LỜI CAM ĐOAN .i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC .iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ix
LỜI CẢM ƠN ii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu 3
5. Những đóng góp của luận án 5
6. Kết cấu của luận án 6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 8
1.1. Các công trình nghiên cứu quốc tế 8
1.2. Nghiên cứu trong nước 15
1.3. Một số nhận xét về khoảng trống nghiên cứu và hướng nghiên cứu của Luận án 21
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM DỆT MAY 24
2.1. Một số khái niệm 24
2.1.1. Cạnh tranh 24
2.1.2. Năng lực cạnh tranh 26
2.1.4. Quan điểm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm 30
2.2. Đặc điểm liên quan đến năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may 31
2.2.1. Đặc điểm của ngành dệt may 31
2.2.2. Đặc điểm của chuỗi giá trị dệt may 31
2.2.3. Đặc tính của sản phẩm dệt may 33
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may 35
2.3.1. Các nhân tố bên ngoài 35
2.3.2. Các nhân tố trong nước 36
2.4. Các tiêu chí nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may 38
(1) Thị phần sản phẩm dệt may 38
(2) Chất lượng nguồn nhân lực dệt may 39
(3) Công nghệ thiết bị dệt may 39
(4) Thương hiệu sản phẩm dệt may 40
(5) Thời gian sản xuất sản phẩm dệt may 40
2.5. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may 41
2.5.1. Kinh nghiệm của các quốc gia 41
2.5.2. Bài học cho Việt Nam 46
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM DỆT MAY VIỆT NAM 49
3.1. Khái quát về sự phát triển của ngành Dệt may Việt Nam 49
3.2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam 52
3.2.1. Thị phần sản phẩm Dệt May Việt Nam 52
3.2.2. Chất lượng nguồn nhân lực dệt may Việt Nam 67
3.2.3. Công nghệ thiết bị ngành Dệt May Việt Nam 70
3.2.4. Thương hiệu sản phẩm Dệt May Việt Nam 72
3.2.5. Thời gian sản xuất sản phẩm dệt may Việt Nam 72
3.2.6. Chi phí lao động dệt may Việt Nam 74
3.2.7. Chính sách nhà nước tác động đến sản phẩm dệt may 75
3.3. Đánh giá chung về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 78
3.3.1. Điểm mạnh nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may 78
3.3.2. Hạn chế nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may 80
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế 82
CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM DỆT MAY TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ 87
4.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước ảnh hưởng đến cung cầu thị trường dệt may 87
4.1.1. Bối cảnh quốc tế 87
4.1.2. Bối cảnh trong nước 91
4.1.3. Dự báo phát triển thị trường dệt may 94
4.2. Quan điểm và mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 99
4.2.1. Quan điểm 99
4.2.2. Mục tiêu tổng quát 100
4.2.3. Mục tiêu cụ thể 100
4.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 101
4.3.1. Nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh sản phẩm 101
4.3.2. Đẩy mạnh thị trường hàng dệt may nội địa 102
4.3.3. Tăng cường xúc tiến thương mại,đa dạng hóa thị trường xuất khẩu 103
4.3.4. Đào tạo nhân lực dệt may chất lượng cao 105
4.3.5. Phát triển công nghiệp phụ trợ Dệt May Việt Nam bền vững 106
4.3.6. Sản xuất thông minh với công nghệ số 4.0 108
4.3.7. Nâng tầm thương hiệu sản phẩm Dệt May Việt Nam 111
4.3.8. Hoàn thiện chính sách quản lý và điều hành nhà nước 112
KẾT LUẬN 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO 121
PHỤ LỤC 1
168 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - Nguyễn Xuân Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia cạnh tranh (Phụ lục 9). Thiết bị dệt nhuộm chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc (Hình 3.15) tuy chi phí cạnh tranh những vẫn có những tác động nhất định với môi trường, có nguy cơ mất an toàn cho người lao động.
Ngành May
Hình 3.16: Cơ cấu nhập khẩu thiết bị ngành May năm 2015
Nguồn : [50],[77]
Các thiết bị ngành May được nhập khẩu từ nhiều quốc gia, trong đó nhập khẩu nhiều nhất từ Trung Quốc với hơn 58 % thị phần tại Việt Nam (Hình 3.16). Chi phí đầu tư đối với các nhà máy May không quá lớn, nhưng hiện nay các doanh nghiệp may mặc Việt Nam đa phần là những doanh nghiệp quy mô nhỏ. Việc ứng dụng và vận hành các thiết bị May tự động hóa đồng bộ cần đủ vốn và kỹ năng quản trị hiện đại.
3.2.4. Thương hiệu sản phẩm Dệt May Việt Nam
Để các sản phẩm dệt may có thể khẳng định được tên tuổi, vị thế và cạnh tranh tốt trong môi trường thời trang toàn cầu đòi hỏi các doanh nghiệp cần xây dựng được uy tín, thương hiệu nổi bật. Theo khảo sát năm 2017 của Bộ khoa học công nghệ về đề án “Tăng cường hiệu quả thực thi và khai thác, phát triển giá trị quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) đối với Tập đoàn Dệt may Việt Nam” do tác giả Nguyễn Như Quỳnh làm chủ nhiệm đề án với mục tiêu chiến lược là “xây dựng được một số thương hiệu nổi tiếng Vinatex đến năm 2020 ” với 49 đơn vị thành viên của Vinatex đã cho thấy kết quả như sau [65]:
Đa phần các doanh nghiệp dệt may chỉ mới chú trọng xây dựng nhãn hiệu cho các sản phẩm tại thị trường trong nước trong khi chỉ có vài doanh nghiệp lớn như TCTy CP May Nhà Bè, TCTy CP May Việt Tiến đăng ký nhãn hiệu tại nước ngoài. Kết quả nghiên cứu còn chỉ ra rằng đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực dệt vải và kinh doanh Sợi chưa xây dựng và đăng ký nhãn hiệu. Ngoài ra, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ thông qua bảo hộ kiểu dáng công nghiệp hay bằng sáng chế với các sản phẩm dệt may chưa được các doanh nghiệp dệt may Vinatex thực hiện.
Có thể thấy việc phát triển thương hiệu đối với các sản phẩm dệt may Việt Nam còn rất nhiều hạn chế, đặc biệt các vấn đề về sở hữu trí tuệ, thực thi các vấn đề liên quan quyền sáng chế, thiết kế sản phẩm trong bối cảnh hội nhập kinh tế đối với ngành công nghiệp được coi là thế mạnh của Việt Nam trong thời gian qua.
3.2.5. Thời gian sản xuất sản phẩm dệt may Việt Nam
Đối với thương mại dệt may quốc tế thì vấn đề thời gian sản xuất nhanh là một trong những yếu tố quan trọng giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Có thể thấy với những cường quốc dệt may như Trung Quốc hay Ấn Độ thì thời gian sản xuất trung bình các đơn hàng rất nhanh chỉ khoảng 50 ngày bởi các quốc gia này có quy mô doanh nghiệp dệt may lớn, chủ động được nguồn nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. Việt Nam có thời gian sản xuất ở mức trung bình khoảng 70 ngày, nhanh hơn Indonesia, Bangladesh, Campuchia ( Bảng 3.12 ). Nguyên nhân có thể do như đã phân tích thực trạng Việt Nam vẫn phải chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài, gần 70 % vải nhập khẩu, thời gian nhập nguyên liệu mất khoảng 10 - 20 ngày. Hơn thế nữa, nguồn nhân lực cho thiết kế sản phẩm, công đoạn mang lại giá trị cao trong chuỗi sản phẩm còn rất hạn chế, dẫn đến thời gian xử lý mẫu sản phẩm kéo dài sau khi có đơn hàng. Các quốc gia dệt may tiên tiến đã sử dụng công nghệ thiết kế và in 3D, qua đó rút ngắn được thời gian xử lý đơn hàng đáng kể.
Bảng 3.12: Thời gian sản xuất hàng may mặc
tại một số quốc gia châu Á năm 2010
Quốc gia
Quần áo bằng vải dệt thoi
Quần áo bằng vải dệt kim
Trung Quốc
40-60 ngày
50-60 ngày
Ấn Độ
50-70 ngày
60-70 ngày
Thái Lan
60-90 ngày
50-60 ngày
Malaysia
60-90 ngày
60-70 ngày
Sri Lanka
60-90 ngày
60-70 ngày
Việt Nam
60-90 ngày
60-70 ngày
Indonesia
60-90 ngày
60-70 ngày
Bangladesh
90-120 ngày
60-80 ngày
Campuchia
80-110 ngày
80-110 ngày
Nguồn: [50]
Hình 3.17: Thời gian sản xuất các đơn hàng may mặc trung bình tại Việt Nam
Nguồn : [50]
3.2.6. Chi phí lao động dệt may Việt Nam
Đặc thù ngành dệt may là ngành thâm dụng khá nhiều lao động. Chi phí lao động là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định đến việc các doanh nghiệp dệt may quyết định đầu tư và lựa chọn các đối tác để sản xuất sản phẩm dệt may.
Hình 3.18: Lương hàng tháng tối thiểu của công nhân nhân may tại 20 quốc gia xuất khẩu hàng may mặc lớn trên thế giới năm 2015
Nguồn: [106]
Nhìn vào bảng thống kê về mức lương tối thiểu hàng tháng của công nhân may tại 20 quốc gia xuất khẩu hàng may mặc lớn có thể thấy chi phí lao động dệt may tại Việt Nam là khá cạnh tranh khoảng 145 USD/ tháng, tương đương với các nước Campuchia, Ấn Độ, Pakistan. Các quốc gia có chi phí lương tối thiểu thấp như Sri Lanka (66 USD/tháng) và Bangladeh (68 USD/tháng) trong khi mức lương tối thiểu cao nhất là tại Trung Quốc với gần 300 USD/ tháng.
Về lâu dài dệt may Việt Nam có thể sẽ bị cạnh tranh mạnh bởi Myanmar, Bangladesh,..với những chính sách ưu đãi tốt hơn về chi phí lao động, thuế doanh nghiệp, chi phí bảo hiểm. Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch VITAS cho biết “ Thực tế trong 10 năm qua (2007 - 2017), bình quân hàng năm Việt Nam đã tăng lương tối thiểu ở mức 21,8% đối với doanh nghiệp trong nước và tăng 15% đối với doanh nghiệp nước ngoài [56]. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp gặp ít khó phải tìm giải pháp ứng phó như giảm tiền lương mềm, sử dụng máy móc thay thế người lao động. Đặc biệt, với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như ngành dệt may, da giày, việc tăng lương đang gây rất nhiều khó khăn “
3.2.7. Chính sách nhà nước tác động đến sản phẩm dệt may
Quyết định số 2146/QĐ-TTg ngày 01/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về “ Để án Tái cơ cấu ngành công thương phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển bền vững giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 “ có đề cập đến nội dung “Nhanh chóng hình thành các cụm dệt may, tạo mạng liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp trong ngành, phát triển chuỗi cung ứng từ nguyên liệu đến phân phối sản phẩm may mặc”. Hiện nay đa phần các doanh nghiệp dệt may có quy mô nhỏ, quyết định này sẽ giúp tăng cường tính liên kết và hỗ trợ nhau cùng phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt và nhuộm có cơ hội mở rộng tại các địa bàn, khu công nghiệp có xu hướng hoàn thiện về thể chế hạ tầng kỹ thuật và điều kiện môi trường.
Quyết định 3218/QĐ-BCT năm 2014 của Bộ công thương về quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đề cập định hướng phát triển sản phẩm và bố trí quy hoạch đề cập đến phát triển nguồn nguyên liệu xơ bông, các loại cây có xơ sợi, xơ sợi nhân tạo và phụ liệu. Việc xây dựng và phát triển các vùng nguyên liệu để trồng Bông tại vùng duyên hải nam trung bộ như Ninh Thuận, Bình Thuận hay tại khu vực Trung du và miền núi phía Bắc như Sơn La, Điện Biên là rất phù hợp với thực trạng phát triển công nghiệp dệt may nhưng quá trình triển khai thực tiễn còn gặp các khó khăn về mặt cơ chế thuê đất, chuyển giao công nghệ, vay vốn,...
Nội dung của Nghị định 60/2014/NĐ-CP năm 2014 về quy định về hoạt động in ấn có đề cập đến vấn đề “ chủ doanh nghiệp dệt may muốn nhập khẩu máy in phải có bằng cấp từ cao đẳng trở lên về ngành in hoặc được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp giấy chứng nhận bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hoạt động in". Rõ ràng đây là một chính sách chưa phù hợp cho phát triển các ngành dệt và nhuộm của Việt Nam bởi rất ít lãnh đạo doanh nghiệp có chuyên môn ngành in.
Thông tư 37/2015/TT-BCT được Bộ Công Thương ban hành năm 2015 quy định “ về mức giới hạn và việc kiểm tra hàm lượng formaldehyt và amin thơm chuyển hóa từ thuốc nhuộm trong sản phẩm dệt may “. Việc ban hành Thông tư 37 đã khiến không ít các doanh nghiệp dệt may gặp khó khăn trong việc kiểm tra các nguyên liệu nhập về trong khi đã có đầy đủ các giấy tờ nguồn gốc, xuất sứ. Chi phí trung bình kiểm định formaldehyd của vài mét vải sản xuất hàng mẫu cũng tốn đến 40 USD. Trong khi thực tế số trường hợp vi phạm hàm lượng formaldehyd vượt quá tiêu chuẩn chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, vài % tổng số vụ kiểm tra.
Quyết định số 320/QĐ-TTg năm 2013 của Chính phủ phê duyệt Đề án tái cơ cấu Tập đoàn Dệt May Việt Nam giai đoạn 2013 – 2015. Đề án đã chỉ ra mục tiêu quan trọng là “ hình thành chuỗi cung ứng Sợi - Dệt - Nhuộm hoàn tất - May; nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm dệt may “. Theo đó, giải pháp cổ phần hóa, sắp xếp các doanh nghiệp thành viên giúp Vinatex có thêm các nguồn lực tài chính, hỗ trợ hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh của Vinatex.
Tháng 02/2014, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định số 288/QĐ-TTg về việc hỗ trợ kinh phí đào tạo nguồn nhân lực dệt may Việt Nam cho Tập đoàn Dệt may Việt Nam. Theo đó, các đơn vị sự nghiệp bao gồm trường cao đẳng công nghiệp dệt may Nam Định, trường đại học công nghiệp dệt may Hà Nội và trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật Vinatex Hồ Chí Minh sẽ hỗ trợ 65,6 tỷ đồng từ nguồn ngân sách trung ương để hỗ trợ thiết bị, chương trình đào tạo nguồn nhân lực Dệt may Việt Nam.
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1513/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2015 về đề án thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam tham gia trực tiếp các mạng phân phối nước ngoài giai đoạn đến năm 2020. Đề án này đã hỗ trợ ,thúc đẩy các doanh nghiệp của Việt Nam, trong đó có các doanh nghiệp dệt may tham gia mạnh mẽ vào các khâu marketing và phân phối ở nước ngoài. Đơn cử như giải pháp “ Xây dựng chuyên mục trong Cổng thông tin điện tử của Bộ Công Thương về đầu mối nhập khẩu hàng hóa Việt Nam trong các hệ thống phân phối nước ngoài để tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tìm hiểu, khai thác”.
3.3. Đánh giá chung về nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
3.3.1. Điểm mạnh nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may
Vị trí địa lý trung tâm thuận lợi là cơ hội để Việt Nam tiếp tục thu hút đầu tư quốc tế với làn sóng chuyển dịch dệt may từ Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hồng Kông,..Việt Nam là quốc gia biển với hệ thống cảng biển phong phú từ Bắc vào Nam, đảm bảo các khu vực sản xuất ra đến các cảng biển trong vòng 200km là điều kiện tự nhiên không nhiều quốc gia có được là cơ sở quan trọng để các chuỗi cung ứng toàn cầu lựa chọn Việt nam là quốc gia sản xuất.
Lực lượng lao động tương đối dồi dào, dễ đào tạo, kỹ năng và tay nghề may tốt. Hiện nay dệt may Việt nam có quy mô xuất khẩu lên tới 31 tỷ USD, Với các tác động tích cực của CPTPP và FTA EU, dự báo đến năm 2020 dệt may Việt nam có thể đạt quy mô xuất khẩu 50 tỷ USD [134]. Hiện tại, ngành dệt may đang sử dụng trên 2.5 triệu lao động, như vậy cần thêm khoảng 2,5 triệu lao động mới tạo thêm nữa. Với cơ cấu lao động hiện nay của cả nước với 70% lao động trong khu vực nông nghiệp ước tính lên tới 30 triệu người thì việc thu hút thêm 3 triệu lao động cho ngành dệt may trong thời gian tới là hoàn toàn khả thi, góp phần hoàn thành chỉ tiêu đưa lao động trong khu vực nông nghiệp xuống dưới 40% như dự thảo nghị quyết Đại hội 12 của Đảng.
Chi phí lao động tương đối cạnh tranh. Chi phí lương tối thiểu cho lao động dệt may tại Việt Nam thấp thứ 5 trong số 20 quốc gia xuất khẩu dệt may lớn tại khu vực Châu Á Thái Bình Dương, trong khi thời gian sản xuất sản phẩm may trung bình tại Việt Nam từ 60 - 90 ngày là tương đương với các quốc gia tại ASEAN như tại Indonesia và Malaysia.
Nâng cao năng lực sản xuất nhờ việc chuyển dịch đơn hàng từ Trung Quốc. Với chiến lược “Made in China 2025”, Trung Quốc xác định những ngành công nghiệp có xu thế sử dụng nhiều năng lượng, có khả năng gây ô nhiễm môi trường như dệt nhuộm, da giày không còn là thế mạnh và được khuyến khích đầu tư ra bên ngoài [95]. Thay vào đó, định hướng chiến lược của Ngành công nghiệp dệt may Trung Quốc trong giai đoạn tới là tham gia vào công đoạn sản xuất mang lại giá trị gia tăng cao hơn như phân phối bán hàng, thiết kế và phát triển sản phẩm. Các quốc gia lân cận như Campuchia, Bangladesh, Việt Nam với lợi thế về chi phí sản xuất và lực lượng lao động trẻ là những điểm đến hứa hẹn của dệt may Trung Quốc.
Lợi ích do các Hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước có tốc độ hội nhập nhanh nhất thế giới. Các Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) – hay còn gọi là FTA với EU, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) Liên minh Thuế quan (Nga, Belarus, Kazakhstan), đã tạo ra thị trường mới rộng lớn cho các ngành kinh tế Việt Nam, trong đó ngành dệt may là một trong những ngành được hưởng lợi nhiều nhất, do hầu hết các dòng thuế của sản phẩm dệt may ( EU (9%), Liên minh Hải quan (11%), đang áp trên các sản phẩm dệt may nhập khẩu từ Việt Nam có thể được giảm xuống còn 0% ).
Định hướng phát triển của Chính phủ và các chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho ngành dệt may tiếp tục tăng trưởng: Tín hiệu tích cực từ thành công APEC tại Việt Nam năm 2017 khuyến khích khu vực doanh nghiệp đầu tư cho khoa học công nghệ, tận dụng cơ hội từ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cùng kỳ vọng cắt giảm tối thiểu 30-50% thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh của Chính phủ,mang lại những đột phá về đầu tư, kinh doanh, mở rộng thị trường DN trong đó có DN dệt may. Việt Nam được đánh giá là điểm đến ổn định và an toàn, hấp dẫn đối với các nhà nhập khẩu và đầu tư nước ngoài. Đề án 3 đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc được kỳ vọng sẽ tạo nên lực hút đầu tư quy mô lớn trong thời gian tới. Đặc khu kinh tế là một chính sách hữu ích để thu hút đầu tư, tạo việc làm và thúc đẩy khả năng cạnh tranh các ngành công nghiệp trong đó có Dệt May. Theo số liệu thống kê, đầu tư FDI vào ngành dệt may tính đến hết 2017 là gần 2000 dự án với tổng vốn đăng ký và tăng thêm là 15,3 tỷ USD. Có 52 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam, trong đó một số quốc gia có số vốn đăng ký lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, British VirginIslands[32]. Các doanh nghiệp FDI Dệt may luôn chiếm một tỷ trọng xuất khẩu lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, mở rộng năng lực sản xuất các sản phẩm may mặc trong thời gian tới.
3.3.2. Hạn chế nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may
Sản xuất dệt may theo phương thức gia công mang lại giá trị thấp
Hiện nay các sản phẩm May xuất khẩu chủ yếu theo phương thức gia công CMT chiếm tỷ lệ cao (65%), phương thức mua nguyên liệu, bán thành phẩm FOB (35%), Sản xuất theo thiết kế riêng ODM (5% ).Thông thường lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp CMT chỉ đạt 1 - 3% đơn giá gia công, với đơn hàng FOB là khoảng 3 - 5%, đơn hàng ODM từ 5 - 7% trở lên.
Liên kết chuỗi giá trị hoàn tất sản phẩm Dệt May còn hạn chế
Ngành dệt may Việt Nam mang đặc điểm vừa thừa vừa thiếu ở từng mắt xích. Dệt nhuộm đang là điểm đứt gãy của cả chuỗi giá trị sản phẩm dệt may Việt Nam. Ngành sợi phải xuất khẩu đi 2/3 sản lượng đầu ra trong khi ngành sản xuất hàng may mặc phải nhập khẩu 70% nguyên vật liệu đầu vào. Như vậy khâu dệt nhuộm đã chưa hoàn thành vai trò tốt trong chuỗi giá trị toàn ngành khi chưa khai thác triệt để được nguyên liệu đầu vào (sợi) trong nước sản xuất dư thừa và gây thiếu hụt nghiêm trọng đầu ra (vải). Khi các hiệp định thương mại tự do chính thức có hiệu lực, đặc biệt là EVFTA và CPTPP với quy tắc xuất xứ “từ vải trở đi” và “từ sợi trở đi”, điểm yếu về chuỗi giá trị ngành dệt may Việt Nam sẽ là cản trở để các doanh nghiệp mở rộng đơn hàng sản phẩm dệt may và hưởng ưu đãi thuế quan 0% tại các thị trường này.
Thiếu hụt nguồn nhân lực dệt may chất lượng cao
Toàn ngành có khoảng 2,5 triệu lao động nhưng chủ yếu là lao động giản đơn, nguồn nhân lực có kinh nghiệm về quản lý sản xuất, kỹ thuật, marketing, thiết kế sản phẩm, còn hạn chế. Ngoài ra, sức thu hút hấp dẫn nhân lực cho ngành dệt may ngày càng yếu đi so với các ngành công nghiệp khác như điện tử, năng lượng,.. về chế độ đãi ngộ, điều kiện môi trường làm việc, sản xuất kinh doanh. Điều này tác động năng suất lao động, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam.
Chậm đổi mới, ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất dệt may
Qua các phân tích ở trên cho thấy hiện nay các công nghệ thiết bị ngành Dệt vải đa phần là những thiết bị cũ. Yếu tố công nghệ lạc hậu thể là một trong vài nguyên nhân chính dẫn đến sự yếu kém của ngành dệt trong mối liên kết với ngành may. Để nâng cao năng suất và cải tiến chất lượng sản phẩm dệt may Việt Nam cần đổi mới chất lượng thiết bị công nghệ sản xuất, đặc biệt cho ngành Dệt nhuộm trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0.
Phát triển thương hiệu sản phẩm dệt may chưa tương xứng với tiềm năng
Việc xây dựng và phát triển giá trị thương hiệu với các sản phẩm dệt may tại Việt Nam còn rất hạn chế. Sản phẩm dệt may Việt Nam chưa có thương hiệu nào vươn tầm quốc tế mặc dù là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam. Vấn đề vi phạm tác quyền, sản phẩm dệt may giả, kém chất lượng vẫn diễn ra phức tạp.
Chính sách hỗ trợ phát triển sản phẩm dệt may thiếu tính linh hoạt
Chính phủ đã có định hướng phát triển ngành dệt may, trong đó có chú trọng đến các sản phẩm dệt may là một trong những sản phẩm công nghiệp được ưu tiên hỗ trợ trong quá trình CNH, HĐH. Tuy nhiên, Chính phủ cần có những chính sách cụ thể, mang tính đồng bộ về đầu tư, tài chính, nhân lực, chuyển giao công nghệ, đề nâng cao năng lực sản xuất và giúp sản phẩm Dệt may có thể cạnh tranh tốt trong bối cảnh hội nhập kinh tế.
3.3.3. Nguyên nhân của hạn chế
May là khâu mà các nước mới gia nhập ngành thường chọn để thâm nhập đầu tiên vì nó không đòi hỏi đầu tư cao về công nghệ và rất thâm dụng lao động. Những nước đang tham gia ở khâu này thường thực hiện việc gia công lại cho các nước gia nhập trước, đây chính là đặc điểm chung của khâu sản xuất trong ngành dệt may thế giới. Tại Việt Nam, tổng số lượng doanh nghiệp May chiếm đến 70% tổng số các doanh nghiệp dệt may toàn quốc, trong khi các công ty hoạt động trong lĩnh vực Dệt chỉ khoảng 17%, Sợi là 6%, Nhuộm khoảng 4 %. Các doanh nghiệp sản xuất nguyên, phụ liệu ít nên khó chủ động được nguồn cung ứng cho các doanh nghiệp dệt may làm FOB. Bên cạnh đó, quy mô doanh nghiệp May trung bình khoảng 500 lao động, khó để đảm nhận các đơn hàng lớn. Do vậy, tỷ trọng sản phẩm dệt may sản xuất theo hình thức CMT lớn nhưng giá trị gia tăng của sản phẩm không cao.
Nguyên nhân sản phẩm ngành dệt nhuộm trong nước còn kém so với các nước khác như Trung Quốc, Ấn Độ có thể xuất phát từ việc thiếu các khu, cụm công nghiệp dệt may dẫn đến việc liên kết các khâu trong chuỗi giá trị từ Sợi – Dệt – Nhuộm – May rời rạc. Như phân tích ở trên trong khi các doanh nghiệp Sợi phải xuất ra nước ngoài thì các doanh nghiệp dệt nhuộm lại phải nhập vải từ ngoài nước về để sản xuất. Cả phía Bắc mới có 01 khu công nghiệp dệt may hạ tầng phố nối tại Hưng Yến, với quy mô cũng chỉ khoảng 120 ha. Bên cạnh đó, vấn đề chung mà các doanh nghiệp dệt và nhuộm đều phải đối mặt là phải xây dựng các hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn bởi đặc thù sử dụng nhiều hóa phẩm trong quá trình sản xuất. Trong khi các địa phương cũng không có thiện chí với việc kêu gọi các dự án đầu tư lĩnh vực dệt nhuộm bởi quan ngại về vấn đề môi trường có thể phát sinh. Thống kê cũng cho thấy toàn quốc cũng chỉ có khoảng 20 % tổng số doanh nghiệp dệt may trong lĩnh vực dệt nhuộm.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng đang tích cực chuyển bị cho việc đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng hấp thụ được thành quả của cuộc CMCN 4.0. Tuy vậy, thời gian qua nhân lực cho chuyên ngành thiết kế thời trang, thiết kế mẫu sản phẩm, quản lý sản xuất,những công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao cho các sản phẩm Dệt may chưa thật được chú trọng. Đơn cử như Thiết kế là khâu có tỷ suất lợi nhuận cao trong chuỗi giá trị và rất thâm dụng tri thức, nhưng cũng chỉ chiếm khoảng 5 % nhu cầu đào tạo, tuyển sinh của các trường đào tạo về dệt may. Các nước đi trước trong ngành công nghiệp dệt may, sau khi đã dịch chuyển hoạt động sản xuất sang các nước đi sau thường chỉ tập trung vào khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm mới nhằm tạo ra những thương hiệu để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Nguồn nhân lực lĩnh vực dệt nhuộm quá thiếu so với yêu cầu của ngành do tính chất môi trường làm việc có nguy cơ độc hại trong khi các chế độ đãi ngộ, phúc lợi xã hội chưa tương xứng.
Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ muốn đầu tư thiết bị vào dệt, nhuộm là tương đối khó khăn bởi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có quy mô vốn không lớn. Theo đánh giá của ông Lê Tiến Trường - Tổng giám đốc Vinatex cho biết “ Nếu đầu tư một vị trí làm của công nhân may thì doanh nghiệp chỉ cần 3.000 USD (con người và công nghệ), nhưng nếu đầu tư vị trí công nhân sợi hoặc dệt thì phải mất 200.000 USD. Theo đó, đầu tư ngành dệt, nhuộm, Việt Nam cần 15 tỷ USD, trung bình mỗi dự án đầu tư dệt nhuộm cần đầu tư vốn tương đối lớn (khoảng 2 - 5 triệu USD) do đầu tư vào hệ thống xử lý nước thải đạt chuẩn rất tốn kém và thời gian thu hồi vốn lâu “ [50]. Do đó, cần cân nhắc cơ hội đầu tư cơ sở trên đánh giá lại tình hình thị trường và và tìm kiếm công nghệ mới phù hợp với xu thế. Đổi mới trong quản lý và tự động hóa từng bước, từng công đoạn sản xuất,nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm, cải thiện môi trường làm việc cho người lao động.
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Như Quỳnh - Bộ khoa học và công nghệ năm 2017 được thực hiện trên 40 doanh nghiệp dệt may Việt Nam về vấn đề xây dựng thương hiệu cho thấy “ 3 đơn vị Tổng Công ty CP May Việt Tiến, Tổng Công ty CP May Nhà Bè, Cty Cp May 10 có hình thành chiến lược xây dựng thương hiệu dài hạn, còn lại đa số các doanh nghiệp chỉ có những họat động quảng bá trước mắt. Đơn vị sử dụng nguồn lực xây dựng thương hiệu cao nhất chiếm tỉ trọng 4% trên doanh thu, còn lại hầu hết chỉ dành nguồn lực từ 0,1 đến 1% trên doanh thu hàng năm “ [65]. Đối với các hãng thời trang danh tiếng trên thế giới như Zara, HM,..thì chi phí để quảng bá thương hiệu và phát triển sản phẩm phải chiếm ít nhất 10% doanh thu[59]. Đây có thể là một trong những nguyên nhân khiến các sản phẩm dệt may Việt Nam chưa có những thương hiệu thời trang ở tầm châu lục và thế giới. Ngay tại thị trường trong nước, thị phần của hàng dệt may Việt Nam bị cạnh tranh mạnh mẽ bởi hàng giả, hàng không rõ xuất sứ. Thực trạng này có phần buông lỏng trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc chủ động đưa ra các giải pháp ngăn chặn, cũng như có các công cụ pháp lý và các chế tài xử lý đủ mạnh cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng các sản phẩm dệt may nội địa.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cơ chế chính sách của Chính phủ, các Bộ ngành liên quan cần linh hoạt hơn để hỗ trợ nhiều cho DN Dệt may nói chung và các sản phẩm may mặc nói riêng. Ông Trương Văn Cẩm - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư kí Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết “ Một số nước gần đây tập trung hỗ trợ cho dệt may nước mình như Bangladesh giảm thuế thu nhập DN từ 35% xuống còn 20%, thuế nhập khẩu hóa chất, thuốc nhuộm từ 25% xuống 15%. Pakistan áp dụng cơ chế miến thuế cho nguyên liệu và năng lượng cho hàng dệt may XK, miến thuế NK thiết bị máy móc. Ấn Độ giảm thuế nhập khẩu cho một số loại xơ, sợi từ 5% xuống 2,5% “ [Phụ lục 6]. Hay như việc định hướng chủ động về sản xuất bông nhưng chưa có các quy hoạch cụ thể từng khu vực sản xuất bông, hoặc chưa có các trợ cấp cho người nông dân trồng bông. Để nâng cao tỷ trọng sản xuất FOB và nâng cao năng suất lao động, các doanh nghiệp trong nước cần vốn để chủ động về nguyên vật liệu đầu vào và nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ cụ thể về lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp dệt may.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trong 2 thập kỷ qua, sản phẩm Dệt May Việt Nam đã đạt được những kết quả khích lệ cả về quy mô và chất lượng sản phẩm, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày một sâu rộng. Cùng với điện thoại và linh kiện, dệt may là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam trong những năm qua. Hiện nay sản phẩm dệt may Việt Nam xuất khẩu đến hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Tuy vậy bên cạnh những kết quả đạt được, việc nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm Dệt May đang còn những vấn đề nổi cộm như giá trị của sản phẩm May còn thấp, thiếu nguồn nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất dệt may, thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển thương hiệu sản phẩm. . Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA sẽ vừa là cơ hội to lớn cho sản phẩm dệt may nâng cao sức cạnh tranh, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức mới phải vượt qua. Các đánh giá chung về Điểm mạnh, hạn chế và nguyên nhân của việc nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm dệt may Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay sẽ là các tiền đề quan trọng để đề xuất các giải pháp được trình bày trong chương 4 của Luận án.
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH SẢN PHẨM DỆT MAY TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
4.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước ảnh hưởng đến cung cầu thị trường dệt may
4.1.1. Bối cảnh quốc tế
- Thương mại trực tuyến đang thay đổi bộ mặt của thương mại hàng hóa truyền thống
Kết quả từ PWC - một trong những mạng lưới cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp hàng đầu trên thế giới ( văn phòng trên 158 quốc gia và hơn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nang_cao_nang_luc_canh_tranh_cua_san_pham_det_may_vi.docx