm đường ở Phú Yên cũng rất nổi tiếng.
Sản xuất đường theo đơn vị gia đình nhưng nó mang tính chất làng xã rõ rệt về số
lượng thành viên và quan hệ hợp tác. Mỗi gia đình đều có lò làm đường riêng. Sản
xuất đường cần phải qua nhiều khâu và phải có sự hợp tác của nhiều người: chủ sở
mía, thợ nấu đường, thợ chuyên đốt lửa, thợ chuyên hốt bã, phơi bã, chặt vác mía vào
lò.... Tất cả đều dưới quyền chỉ huy của thợ cả (thợ chính)- người thợ nấu đường. Sự
phân công lao động trong các lò đường khá chặt chẽ, mỗi người đảm nhận một công
việc nhưng cũng chỉ là sự phân công hợp tác có tính chất bình đẳng chứ không phải là
sự phân công hợp tác giữa người thợ thủ công bị chi phối, khống chế bởi một chủ tư
bản duy nhất. Sản phẩm đường có nhiều loại (đường đen, đường muỗng, đường khối,
đường tán....) và được đem trao đổi buôn bán khắp các chợ ở cả vùng đồng bằng cho
đến trung du, miền núi.
Như vậy, cùng với sự phát triển của nông nghiệp, thủ công nghiệp ở các tỉnh
Nam Trung Bộ cũng có bước phát triển và ngày càng chuyên môn hóa. Thủ công
nghiệp vùng Nam Trung Bộ thời Nguyễn (giai đoạn 1802-1884) vẫn giữ được vai
trò cung ứng các mặt hàng thiết yếu cho nhu cầu đời sống trong bối cảnh ngoại
thương có nhiều biểu hiện sa sút. Đây là tiền đề quan trọng và là tiền đề bên trong,
là yếu tố nội sinh để hình thành và phát triển mở rộng mạng lưới chợ ở các tỉnh
Nam Trung Bộ, thúc đẩy sự phát triển của các tụ điểm sản xuất và buôn bán được
gọi là thị tứ và ở cấp độ cao hơn là các đô thị/phố cảng.
Vùng biển các tỉnh Nam Trung Bộ có độ mặn nước biển lớn, rất thích hợp cho
nghề làm muối. Hầu hết các tỉnh Nam Trung Bộ đều phát triển nghề làm muối.
Muối là sản phẩm quan trọng được trao đổi với cư dân các vùng núi cao và với
nước ngoài. Ví như, muối sản xuất ở Quy Nhơn thường được xuất đi theo đường bộ
đến cho người miền thượng với mục đích trao đổi hàng hóa. Muối ở Quy Nhơn,
cũng được xuất theo đường biển sang Hồng Kông, Manila,. [131]. Việc sản xuất
muối không chỉ cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt của cư dân địa phương, cho vùng
núi mà còn góp phần giải quyết nguồn cá dư thừa sau mỗi chuyến đánh bắt. Bởi lẽ,
83
Nam Trung Bộ là vùng đất có bờ biển dài, nhiều tôm cá. Sau khi đánh bắt được,
người dân thường đem hải sản đến tiêu thụ là các chợ làng, chợ phiên. Đối với ngư
dân chuyên đánh bắt cá trên biển thì việc tiêu thụ diễn ra nhanh chóng qua các mối
hàng đã thoả thuận. Những người buôn cá thường mua cá ngay tại bến thuyền khi
ngư dân vừa đánh bắt từ biển trở về. Cá được thu mua sau đó đem vào trong đất liền
rồi nhanh chóng chuyển đến các chợ để bán. Tuy nhiên, do trình độ và kĩ thuật đánh
bắt của ngư dân còn thấp kém, việc bảo quản cá gặp nhiều khó khăn nên cá tươi khó
được mang đi xa để tiêu thụ. Mặt khác, sự phát triển của nghề làm muối còn tạo
điều kiện cho nghề làm nước mắm phát triển. Ở Bình Định có nhiều làng nghề làm
nước mắm, tiêu biểu nhất là mắm Gò Bồi và Đề Gi. Ngoài nước mắm ở Bình Định
ra, nước mắm còn là một trong những sản phẩm nổi tiếng ở Bình Thuận. Nước mắm
sản xuất ở cửa biển Phan Rang và Phan Rí ngon hơn so với các vùng khác.
Đối với các loại hải sản chế biến như nước mắm, các loại mắm, món mặn,
món khô, việc tiêu thụ có nhiều thuận lợi hơn, do có thể vận chuyển đi xa và để dài
ngày. Đối với các sản phẩm này ngư dân có thể đưa tới vùng cao, vùng xa hay các
tỉnh lân cận. Nước mắm được ngư dân đựng trong những chiếc thùng nhỏ gánh lên
các phiên chợ vùng trung du hay đi bán trong các làng quê. Một chuyến đi bán nước
mắm có thể kéo dài vài ngày. Khi nước mắm được bán xong thì thương nhân đưa về
các thứ đổi được như dầu rái, mật ong, lương thực Các món cá khô, cá trụng cũng
được đưa đi tiêu thụ xa, lên tận vùng núi, vùng cao.
Sản phẩm của các nghề thủ công không chỉ đáp ứng nhu cầu sử dụng mà còn đáp
ứng được nhu cầu trao đổi hàng hóa của cư dân. Các sản phẩm thủ công được trao đổi,
buôn bán tại các chợ nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, sản xuất của nhân dân địa
phương. Ví như sản phẩm của nghề làm nón, nghề dệt, nghề làm mắm, muối, đều là
những mặt hàng được trao đổi, buôn bán ở khắp các chợ. Ca dao, hò, vè vùng Nam
Trung Bộ ghi nhận: “Chợ Gò Găng năm buổi một phiên/Bán toàn nón lá rẻ tiền mà
xinh” [32, tr. 505, 527]. Hay “Lụa Phú Phong nên duyên nên nợ/Nón Gò Găng khắp
chợ mến thương...”; “Anh về dưới vạn Gò Bồi/Bán mắm, bán cá lần hồi cưới em”...”
[14, tr. 23, 24]; Nước mắm ngon chợ Khoan Hậu, chợ Gành Bà/Chợ Tiên Châu, chợ
Giã cùng là Phú Sơn/Ăn đường đen, đường cát thì thời Thái Long/Mua muối đi
chợ Lệ Uyên/Tuyết Diêm, Đông Trạch trắng tinh hằng hà [32, tr. 748].
84
3.1.3. Các mặt hàng lâm, thổ, hải sản
Nam Trung Bộ còn là vùng đất có nguồn rừng và lâm sản phong phú, nhất là
các loại gỗ quý như: gỗ sao, gỗ lim, gỗ sơn, gỗ mun, gỗ trắc mật (gỗ hoa lệ),... đặc
biệt là gỗ trầm hương, kì nam hương. Đây là nguồn lâm sản quý hiếm, không những
là nguồn sản vật tiến cống cho triều đình mà còn có giá trị trên thị trường. Trước
đây, giáo sĩ phương Tây là A. de Rhodes đánh giá rất cao giá trị của trầm hương: “Ở
khắp thế giới chỉ có Đàng Trong là có thứ cây danh tiếng gọi là trầm hương, gỗ rất
thơm, dùng làm thuốc.... Ở xứ này, giá trầm hương như giá vàng” [50, tr. 349].
Ngoài ra, các cánh rừng ở Nam Trung Bộ còn có nguồn lâm, thổ sản khác như dầu
rái, cây lụi (lui), cây xà (xà chày), kiền kiền, sáp ong, vỏ gai, sa nhân, lông trĩ, trầu
nguồn, quế, tê giác, voi, gấu, hổ, ngựa,. Các sản phẩm khai thác từ núi rừng Nam
Trung Bộ không chỉ đáp ứng cho nhu cầu trao đổi tại các chợ, giao dịch trường mà
nhiều sản vật địa phương nổi tiếng được đem tiến. Ví như, cam khổ trà được xem là
sản vật địa phương nổi tiếng của Bình Định. Đây là loại trà quý, là sản vật tiến các
vua Nguyễn. Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: Cam khổ trà (trà đắng) sản
xuất ở vùng núi La Hà, huyện Phù Mỹ, có lệ tiến vua. Loại trà này mọc tự nhiên,
mới uống vào thấy đắng nhưng uống xong thấy có vị ngọt và thơm. Vì vậy, ngày
nay cư dân địa phương còn truyền tụng nhau rằng: “Trà cam khổ/Vị ngọt tung
hầu/Uống vào hết sầu/Hằng năm đem cống” [32, tr. 507]. Quả trà viên: Ở núi An
Tượng huyện Tuy Viễn, hình dáng như quả sung, sắc xanh, vị ngọt, đời Minh Mệnh
có lệ cống. Quả trà viên có mùi vị thơm mát, hạt còn dùng để ép dầu thắp. Loại quả
này chỉ có ở Bình Định, cũng như bòn bon chỉ có ở Quảng Nam. Hoặc như vào thế
kỉ XIX, quả thông đại hải, loại quả chỉ có ở tỉnh Bình Định, là mặt hàng xuất khẩu,
được thị trường Trung Quốc ưa chuộng. Năm 1841, bộ Hộ tâu: “Tháng tư năm nay,
bộ có báo cho tỉnh Bình Định mua quả thông đại hải 2.000 cân để kịp chở sang
Quảng Đông nhưng quan tỉnh phúc đáp rằng vì chưa đến mùa nên cây chưa cho
quả. Quan tỉnh còn cho biết thứ trái cây ấy có khi có trái, có khi 6 năm không có,
mua không được nhiều, các phố không có ai trữ lại” [12, tr. 176].
Các tỉnh Nam Trung Bộ có bờ biển dài, nhiều đầm phá, cửa biển, giàu có về
tài nguyên biển với các sản vật từ biển. Sách Đại Nam nhất thống chí đã liệt kê rất
nhiều loại thủy hải sản nổi tiếng của vùng như: tôm, cá, rong biển, ngao, sò, rùa, ba
85
ba, đồi mồi, ốc, san hô,. Trong đó có loài cá nục, cá cơm rất ngon dùng để làm
nước mắm. Trong các sản vật từ biển, tổ yến (yến sào) đã được khai thác từ các
hang đá ở đảo ven biển các tỉnh từ thời các chúa Nguyễn. Dưới triều Nguyễn, nhà
nước quy định cụ thể việc lãnh trưng khai thác các đảo yến để thu thuế. Đây không
chỉ là một loại thực phẩm cao cấp, bổ dưỡng, được chế biến thành các món ăn dùng
trong cung đình và các gia đình quyền quý mà còn là sản phẩm xuất khẩu có giá trị
đối với thị trường các nước, nhất là đối với Trung Quốc. Cho đến những năm 1885,
1886, việc khai thác và xuất khẩu yến ở các tỉnh Nam Trung Bộ vẫn được triều đình
Huế tiến hành. Số lượng tổ yến được xuất khẩu trong năm 1885 là 13.768gr và năm
1886 là 16.566gr. Đó là sự độc quyền của triều đình. Việc thu hoạch tổ yến từ tháng
1 đến tháng 9 hàng năm, đặc biệt là ở đảo Cù lao. Ngoài ra còn có ở từ Quảng Nam
đến Khánh Hòa [131]. Sự đa dạng và phong phú của các loại hàng hóa ở Nam
Trung Bộ nói chung, ở Bình Định nói riêng từ sản phẩm của đồng bằng, ven biển
cho đến sản phẩm của núi rừng cũng được người Pháp thừa nhận: Bờ biển của Bình
Định cung cấp được nhiều muối, tổ yến, vải lụa thô và lụa dệt, lạc, dầu lạc, dầu dừa,
đậu đỗ, miến, bột gạo, sừng và da trâu bò. Các dân tộc ít người ở miền thượng cũng
mang đến một số hàng hóa như ngựa, gỗ quý [134].
Dưới triều Nguyễn, nguồn hàng hóa ở các tỉnh Nam Trung Bộ không chỉ
phong phú về số lượng mà còn đa dạng về chủng loại. Số lượng các sản vật, hàng
hóa nổi tiếng của các tỉnh Nam Trung Bộ được tác giả thống kê từ Đại Nam nhất
thống chí thông qua bảng dưới đây minh chứng cho nhận định này.
Bảng 3.1: Thống kê số lượng thổ sản, hàng hóa nổi tiếng
ở các tỉnh Nam Trung Bộ thế kỉ XIX
Tỉnh Số lượng thổ sản,
hàng hóa nổi
tiếng
Một số thổ sản, hàng hóa nổi tiếng
Bình Định 71 Vải lụa, yến sào, mật ong, sừng tê, ngà voi, lúa,
đậu, xoài, khoai lang, muối, trầu, chiếu, nón, gáo
dừa, ngựa, trầm hương, kì nam, các loại cá,
Phú Yên 36 Lụa, xoài, chiếu cù du, mật ong, ngà voi, trầu, sa
86
nhân, ngà voi, ngựa, các loại cá,.
Khánh Hòa 36 Tổ yến, ngà voi, sừng tê, lúa, đậu, lụa, lĩnh, dầu
rái, trầm hương, kì nam, gỗ, mật ong,.
Bình Thuận 35 Kì nam, trầm hương, vải trắng, sáp vàng, dầu rái,
các loại gỗ, mắm, sâm, các loại cá, tôm,.
[Nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 1,
Nxb. Lao động, Hà Nội, 2012]
Bảng thống kê 3.1 cho thấy, các hàng hóa, lâm thổ sản ở Nam Trung Bộ khá
đa dạng và phong phú. Mỗi địa phương có những mặt hàng, thổ sản đặc trưng; song
nhìn chung, ở các tỉnh này đều có các mặt hàng như: muối, mắm, các loại cá, vải
lụa, yến sào, lúa, đường, mật ong, gỗ. Nguồn hàng phong phú, đa dạng (bao gồm
cả sản phẩm nông nghiệp, thủ công nghiệp, các nguồn lâm, thổ, hải sản,.) không
chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ của cư dân mà còn đáp ứng nhu cầu trao đổi, buôn bán
giữa các địa phương trong vùng và với bên ngoài thông qua các chợ, phố cảng và đô
thị. Trong nhiều thế kỉ, ít nhất là trong thế kỉ XIX, những nguồn hàng từ vùng
thượng du (vùng núi phía Tây của các tỉnh Nam Trung Bộ) được sử dụng phổ biến
trong cộng đồng cư dân vùng xuôi và ngược lại, những sản phẩm của vùng đồng
bằng, ven biển không chỉ cung cấp cho cư dân tại chỗ mà còn là sản phẩm quan
trọng trong việc trao đổi, buôn bán với cộng đồng cư dân miền thượng. Những mối
quan hệ thương mại được thiết lập đã góp phần đảm bảo nguồn hàng cần thiết trong
cuộc sống của người miền thượng. Trong đó, lương thực, muối và hải sản là những
mặt hàng thiết yếu nhất.
Tất cả các mặt hàng là sản phẩm của nghề nông, nghề thủ công nghiệp và khai
thác lâm, thổ, hải sản đều có mặt trong cơ cấu hàng hóa ở các chợ Nam Trung Bộ.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên, điều kiện sản xuất và khai thác của
từng vùng mà cơ cấu mặt hàng trong chợ cũng có sự khác nhau. Ví như, các mặt
hàng trao đổi buôn bán ở chợ An Khê khá đa dạng từ các loại lâm, thổ, hải sản, các
sản phẩm thủ công đến các loại nông sản. Người Thượng gùi các thứ lâm sản như
quế, mật ong, sáp ong, cau, trầu, củi, măng rừng; các thứ nông sản như lúa, gạo, trái
cây; những đồ đan như gùi mây, phên nứa, để trao đổi, buôn bán với người Việt
và thương nhân Hoa kiều. Ngoài gỗ trầm hương, ngà voi và các sản phẩm quý giá
87
khác, nhiều mặt hàng tiêu dùng thông dụng đối với người Việt như trầu, cau cũng
xuất phát từ núi rừng An Khê. Trước khi khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ (1771),
Nguyễn Nhạc - một thủ lĩnh Tây Sơn đã có thời gian dài buôn bán trầu, cau với
người Thượng. Ở chiều ngược lại, các mặt hàng như mắm, muối, cá khô, đồ sắt, nồi
đồng, hoa xuyến,.... và các đồ lặt vặt khác được thương nhân người Việt hoặc người
Hoa mang đến trao đổi, buôn bán với cư dân miền núi tại chợ An Khê. Năm 1851,
một thừa sai người Pháp là Dourisboure cho biết: Tại cao nguyên miền Trung, hầu
như tất cả các dụng cụ bằng sắt và khí giới đều do người Sê-đăng cung cấp. Người
Sê-đăng vốn biết khai thác các trầm tích sắt. Người Raglai và người Ba-na ở phía
tây thì dệt vải. Người Ba-na ở phía đông có thể đã trao đổi với người Việt Nam
hàng của họ để lấy muối và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_mang_luoi_cho_o_nam_trung_bo_thoi_nguyen_giai_doan_1.pdf