MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN.i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT .iv
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU. 7
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. 7
1.1.1. Những nghiên cứu về nghệ thuật chạm khắc và hoa văn trang trí . 7
1.1.2. Những nghiên cứu về lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII ở Bắc Bộ . 13
1.1.3. Những nghiên cứu về đồ thờ. 18
1.2. Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài. 22
1.2.1. Cơ sở lý thuyết. 22
1.2.2. Một số khái niệm . 25
1.3. Khái quát về đối tượng khảo cứu . 30
1.3.1. Về hiện trạng đồ thờ trong lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII ở Bắc Bộ . 30
1.3.2. Về thể loại đồ thờ trong lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII . 33
1.3.3. Về bốn lăng mộ được lựa chọn. 45
Tiểu kết . 55
Chương 2. NHẬN DIỆN ĐỀ TÀI HOA VĂN CHẠM KHẮC TRÊN ĐỒ
THỜ ĐÁ Ở MỘT SỐ LĂNG MỘ TIÊU BIỂU THẾ KỶ XVII - XVIII.58
2.1. Đề tài hoa văn. 58
2.1.1. Hệ thống đề tài động vật . 58
2.1.2. Hệ thống đề tài thực vật . 70
2.1.3. Hệ thống đề tài hình học . 76
2.1.4. Một số đề tài khác. 78
2.2. Đề tài hoa văn trên đồ thờ đá ở một số lăng mộ tiêu biểu . 84
2.2.1. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Vũ Hồng Lượng . 84
2.2.2. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Đặng Trung Túc. 90
2.2.3. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Đỗ Bá Phẩm . 95
2.2.4. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Nguyễn Danh Thưởng . 98
2.3. Những đặc điểm về hệ đề tài . 102
2.3.1. Đa dạng về chủ đề, đề tài . 102iii
2.3.2. Phong phú về kỹ thuật, nghệ thuật . 105
2.3.3. Yếu tố đặc thù. 111
Tiểu kết . 114
Chương 3. ĐẶC TRƯNG CỦA NGHỆ THUẬT CHẠM KHẮC HOA
VĂN TRÊN ĐỒ THỜ ĐÁ TRONG LĂNG MỘ THẾ KỶ XVII, XVIII,
GIÁ TRỊ VÀ MỘT SỐ BÀN LUẬN. 116
3.1. Đặc trưng. 116
3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật. 116
3.1.2. Thủ pháp tạo hình hoa văn. 121
3.1.3. Chất liệu, kỹ thuật tạo tác . 121
3.2. Giá trị. 127
3.2.1. Giá trị nghệ thuật . 127
3.2.2. Giá trị văn hóa, tín ngưỡng . 128
3.3. Một số bàn luận. 139
3.3.1. Về vấn đề “biểu tượng hoá” trong chạm khắc hoa văn trang trí . 150
3.3.2. Nghệ thuật chạm khắc hoa văn trang trí đồ thờ trong lăng mộ thế kỷ
XVII - XVIII trong cái nhìn so sánh. 159
Tiểu kết . 166
KẾT LUẬN. 168
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ . 172
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 173
PHỤ LỤC . 198iv
266 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 382 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghệ thuật chạm khắc hoa văn trên đồ thờ đá trong lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII ở Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đài thờ cũng là những hoa văn khá thú vị. Hình những chú
khỉ nhỏ xíu được chạm khá công phu, trong dáng điệu tạo nên tính động cao, tạo
nên sự vui vẻ khiến người đến thăm không có cảm giác thê lương thường thấy
khi đến không gian lăng mộ.
90
2.2.2. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Đặng Trung Túc
Đồ thờ trong lăng Đặng Trung Túc (Bắc Ninh) hiện tại gồm: 3 hương án, 1
sập thờ, 6 lư hương nhỏ và 1 lư hương có tỷ lệ lớn hơn và được tạo dáng công phu.
Tư tưởng của Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo thấm nhuần ở các đề tài trang trí
trong lăng. Đạo giáo với biểu tượng âm dương trang trí ở cổng của lăng, tám quẻ
đơn trong Kinh Dịch trang trí trên cột của cổng, tám quẻ này cũng được chạm khắc
trên hương án. Phật giáo với biểu tượng lá đề xuất hiện thường xuyên trên các
hương án trong lăng. Tuy nhiên, xét về tổng thể thì tư tưởng Nho giáo có lẽ bao
trùm hơn trên các đề tài trang trí cho đồ thờ trong di tích này.
Tư tưởng của Nho giáo với những triết lý cao siêu trở nên dễ hiểu hơn với
mỹ thuật nói chung và nghệ thuật chạm khắc nói riêng, bởi phương tiện chuyển tải
bằng hình ảnh nên có một cách thức rất riêng, vô cùng độc đáo. Các nghệ nhân xưa
đã lựa chọn một số lý thuyết của Nho giáo để khắc họa nhân sinh quan, thế giới
quan của họ các biểu tượng quen thuộc đã được hình tượng hoá như Tứ linh: Long,
lân, qui, phụng; Tứ quý: Tùng, cúc, trúc, mai vốn là biểu tượng cho bốn mùa xuân,
hạ, thu, đông, nhưng đồng thời nó cũng là biểu tượng của người quân tử, xen lẫn
với các dạng thức rồng hoá trúc, rồng hoá mây xuất hiện một cách đa dạng. Tuy
nhiên, điều đặc biệt ở lăng Đặng Trung Túc có lẽ là ở các phù điêu hàm chứa ca
ngợi nền học vấn thâm sâu, ẩn dụ hoá qua một số đồ án trang trí trong di tích ví dụ
như: Cá hóa rồng, tôm hoá rồng, Chạm khắc ẩn dụ về khát vọng được ban tước, lộc,
phong hầu [7, tr.30].
Trên các đồ thờ bằng đá trong lăng Đặng Trung Túc, nghệ thuật chạm khắc,
trang trí có vai trò vô cùng quan trọng. Nó là một thành tố thường trực, hiện diện ở
khắp nơi và trở thành phương tiện chủ yếu để các nghệ nhân làm tăng giá trị thẩm
mỹ, làm phong phú và sinh động không gian kiến trúc. Đặc biệt, tính cách và ước
vọng của chủ nhân công trình được biểu hiện rất rõ ràng qua những ý tưởng thể hiện
trên các đồ án hoa văn trên đồ thờ mà họ lựa chọn.
Hiện vật trang trí cầu kỳ, phức tạp nhất là những hương án trong lăng.
Hương án đầu tiên nằm trên trục dọc di tích cao 1m, dài 1,10m, rộng 0,80m nằm
cách cổng 13,10m. Chân hương án tạc kiểu chân quỳ dạ cá. Trang trí có văn mây
lửa, hoa cúc tròn và mấy đường gờ trang trí. Phần bệ chia hai cấp trang trí cánh sen,
91
hoa cúc, nền gấm chữ Vạn bằng ngôn ngữ kỷ hà nối tiếp nhau. Trên gờ bệ có một
dải băng hoa chanh bốn cánh cắt đôi. Thân hương án được tạo thành những khoang
rộng hẹp khác nhau bởi 12 đôi cột chống. Nền trong của thân trang trí văn nền gấm
chữ Vạn và phía ngoài, giữa các khe cột là hoa cúc biến thể và lá đề viền mây lửa.
Trong tấm lá đề ở cả bốn mặt có chạm đủ tám quẻ trong Kinh Dịch: Cấn, Khảm,
Chấn, Tốn, Linh, Khôn, Đoài Phần mặt hương án có hai băng cánh sen cách điệu
tạo điểm dưới và một tầng cánh sen ngửa đỡ gờ mặt phía trên. Bốn góc trên mặt
hương án được tạo bờ cao có văn mây xoắn, ở giữa có một bát hương, hai lọ cắm
nến hình bát giác xếp thành hàng liền với hương án làm một khối.
Hương án thứ hai nằm bên trái hương án thứ nhất, tạc kiểu chân quỳ dạ cá,
có trang trí vài hình mây lửa, vài bông cúc nở tròn, phần sát bệ là tầng bệ gồm tang
gờ và một tầng cánh sen ngửa đỡ lấy thân. Thân hương án được chế tạo vuông vức
với 20 cột chống. Chia cả bốn mặt làm 16 ô. Những ô lớn chứa lá đề viền mây lửa.
Bên trong lá đề là hoa cúc nở nhìn nghiêng. Các ô nhỏ tạo hình nghê vờn mây lửa.
Hương án thứ ba nằm trong khu thờ có dáng hình và kích thước giống với
hương án giữa sân về trang trí. Hương án này chỉ khác hương án giữa sân hai chi
tiết. Băng hoa chanh ở gờ bệ được tạo đá bốn cánh. Trong các lá đề không khắc
hình 8 quẻ của Kinh Dịch mà thay thế vào đó là 6 con cá hóa rồng [H83, PL3,
tr.232], ở hai mặt bên chạm khỉ và ong, chim sẻ và hươu trong hình lá đề.
Một trong những điều đặc biệt và thú vị tạo nên ấn tượng mạnh của những
bức chạm khắc trang trí ở hương án trong di tích này nằm ở hương án thứ ba trong
khu thờ. Nghệ nhân xưa đã sử dụng thủ pháp ẩn dụ, dùng hình tượng hóa tự dạng,
biểu đạt các thuật ngữ bằng hình tượng trang trí các con vật với chủ đề Phong Hầu
[H84, PL3, tr.232] và Tước Lộc. Hai mảng chạm này nằm gọn trong hình lá đề gần
như một hình tròn có đường kính 35cm. Bức ở cạnh bên trái chạm hai chữ Phong
Hầu với hình ảnh vui tươi ngộ nghĩnh chạm một con khỉ đang vui đùa với một con
ong. Khỉ tên chữ Hán là Hầu 猴; ong là Phong 蜂; đồng âm với hai chữ Phong Hầu
封 侯. Bức chạm cho thông điệp là ước mong về việc được Phong hầu hoặc cũng có
thể kể về việc chủ nhân của lăng mộ được phong là Tài kiêm hầu Đặng Trung Túc.
Bức ở mặt bên phải của hương án chạm hình chim sẻ và hươu đang đối thoại với
nhau. Chim sẻ tên chữ Hán là Tước 雀; Hươu là Lộc 鹿, đồng âm với Tước Lộc 爵
92
祿. Bức chạm cho thông điệp là ước mong về việc được ban tước và hưởng lộc. Đó
có thể được coi là sự ví von để tìm sự tương đồng giữa hình tượng được thể hiện và
ngữ nghĩa biểu hiện. Hai bức chạm của hương án Phong Hầu và Tước Lộc sử dụng
bố cục trong hình tròn, tạo nên sự phong phú, hấp dẫn, không bị nhàm chán. Trong
cung tròn của hình lá đề, bức Tước Lộc diễn tả một con hươu đang chơi đùa cùng
với một con chim sẻ. Thế quay đầu của con hươu và con chim hướng vào nhau quấn
quýt tạo nên một vòng xoáy trong bố cục tròn vô cùng hợp lý với mảng hình trong
lá đề. Ở đây, nghệ nhân xưa đã sử dụng thủ pháp cường điệu về tỷ lệ của các con
vật được chọn để biểu hiện chủ đề Nho giáo này. Tuy rằng tỷ lệ thực ở đây người
nghệ nhân đã thay đổi để tạo nên một bố cục hợp lý khi so về tỷ lệ thực giữa hươu
và chim sẻ thì tỷ lệ chim đã được làm lớn hơn, hươu được làm nhỏ hơn nhưng
người xem vẫn không thấy sự vô lý mà lại cảm nhận được một sự vô cùng ăn ý giữa
hai con vật trong bức chạm. Về tỷ lệ, bức Phong Hầu cũng tương tự, hình ảnh con
khỉ trong thế dáng đang nghỉ ngơi trong sự bình yên vui chơi với con ong có tỷ lệ đã
được cường điệu lớn hơn rất nhiều nếu so sánh tỷ lệ với con khỉ ngoài đời thực. Cả
hai bức chạm đều được chạm khắc chữ với vị trí đặt chữ phù hợp, tạo nên một bố
cục hoàn chỉnh cho tác phẩm [7, tr.32]. Cùng chủ đề này cũng có thể tìm thấy hình
ảnh tương tự ở một số di tích khác, có thể kể đến những bức chạm hàm ý Phong
Hầu và Tước Lộc trên những mảng chạm khắc đá ở lan can Thượng Điện và tháp
Báo Nghiêm của chùa Bút Tháp (Bắc Ninh). Tuy nhiên, những bức chạm ở đây
được đặt trong khuôn hình chữ nhật theo dạng tranh phong cảnh và không chạm
khắc chữ, chỉ chạm hình ảnh khỉ và ong, hươu và chim sẻ trong không gian với cây
cối, cỏ hoa.
Cách hương án này 0,90m ở phía trong là một sập đá lớn dài 2,20m, rộng
1,90m, cao 0,40m. Mặt sập được trang trí các hình bát giác xen kẽ các ô vuông nhỏ
tạo văn sức như vết nứt trên mai con rùa. Thành sập ở ba mặt có nhiều hình chạm
khắc và trang trí. Một trong những mảng phù điêu chạm khắc tạo ấn tượng mạnh mẽ
cho sập thờ này là tác phẩm chạm khắc “Cá tôm hoá rồng”.
Cá hoá rồng vốn là truyền thuyết được lưu truyền phổ biến ở Việt Nam, gắn
với tích “Ngư dược Vũ môn” (Cá chép hoá rồng) của khoa cử Nho học, là bức tranh
phổ biến về giấc mộng của các sĩ tử trước đây, đợi chờ dịp thi cử, đỗ đạt, làm quan.
93
Cá hoá rồng cũng tượng trưng cho sự kiên trì, bền chí chinh phục tri thức để đi tới
thành công của các sĩ tử, thể hiện sâu sắc truyền thống hiếu học, mơ ước đỗ đạt
đăng khoa. Vì thế, đây là hình ảnh thường được xuất hiện ở những nơi trang nghiêm
và tôn quý. Trong lăng Đặng Trung Túc, đề tài này được thể hiện ở mảng chạm
khắc ở sập thờ, một trong những đồ thờ ở vị trí trang trọng nhất, được đầu tư tạo
dáng và chạm trổ công phu nhất. Tuy nhiên, ở đây, người nghệ sĩ đã có sự sáng tạo
vô cùng độc đáo, tạo nên một đồ án không chỉ có cá hoá rồng mà còn có tôm hoá
rồng. Đây là một sự kết hợp hiếm thấy trong mảng đề tài này - Cá tôm hoá rồng
[H92, PL3, tr.235]. Trên cạnh bên của sập thờ có kích thước 190cm x 33cm, nghệ
nhân xưa đã tạo nên hình ảnh hai con cá chép và hai con tôm nối đuôi nhau. Mỗi
loại có một con còn nguyên hình và một con đang hoá rồng trên nền mây và sóng
nước. Cả hai con cá đều được thể hiện phần thân đuôi quẫy, vồng lên, cương lên,
cảm giác như đang lắc mạnh, vận động cơ mạnh mẽ. Phần đầu cá đang hoá rồng đã
diễn tả phần mang cong phồng, đã biến đổi thành miệng rồng, có sự xuất hiện của
mũi và râu rồng, vây cá đang biến đổi như vận động liên tục, liên hoàn, bứt phá tiến
lên [H94, PL3, tr.236]. Nếu cá hoá rồng mới chỉ biến đổi chút ít ở phần đầu, và
phần đuôi uốn cong mạnh mẽ thì hình tôm hoá rồng đã biến đổi cả đầu, thân, chân,
vây, chỉ còn một ít đuôi giữ lại hình đuôi tôm. Đầu rồng do tôm biến đổi đã rõ ràng
nhất là chiếc sừng cùng hai dải đuôi bờm bay dài ra sau gáy, một chùm râu bay
ngược từ dưới cằm lên, đôi mắt lồi to cùng chiếc mũi sư tử và cái tai dài hình lá,
vây lưng ẩn hiện trong sự vận động của sóng nước, ăn khớp với nhau vô cùng sinh
động. Chân rồng ẩn hiện trong hình mây như đang trong tư thế lấy đà kết hợp cùng
dáng đuôi tôm cong như tạo nên thế bật nhảy mạnh mẽ. Kỹ thuật móc khối tạo hình
tôm có thể nói là đạt đến đỉnh cao khi diễn tả phần thân tôm được chuyển độ cong
vô cùng tinh tế nổi cao trên nền sóng nước [H93, PL3, tr.235]. Các phần mây, chân
rồng, vây, thân rồng, sóng nước, tôm, cá chỗ được đan cài, chỗ chồng lên nhau
lớp trên lớp dưới, kết hợp nhuần nhuyễn tạo nên một cảnh sắc vô cùng thú vị. Sự
định hình tạo khối tôm cá không chỉ theo lớp mà còn thêm chiều sâu không gian. Tư
duy tạo hình tôm uốn cong tạo bứt phá, thay đổi, thúc đẩy nhanh chóng, dứt khoát,
mãnh liệt, cho thấy sự dồn sức qua tạo hình khối căng, động, vần vũ thể hiện sự
nhanh nhẹn, dứt khoát, tiến cao biến hoá thành thứ cao cấp hơn. Tất cả hoạt cảnh
94
này được quy gọn trong những đường viền cong theo sóng nước tạo nên như một
khung tranh, mỗi điểm dừng của đường cong là một họa tiết trang trí hình mây lửa,
đao mác và mặt hổ phù càng thêm tính thiêng cho không gian nơi đây. Cùng với chủ
đề cá hóa rồng, trên hương án cạnh sập thờ có đến 6 hình cá hóa rồng đã biến đổi gần
hết, chỉ còn lại một chút dấu vết của đuôi cá [H84, PL3, tr.232]. Qua sự phân tích các
tác phẩm chạm khắc, chúng ta có thể thấy, những ước muốn khát khao danh vọng,
những lý tưởng của người quân tử trong lẽ sống của người xưa vẫn song hành tồn tại,
in dấu trong chạm khắc đồ thờ ở lăng mộ này. Nó xuất hiện dưới những mô-típ, đồ án
trang trí mang đầy tính tượng trưng ẩn dụ, mang nặng tư tưởng nhập thế của Nho giáo,
biểu tượng cho sự nỗ lực, học hành, thi cử dành chỗ đứng trong thiên hạ. Điều này
cũng cho thấy Nho giáo đã đóng một vai trò trong không nhỏ trong việc phát triển nghệ
thuật Việt Nam trong quá khứ. Từ các đồ án hoa văn, các biểu tượng nghệ thuật gắn
liền với ý thức hệ Nho giáo, chúng ta thấy rằng, Nho giáo đã được tiếp thu một cách có
chọn lọc để sản sinh ra các biểu tượng nghệ thuật phong phú đa dạng [7, tr.32].
Mặt bên trái của sập thờ lựa chọn một hình thức và đề tài khác hẳn, đó là một
bức tranh liên cảnh miêu tả thiên nhiên và con người rất sinh động [H90, PL3,
tr.234]. Đây là bức tranh tả cảnh núi rừng trùng điệp, núi trước che lấp núi sau, núi
nọ sát núi kia tạo thành một dãy dài chạy suốt thành sập. Cảnh đầu tiên ở góc trái
bức tranh là cảnh hươu đang co chân chạy, đầu ngoảnh lại phía sau nhìn một người
đang cưỡi ngựa, giương cung đi săn dưới núi. Sau cảnh này là làng xóm trong thung
lũng với khung mái nhà hình chữ A. Tiếp ảnh xóm làng là cảnh một chú khỉ trèo lên
đỉnh núi, cúi nhìn người đóng khố, cởi trần đang đè trói một con khỉ tiếp theo là
cảnh một người đàn ông tóc ngắn, mình trần đang ngồi đè lên ngực một người khác,
tay trái nắm tóc kẻ bị đè, tay phải cầm gậy vung lên như sắp đánh. Người nằm dưới
đang bị đè ngửa, tay chống, chân co như đang giãy giụa chống đỡ. Sau cảnh này là
hình ảnh một người đàn bà áo ngắn váy dài, tay cầm một vật che đầu trông tựa ánh
hào quang đang dạo bước thanh thản dưới chân núi. Ở dãy núi ngoài, ngang hàng
với cảnh đánh nhau là cảnh một người ngồi cúi đầu, tay phải ôm gáy, chống cùi tay
vào đầu gối, tay trái sờ chân trái đang duỗi thẳng. Trước mặt người này là một
người bế con nhỏ trong lòng. Nhìn người phía trước như cảnh vợ chồng ngồi tâm
sự. Cuối bức tranh là hình ảnh một con thú lớn đang khom mình rình bắt lũ khỉ trên
95
cao, khỉ mẹ ôm khỉ con trong lòng, ngồi trên đỉnh núi nhìn xuống con thú, vẻ dè
chừng. Trên vách núi của bức tranh liên cảnh ở mỗi cảnh điêu khắc chữ Hán, song
do chữ bị mờ nên chưa thể đọc dịch và giải thích chính xác bức tranh này. Xét về
hình thức, đây có lẽ là một trong những bức tranh bằng đá khá đặc biệt được tìm
thấy trong thế kỷ XVII lựa chọn hình thức kể chuyện bằng tranh kèm chữ tương tự
như dạng thiết kế truyện tranh liên khung của thời hiện đại. Cảnh vật, con người
trong tranh được kể theo lối đồng hiện, mỗi cảnh có kèm chữ minh họa cho câu
chuyện. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng, những chữ này hiện tại đã bị mòn và không còn
rõ một số chữ để có thể có đủ, dịch đúng và hiểu thấu đáo câu chuyện mà người xưa
muốn kể qua mảng chạm khắc này trên sập thờ trong di tích.
2.2.3. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Đỗ Bá Phẩm
Lăng Đỗ Bá Phẩm (Hà Nội) có các hiện vật được tạo tác bằng các khối đá đồ
sộ, mỗi hiện vật là một tác phẩm nghệ thuật điêu khắc độc đáo, nghệ thuật chạm khắc
trang trí trên đồ thờ của lăng là minh chứng về khả năng tư duy nghệ thuật, trình độ
thẩm mỹ và tài năng sáng tạo của nghệ nhân xưa. Khi bước vào lăng, người đến thăm
sẽ thấy một hương án chính khá lớn và hai đẳng thờ ở phía trước. Sau những đồ thờ
này là hệ thống hương án khác cùng sập thờ, ngai thờ, lư hương nối nhau liên tục
đến nhà bia và mộ phần. Cụm đồ thờ gồm hương án chính và hai đẳng thờ đặt ở trung
tâm của lăng có lẽ là những đồ thờ có tỷ lệ khá lớn so với các hiện vật thờ cùng loại ở
các lăng khác. Hoa văn trang trí cũng được đầu tư chạm khắc chủ yếu ở ba đồ thờ
này. Một phần khác, hoa văn được nhấn ở một số trọng điểm ở các đồ thờ như ngai
thờ, lư hương, góc sập thờ, hương án
Hoa văn, họa tiết trên các đồ thờ trong lăng Đỗ Bá Phẩm nói riêng, trong các
di tích lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII nói chung chứa đựng những tư tưởng, tinh thần
của mỹ thuật truyền thống Việt, chúng góp phần làm thiêng hoá công trình kiến
trúc. Đóng góp không nhỏ cho sự thành công của nghệ thuật tạo dáng và trang trí
hoa văn trên hệ thống đồ thờ của một số lăng mộ giai đoạn này là sự phối hợp linh
hoạt giữa các họa tiết trong mỗi đồ án hoa văn được chạm khắc trên các hương án,
đẳng thờ, sập thờ, ngai thờ Với lăng Đỗ Bá Phẩm, những đồ án hoa văn trở nên
đặc sắc, độc đáo, khác biệt với các di tích khác chính bởi sự thay đổi trong cách sử
dụng họa tiết khéo léo ở các dạng độc lập hay phối hợp họa tiết trong các đồ án hoa
96
văn trang trí cùng kỹ thuật chạm nông, không cầu kỳ trong kỹ thuật nhưng vẫn vô
cùng hiệu quả.
Ấn tượng nhất, có lẽ là hình ảnh chạm khắc đôi nghê chầu lư hương trên
hương án trung tâm. Xung quanh bốn mặt của hương án đều chạm hoa văn. Mặt
trước của thân hương án khắc “Lưỡng nghê chầu lư hương” [H96, PL3, tr.236].
Trong khung hình chữ nhật được tạo nên bởi những hình hoa thị chạy nối nhau làm
đường diềm bao quanh, hình cặp nghê cưỡi trên mây, chân đặt lên quả cầu tròn,
ngồi đối xứng với lư hương ở giữa, tạo nên một đồ án trang trí khá độc đáo. Hai con
nghê được chạm khắc tương đồng về hình dáng, chỉ khác ở vài chi tiết bổ trợ. Đầu
nghê được tạo tác khá sinh động, trán nổi cao, hai mắt lồi, tai xòe ra với những
đường gân nổi rõ, chiếc mũi nở to. Từ hai tai chạy về hai bên là hình mây tỏa ra uốn
cong mềm mại. Miệng trong tư thế mở rộng để lộ hai răng cửa nhô hẳn lên cùng
chiếc lưỡi dài thè ra. Một đường cong gồm nhiều họa tiết hình dấu hỏi chạy từ trán
đến cằm chia rõ phần má và trán. Từ cằm nghê chạy ra là một chòm râu dưới dạng
đao mác. Ngực nghê được tạo bởi những đường cong lặp đi lặp lại. Hai chân trước
được chạm ôm hình cầu được quấn bởi những dải lụa dài dịu dàng lan tỏa. Thân
nghê có dáng thon, chắc, khỏe, sống lưng nổi khối chạy từ gáy đến đuôi chạm nổi
hình xoắn ốc. Lư hương ở giữa trang trí bằng hình mặt hổ phù, phía trên lư hương
tạo hình lửa bốc lên dữ dội làm tăng sự nhuần nhuyễn, ăn ý với những đám mây phủ
quanh thân nghê. Biểu tượng hổ phù ở đây được sử dụng như một họa tiết, hoa văn
trang trí cho hình đồ vật chạm khắc trên hương án. Lư hương ở giữa trang trí bằng
hình mặt hổ phù, phía trên lư hương tạo hình lửa bốc lên dữ dội làm tăng sự nhuần
nhuyễn, ăn ý với những đám mây phủ quanh thân nghê. Trong bố cục tròn hình thân
của lư hương, ta không thấy ở đây sự hung dữ, biểu hiện của sức mạnh thường thấy
của hổ phù mà người xem sẽ vô cùng phấn khích bởi nghệ nhân chủ động nhấn mạnh
vành môi cong kết hợp với hai răng cửa của hổ phù tạo nên tiếng cười hài ước, vui
tươi trên khuôn mặt tròn trịa, nhấn vài xoắn tóc. Nụ cười này vô cùng ăn ý với miệng
cười lộ hai răng của đôi nghê chầu vào lư hương, tạo nên một không khí vui vẻ, khiến
người đến thăm lăng mộ không thấy có cảm giác thê lương. Cảm xúc này được kéo
dài với chạm khắc của mặt bên của hương án trung tâm này, trong một bố cục khác
giữa lư hương với hệ thống bát bộ gồm: cuốn thư, quạt, nậm rượu kết hợp trong
97
một bố cục chặt chẽ, trang trí hổ phù trên lư hương mặc dù không chạm hàm dưới,
môi dưới, không miệng cười, nhưng người xem vẫn thấy vô cùng vui vẻ bởi hai chiếc
răng nhe ra của hổ phù gợi cho người xem hình ảnh ngộ nghĩnh của những đứa trẻ
con vừa mới mọc được hai răng cửa vô cùng dễ thương.
Cùng đề tài linh thú, hai đẳng thờ của lăng Đỗ Bá Phẩm lại lựa chọn hình
ảnh con lân. Hai đẳng thờ được đặt đối xứng hai bên đường thần đạo, được bào soi
và khắc gờ chỉ công phu, thân đẳng thờ chạm trổ đồ án “Lân hý cầu” ở cả mặt trước
và sau [H98, PL3, tr.237].
Trên cặp đẳng thờ của lăng Đỗ Bá Phẩm chạm 4 đồ án thể hiện hình ảnh đôi
lân đang vờn quả cầu được trang trí bằng dải lụa mềm mại. Nếu ở hình ảnh nghê
trên hương án, phần trang trí thân nghê được tiết chế tốt, chỉ nhấn trang trí ở một số
điểm, thì ở hình ảnh lân trên đẳng thờ là sự trang trí ngập tràn trên bề mặt. Toàn
thân lân được chạm khắc trang trí tỉ mỉ, chi tiết, những vân xoắn ở phần chân, đuôi
và bờm uốn lượn như sóng tạo nên cảm giác như những con lân này đang chuyển
động, bay, vờn quanh quả bóng tròn. Những con lân này không tạo nên cảm giác áp
chế thường thấy ở thể loại linh thú mà cho người xem thấy cảm giác vui tươi, thấy
những con thú như đang trêu đùa, tạo nên một không khí nhẹ nhàng, vui vẻ [H99,
PL3, tr.237].
Sau đẳng thờ và hương án là sập thờ được ghép bằng những phiến đá lớn,
mặt của sập thờ đặt một ngai thờ đá được chạm lộng khá công phu. Đây có lẽ là một
hiện vật thờ được trang trí hình linh thú với tinh thần nghiêm cẩn nhất trong không
gian lăng mộ này [H101, PL3, tr.238]. Phần tay ngai được cách điệu, uốn cong tạo
thành hình thân rồng với 2 đầu rồng ở 2 đầu tay ngai, cách chạm này có phần nào
tương đương với ngai thờ lăng Nguyễn Danh Thưởng (Vĩnh Phúc), lăng Vũ Công
Chấn (Nam Định) cùng sử dụng hình ảnh đầu rồng cho tay ngai. Đầu rồng ở ngai
thờ lăng Đỗ Bá Phẩm được tạo hình khá dữ dằn, cùng với hình ảnh hổ phù trên thân
ngai, hình ảnh 2 linh thú được chạm khắc trên hiện vật này tạo cảm giác khiến
người đến thăm nghiêm túc hơn trong thế dáng, tinh thần khi tiếp tục bước tới phần
nhà bia và mộ phần [H102, PL3, tr.238].
Ngoài hình ảnh loài thú, trên đồ thờ lăng Đỗ Bá Phẩm cũng chạm khắc thành
công những loài hoa được cách điệu khéo léo, nổi bật là hình hoa sen và hoa thị.
98
Những cánh sen được chạm khắc mềm mại, nối nhau liên tục tạo thành những
đường diềm trên thân hương án, đẳng thờ, giúp cho những hiện vật này được mềm
mại, nhẹ nhàng hơn. Hoa văn hoa thị được thể hiện nối nhau liên tục tạo thành diềm
cho đồ án trang trí thay cho phần khung bằng đường kỷ hà thường thấy ở hương án
và đẳng thờ của các lăng mộ cùng thời, tạo nên vẻ đẹp riêng cho tổng thể, sự ăn ý
trong cùng các đồ án trang trí trên một hiện vật. Cùng trên hương án đá trung tâm
của lăng, hai bên phải và trái được chạm khắc đề tài trang trí bát bảo. Cuốn thư là một
trong những họa tiết được chạm trổ công phu nhất trong tác phẩm. Hình cuốn thư,
ngoài phần thường thấy tạo tác quen thuộc giống như ở các mảng chạm lăng khác,
người nghệ nhân còn rất công phu trang trí cho đôi cuốn thư bằng họa tiết kỷ hà tạo
thành đường diềm chạy ở cả diềm trên và diềm dưới của cuốn thư. Chiếc quạt ba tiêu
trở thành một vật được tạo hình mềm mại, đặt đỡ cuốn thư này, phối hợp khá ăn ý
giữa đường cong của quạt với những đường thẳng gấp khúc tạo hình cuốn thư.
2.2.4. Đề tài hoa văn trên đồ thờ lăng Nguyễn Danh Thưởng
Về mỹ thuật trang trí tạo hình, lăng Nguyễn Danh Thưởng (Vĩnh Phúc) có lẽ
là lăng mộ có nhiều di vật đá nhất trong số các lăng mộ thế kỷ XVII - XVIII. Chỉ
tính những di vật được đục chạm thành tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh thì đã có 48
tác phẩm, trong đó hiện vật thờ chiếm số lượng lớn. Những đồ thờ được trang trí
công phu nhất trong lăng này thuộc về hương án và đôi đẳng thờ ở gian Đại bái, sập
thờ và ngai thờ ở trong Hậu cung. Chạm khắc đá ở lăng Nguyễn Danh Thưởng đã
phản ánh những thành công nổi bật, trình độ cao về nghệ thuật chạm khắc, trang trí
trên đá. Các nghệ nhân thời xưa đã biết căn cứ vào chất liệu và màu sắc của đá mà
vận dụng và tận dụng chúng trong tạo hình cũng như trang trí nội thất kiến trúc. Với
kỹ thuật chạm khắc tinh vi điêu luyện, cùng hình ảnh nửa thực nửa hư, chạm khắc
đá ở lăng Nguyễn Danh Thưởng đã tạo nên cho di tích không khí vừa độ trang
nghiêm mà không lạnh lùng, nhà ở của thần linh mà vẫn ấm áp hơi thở của cuộc
sống con người.
Ở lăng Nguyễn Danh Thưởng, hổ phù là biểu tượng duy nhất xuất hiện trên
toàn bộ các hương án và đẳng thờ ở gian Đại bái, có đến 12 mặt hổ phù được nghệ
nhân đều dành cho diện tích khá lớn trên bề mặt trang trí chiếm cả bốn mặt của các
tác phẩm này. Trên hương án, bốn mặt hổ phù được cách điệu theo hướng vân hóa.
99
Mũi được tạo hình mây khánh rất cân đối, hai tai, hai râu, hai sừng đều được biểu
hiện thành hình mây với các kiểu dáng khác nhau, xung quanh mặt hổ phù này cũng
được bao phủ bởi những đám mây lớn [H109, PL3, tr.242]. Nghệ nhân xưa đã lựa
chọn kỹ thuật chạm nông trong tổng thể các chi tiết trang trí hương án. Tuy nhiên,
riêng ở biểu tượng hổ phù, họ đã dùng thủ pháp nhấn mạnh ở một số bộ phận trên
khuôn mặt, tạo cho các khối nổi cao như bức phù điêu, đặc biệt gồ lên ở mũi và
trán, tạo nên sự dữ dằn như muốn trấn áp người đối diện. Râu của hổ phù được
chạm uốn cong, kéo dài, quấn vào những đường kỷ hà được chạm theo chiều dọc và
ngang của hương án, có chỗ râu biến thành lá cúc, có vị trí râu biến thành mây.
Cùng với xu hướng tạo hình của râu, hai chân hổ phù được chạm bành ra hai bên
bám chặt vào những đường kỷ hà trên mặt hương án, chỉ với một hoa văn hổ phù
mà nghệ nhân đã chạm khắc trang trí tràn hết mặt phía trước của hương án. Với
phong cách này, biểu tượng hổ phù được lặp lại ở các mặt sau và mặt bên của
hương án, phủ kín đồ thờ này. Bên cạnh hương án chính, có đến tám mặt hổ phù
được chạm ở hai đẳng thờ [H111, PL3, tr.243]. Đẳng thờ thường đi theo cặp, là hai
bàn thờ thường đặt hai bên hương án, có tỷ lệ nhỏ hơn hương án chính, thường
được đặt quay dọc, dùng để đặt lễ vật. Biểu tượng hổ phù chạm khắc trên đẳng thờ
lăng Nguyễn Danh Thưởng lại được cách điệu theo xu hướng biến thành hoa lá,
phần mũi và trán được cách điệu thành những bông hoa nhiều cánh, tai cách điệu
thành hình lá, còn râu và sừng biến thành ho