Luận án Nghệ thuật lãnh đạo Hồ Chí Minh - Nội dung và giá trị

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 6

1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài và những

vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

23

Chương 2: KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH NGHỆ THUẬT

LÃNH ĐẠO HỒ CHÍ MINH

27

2.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến luận án 27

2.2. Cơ sở hình thành nghệ thuật lãnh đạo Hồ Chí Minh 37

Chương 3: NỘI DUNG NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO HỒ CHÍ MINH 67

3.1. Nghệ thuật xác định mục tiêu, xây dựng tầm nhìn lãnh đạo 67

3.2. Nghệ thuật thuyết phục đối tượng lãnh đạo 80

3.3. Nghệ thuật tổ chức và sử dụng lực lượng cách mạng 90

3.4. Nghệ thuật sử dụng quyền lực 102

3.5. Nghệ thuật nắm bắt thời cơ 111

3.6. Nghệ thuật xử lý tình huống 123

Chương 4: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO HỒ CHÍ MINH 132

4.1. Giá trị lý luận 132

4.2. Giá trị thực tiễn 146

KẾT LUẬN 164

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

166

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167

pdf180 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 422 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghệ thuật lãnh đạo Hồ Chí Minh - Nội dung và giá trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t là người nông dân - rất chú trọng tính thiết thực, cụ thể dù là trong kinh tế, chính trị, văn hóa, lý luận..., Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “nhân dân cần trông thấy lợi ích thiết thực (lợi ích gần và lợi ích xa, lợi ích riêng và lợi ích chung, lợi ích bộ phận và lợi ích toàn cuộc). Đối với nhân dân, không thể lý luận suông, chính trị suông” [97, tr.176]. Điều đó khẳng định, muốn thuyết phục, huy động nhân dân phải đặc biệt chú ý đến vấn đề lợi ích thiết thân của họ. Trong quá trình lãnh đạo Hồ Chí Minh đã nắm bắt màng lưới lợi ích và giải quyết chúng một cách hài hòa. Điểm nổi bật ở Người là khi nhấn mạnh đến lợi ích chung, vẫn huy động được sức mạnh của mỗi cá nhân trong khối 83 đại đoàn kết dân tộc. Hồ Chí Minh hướng mọi người tập trung cho mục tiêu chung trên cơ sở thấu hiểu hoàn cảnh, mong muốn của họ. Người thông qua việc xác lập mục tiêu, xây dựng tầm nhìn đã giúp quần chúng và mỗi cá nhân nhận ra cách thức thông qua lợi ích chung để đạt được lợi ích riêng. Bên cạnh đó, Người luôn thấu hiểu và quan tâm đến lợi ích riêng của mỗi người. Khi điều kiện cho phép, phù hợp với hoàn cảnh, Hồ Chí Minh thể hiện một cách rất cụ thể. Bù lại sự thiếu thốn về vật chất, Người luôn thể hiện sự quan tâm chu đáo về mặt tinh thần, nhất là sự ghi nhận, quan tâm, động viên, khích lệ. Hồ Chí Minh chú trọng tìm kiếm những điểm chung, nâng nó lên, làm cho mọi người đều hiểu, đều thấy. Sau đó dùng tương đồng để khắc chế dị biệt, lấy lợi ích chung để dẫn dắt lợi ích riêng, để cố kết các thành phần xã hội, các lực lượng, thay vì khoét sâu sự khác biệt. Với nhãn quan lãnh đạo sắc bén, Hồ Chí Minh nhận thấy sự thống nhất dân tộc, sự đoàn kết toàn dân mới tạo ra động lực thực sự mạnh mẽ, bền vững để chiến thắng mọi khó khăn trở ngại, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Hồ Chí Minh lấy lịch sử để chứng minh, khi nào dân tộc doàn kết thì đất nước được độc lập tự do, khi nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn. Vì vậy, tìm ra điểm tương đồng để cố kết dân tộc, tìm ra lợi ích chung để quy tụ sức mạnh toàn dân, để giữ cho khối đại đoàn kết hướng tâm, đồng thuận với sự lãnh đạo ĐCS Việt Nam, là điểm then chốt trong xây dựng, tập hợp lực lượng của Hồ Chí Minh. Người phê phán một số cán bộ chỉ biết “bênh vực lớp này, chống lại lớp khác, không biết làm cho các từng lớp nhân nhượng lẫn nhau, hoà thuận với nhau” [94, tr. 65]. Người khuyên dân ta phải nhớ chữ “đồng”, là “đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh” [93, tr. 266]. Nhưng điều đó không có nghĩa là Hồ Chí Minh chỉ chú ý đến tương đồng, chỉ biết tương đồng mà bỏ qua dị biệt. Kêu gọi đoàn kết gắn bó, nhưng không có nghĩa là một chiều, mà đoàn kết phải gắn với đấu tranh để tiến bộ. Đối với Hồ Chí Minh, không phải cứ dị biệt là mâu thuẫn, là đối kháng, mà phải nhận rõ từng vấn đề, từng mối quan hệ, “phải xét thái độ của các giai cấp và tầng lớp xã hội Việt Nam, để định phương châm, chính sách cho đúng” [97, tr. 391]. Với những những lực lượng khác nhau, những mâu thuẫn khác nhau, những dị biệt cụ thể Hồ Chí Minh luôn có cách xử lý riêng tùy theo vấn đề và tình hình. Người cho rằng không phải cứ: “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh. Mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng” [95, tr. 312]. Vì vậy: “trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc. Việc gì cũng phải đúng với địa điểm, điều kiện và thì giờ mới thành công” [96, tr. 528]. 84 Sự tương đồng và dị biệt trong lợi ích của nhân dân là một tồn tại khách quan, nếu chỉ chăm chú đến lợi ích chung mà bỏ quên hoặc xem nhẹ lợi ích riêng thì khó có thể duy trì đại cục lâu dài, ngược lại thì sẽ phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, hủy hoại sự nghiệp chung. Khi kêu gọi chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở mọi người phân biệt chủ nghĩa cá nhân với lợi ích cá nhân, những lợi ích cá nhân chính đáng phải được tôn trọng và phải từng bước được quan tâm, đáp ứng phù hợp với sự phát triển của cách mạng, điều kiện của đất nước. Trong Di chúc, Người xác định khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nước nhà thống nhất thì Đảng và Chính phủ phải có kế hoạch thật tốt để không ngừng nâng cao đời sống nhân dân. Trong đó, vấn đề lợi ích của các giai tầng được nhấn mạnh với những quan tâm cụ thể, những hướng dẫn chi tiết. Hồ Chí Minh nhận thấy phải biết tập trung cho cái chung, lợi ích chung, nhưng khi lợi ích chung nào đó đã đạt được và chuyển sang một trạng thái mới thì phải có cách giải quyết mới với những lợi ích riêng. Bởi vì, khi lợi ích riêng bị nén lại phục vụ cho lợi ích chung nào đấy và khi cái chung đó đạt được thì cái riêng sẽ bung ra, phải chủ động nhìn nhận, chủ động giải quyết. Đó cũng là phương thức để đưa cách mạng phát triển lên một giai đoạn mới. 3.2.2. Đặt mình vào vị trí của quần chúng, lấy lòng quần chúng làm lòng mình, lấy mình làm gương cho quần chúng Một trong những yếu tố làm nên sự thành công của Hồ Chí Minh trong thuyết phục quần chúng chính là sự gắn bó với họ, là biết đặt mình vào vị trí của người khác. Nhờ vậy, Người hiểu được hoàn cảnh, mong muốn, tiềm năng của đối tượng, động viên được quần chúng, làm cho họ vượt qua những giới hạn thường ngày để vươn tới những điều lớn lao. Quần chúng vượt qua nỗi sợ hãi kẻ thống trị và sự tự ti để đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, giải phóng cho chính mình và cho dân tộc. Hồ Chí Minh đã sống cuộc đời của quần chúng, trải qua những khó khăn, gian khổ như quần chúng và mang một ước mơ, khát vọng gộp được ước mơ, khát vọng của quần chúng. Những lời bộc bạch, những bức thư thăm hỏi, động viên của Người thể hiện rất rõ điều đó. Những lời nói, hành động của Hồ Chí Minh đều toát lên được sự đồng cảm, gần gũi với mọi người. Điều Hồ Chí Minh mong muốn cũng là điều quần chúng mong muốn nên họ theo Người. Nhân dân tìm thấy ở Hồ Chí Minh nơi gửi gắm những gì mà họ đang hướng tới, lấy Người làm điểm tựa để vươn tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, cao thượng hơn. Điều này được thể hiện qua muôn vàn thành tích mà mỗi cá nhân, tập thể, địa phương dâng lên Hồ Chí Minh. Biết đặt mình vào vị trí của quần chúng nên Hồ Chí Minh hiểu được quần chúng, nhưng không chỉ dừng lại ở hiểu, mà Người còn đi xa hơn, sâu hơn. Người đã lấy lòng quần 85 chúng làm lòng mình. Khi xác định những vấn đề căn bản trong lãnh đạo, Hồ Chí Minh đã đứng trên cơ sở lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Hiểu mọi người, lấy suy nghĩ của mọi người làm của mình là cách Hồ Chí Minh tạo nên một lực hút lôi cuốn quần chúng. Người nói: “Mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau khổ của tôi” [105, tr.674]. Cách thức của Hồ Chí Minh khi thuyết phục quần chúng là: hiểu vấn đề (hiểu tinh thần, bản chất nội dung cần thuyết phục); tìm cách phù hợp để chuyển tải vấn đề đến đối tượng (cụ thể hóa nội dung, đối tượng, các điều kiện khác, hiểu văn hóa); thái độ khi thuyết phục (mềm mỏng, khéo léo, hòa mình vào quần chúng); gương mẫu thực hành. Gắn bó với nhân dân nên Hồ Chí Minh hiểu ý dân, hiểu lòng dân. Việc xưng hô của Người không rơi vào xáo rỗng, nguyên tắc mà linh hoạt phù hợp với cách nói của quần chúng, văn hóa của dân tộc, tạo được sự bình đẳng, không gây nên khoảng cách về chức vụ, địa vị. Điều này làm cho Hồ Chí Minh có sự gắn bó mật thiết với đồng bào như người trong gia đình, gia tộc. Đó chính là nghệ thuật, là sự tinh tế, khéo léo trong việc lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, thể hiện sự hài hòa, hợp lý, đi vào lòng người (lúc là tôi, là Bác, là anh, là cháu). Người tác động từ gần đến xa, từ nhỏ đến lớn, từ cái thường nhật đến cái cao cả, từ trong ra ngoài. Trước hết, là khơi gợi từ gia đình, gia cảnh, rồi từ đó nâng lên tình cảm quê hương, từ quê hương nâng lên thành tình yêu nước, yêu thương nhân loại bị áp bức, bóc lột. Hồ Chí Minh đã vận dụng khéo léo mối quan hệ riêng - chung, gia đình - làng xóm - quốc gia - quốc tế. Qua đó, Người khích lệ, mở rộng, tăng cường tình cảm, tư tưởng và quyết tâm hành động của nhân dân. Hồ Chí Minh định hướng cho họ biết tìm hạnh phúc riêng trong hạnh phúc chung, biết hưởng hạnh phúc riêng nhưng phải quan tâm đến hạnh phúc chung, phải sống xứng đáng với thân phận một con người và vươn lên để sống cuộc sống của một con người chân chính, trong độc lập, tự do. Người lãnh đạo đặt được mình vào quần chúng thì mới có thể lấy lòng quần chúng làm lòng mình, nhưng làm được điều đó trong thực tế là điều không đơn giản. Nếu không khéo léo, không tinh tế, không có sự hiểu biết sâu sắc nhân dân thì người lãnh đạo không thể biết đặt mình vào quần chúng. Dù họ có đặt được mình vào đó mà nếu không có đạo đức cao cả, không có tấm lòng độ lượng khoan dung, không có khát vọng dấn thân, dâng hiến cuộc đời cho nhân quần thì cũng không thể lấy lòng quần chúng làm lòng mình. Hồ Chí Minh không chỉ biết đặt mình mà còn khéo đặt mình vào quần chúng để trở thành người của quần chúng. Hồ Chí Minh lấy điều nhân dân mong muốn, nhân dân ước ao để 86 gộp lại, nâng lên thành lý tưởng sống, khát vọng sống và động lực thôi thúc hành động. Bởi vậy, “Hồ Chí Minh là một con người phi thường và xuất chúng. Tuy nhiên, khi gặp Hồ Chí Minh, mọi người cảm thấy như thân thuộc từ lâu, dễ dàng nói chuyện, cởi mở, tự nhiên, không chút nào cách bức” [31, tr.200-201]. Hồ Chí Minh luôn lấy mình làm gương, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, có khi làm mà không nói để cho mọi người noi theo. Hồ Chí Minh hiểu rằng đối với người phương Đông, thì một tấm gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Hồ Chí Minh chỉ rõ, muốn người khác làm theo thì bản thân mình phải làm mực thước cho người khác bắt chước, muốn người khác chính thì mình phải chính trước. Do đó, nhân dân không chỉ nghe lời Hồ Chí Minh nói, mà còn thấy việc Hồ Chí Minh làm nên họ tin và niềm tin đó lan tỏa theo thời gian, trở thành niềm tin của dân tộc đối với người đứng đầu. Hồ Chí Minh như sông sâu, biển lớn đã tập hợp được xung quanh mình cả một dân tộc, tuyệt đại đa số những người yêu nước. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên muốn tiến bộ, được nhân dân kính trọng, tin yêu thì không được tự kiêu tự mãn, phải luôn luôn khiêm tốn trước nhân dân, làm cho nhân dân tin mình. Sự thành công của Hồ Chí Minh trong thuyết phục quần chúng là thành công của tinh thần nhân văn cách mạng, của sự khoan dung, lòng nhân ái, ở sự tự nguyện hiến dâng bằng những phương pháp khéo léo để lay động tâm can con người, làm cho quần chúng luôn tin và theo mình. 3.2.3. “Biết làm học trò dân” để lãnh đạo nhân dân Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn tâm niệm mình là người đầy tớ của nhân dân, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Là lãnh đạo cao nhất, nhưng Hồ Chí Minh không bao giờ tự cho mình đứng trên hay đứng ngoài mà luôn đứng trong và đồng hành với nhân dân. Với quan điểm: “lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [95, tr.335], nên Người luôn chú trọng học dân. Người phê bình suy nghĩ của một số cán bộ “cho dân là dốt không biết gì, mình là thông thái tài giỏi” [95, tr.335], không thèm học, không thèm bàn bạc với dân chúng. Vì vậy mà công việc thường thất bại, nếu có chút thành công thì cũng chỉ là nhất thời. Hồ Chí Minh biết học cách làm, cách suy nghĩ, cách nói của nhân dân, qua đó mà tự đúc kết thành cách của riêng mình, để thuyết phục họ, vận động họ, thức tỉnh họ tham gia đấu tranh cách mạng. Sự thuyết phục của Hồ Chí Minh luôn có hiệu quả cao vì biết nhắm 87 đúng thời điểm, trúng vấn đề, đúng đối tượng trên cơ sở hiểu đối tượng. Việc học dân được Hồ Chí Minh tiến hành nhuần nhuyễn từ việc gần gũi đến lắng nghe, thấu hiểu. Từ đó, Người đem những điều quan sát được, những hiểu biết đã có, chắt lọc, chuyển hóa để xây dựng chủ trương, đường lối và phổ biến trở lại quần chúng, cổ động, giáo dục, tổ chức và dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Điều đó làm cho sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh luôn có tính sáng tạo, linh hoạt, thiết thực cao và có khả năng quy tụ được người khác. Mọi người không thấy xa cách, vì người lãnh đạo luôn biết lắng nghe, gần gũi; mọi người không tự ti vì tìm thấy trong sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, họ được đóng góp một phần nào đó, dù là nhỏ bé. Dĩ nhiên cái học của Hồ Chí Minh là cái học của người lãnh đạo, học nhân dân để hiểu nhân dân, biết cách lãnh đạo nhân dân và phát huy được tối đa sức mạnh tiềm ẩn ở bên trong họ, cả về phương diện tinh thần và thể chất. Đó cũng là quá trình Hồ Chí Minh hiểu rõ được tâm trạng của quần chúng để gắn kết với quần chúng và làm cho quần chúng gắn kết với nhau thành một khối thống nhất. Sự thấu cảm của Hồ Chí Minh với nhân dân không chỉ dừng lại ở sự đau xót, cảm thông, chia sẻ mà như là người trong cuộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh nói ra được điều mà nhân dân muốn nói và làm những việc mà nhân dân mong muốn người lãnh của mình làm. Đó là sự lãnh đạo mà như không lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm học trò dân, mới làm được thầy học dân” [96, tr.432]. Điều đó không chỉ chứa đựng chất trí tuệ mà còn là cả tinh thần nhân văn cao cả. Nói là trí tuệ vì Hồ Chí Minh đã biết gạn lọc những kinh nghiệm hay, cách làm tốt, những quan điểm đúng của nhân dân để hình thành nên đường lối lãnh đạo. Người biết làm giàu cho trí tuệ của mình bằng sự cầu thị, sự trân trọng để học hỏi người khác, giống như biển lớn nhận nước từ muôn sông đổ vào. Nói là nhân văn vì đó là kết quả tất yếu của việc trọng dân, tin dân, thấu hiểu được vai trò của nhân dân đối với sự tiến bộ của xã hội và sự sinh thành ra mỗi cá nhân, dù cá nhân đó có vĩ đại và kiệt xuất đến đâu. Biết làm học trò dân nên Hồ Chí Minh đạt tới tầm “thầy học dân”, trở thành người “thầy học dân” mẫu mực. Vì vậy, mỗi lời nói, bài viết của Hồ Chí Minh đã toát lên được điều ước ao suy nghĩ của quần chúng, mọi người đều hiểu, đều tin và quyết tâm làm theo. 3.2.4. Dùng văn hóa của đối tượng để thuyết phục đối tượng Để thuyết phục đối tượng lãnh đạo, có nhiều cách khác nhau, trong đó Hồ Chí Minh chú trọng dùng văn hóa của đối tượng để thuyết phục đối tượng. Với nhân dân ta, Người dùng văn hóa dân tộc để thuyết phục đồng bào, đem đến một sự lan tỏa mạnh mẽ, tạo ra hiệu quả cao. Hồ Chí Minh rất chú trọng tới việc sử dụng văn hóa dân gian để đưa đường lối vào trong nhân 88 dân. Bởi vì, văn hóa dân gian gắn với tâm thức dân tộc và chính trị đi qua tâm thức dân tộc sẽ có sức lan tỏa lớn và lâu bền. Người Việt Nam rất thích so sánh và Hồ Chí Minh cũng phát hiện ra điều này: “đặc điểm rõ nhất trong tư tưởng của dân chúng là họ hay so sánh” [95, tr.335] nên rất chú ý đến việc sử dụng điều này để tuyên truyền cách mạng, vì nó gắn với lối suy nghĩ của đông đảo nhân dân nên dễ hiểu, dễ nhớ. Có nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, người Việt Nam rất yêu thơ, thích làm thơ và gần như làm gì, hay nói gì cũng kèm theo thơ hoặc những lời có vần điệu. Hồ Chí Minh cũng vậy, rất hay dùng thơ hoặc những đoạn văn vần trong các bài nói, bài viết của mình. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Khánh cho rằng: “ở địa vị cầm đầu đất nước, ông đã có những sáng kiến để tạo cái mới mà lại rất phù hợp với truyền thống. Thành ra chuyện “kim” mà phong vị “cổ”. Chuyện “cổ” mà rất “kim”. Vì thế ông được lòng dân” [71, tr.214]. Hồ Chí Minh làm cho mọi người nhớ đến những vần thơ chúc tết đầu năm mỗi khi tết đến, xuân về. Hồ Chí Minh cũng làm cho mọi người nhớ đến tết trồng cây vào đầu năm mới. Chúc tết đầu năm là phong tục cổ truyền của dân tộc, nhưng hiếm có ông vua nào chúc tết dân, nếu có chỉ là chúc nhau trong triều đình và ra các chiếu chỉ, nhưng không tạo thành phong tục. Ngược lại, chỉ có Hồ Chí Minh mới làm cho việc chúc tết trở thành một nét văn hóa, thành truyền thống mà khi chuẩn bị giao thừa mọi nhà đều mong ngóng. Mỗi lời chúc tết của Hồ Chí Minh, vừa mang ý nghĩa chúc nhau những điều tốt đẹp đầu xuân, nhưng nó cũng là một sự đánh giá, tổng kết nhiệm vụ chính trị, đề ra phương hướng cho năm mới và động viên mọi người thực hiện. Như vậy, sự tài tình của Hồ Chí Minh là đã làm cho toàn dân nhận nhận thức rõ tình hình, nhiệm vụ chính trị, xây dựng niềm tin vào thắng lợi và quyết tâm hành động qua những câu thơ chúc tết hết sức ngắn gọn mà đi vào lòng người. Khi còn ở khu vực Hoa Nam (Trung Quốc), với tên gọi là cụ Trần, Hồ Chí Minh đã từng nhận lời bà con Việt kiều, gọi hồn cho những người tử vong do trúng phải bom của phát xít Nhật. Nhưng qua buổi lễ, Người đã khéo léo và tinh tế giác ngộ bà con kiều bào. Nhờ am hiểu đời sống tinh thần và nghi lễ của nhân dân, Hồ Chí Minh đã sắp xếp buổi lễ chu đáo và chính Người đã đọc bài văn cầu hồn. Nội dung của nó vừa phù hợp với yếu tố tâm linh nhưng vừa có tác dụng thức tỉnh, dẫn dắt mọi người đi theo cách mạng. Do khéo khơi dậy những tình cảm trong lòng quần chúng, buổi cầu hồn đã trở thành một cuộc tuần hành biểu thị quyết tâm chống phát xít Nhật của những người còn sống. Không phải lãnh tụ cách mạng, hay một người mácxít nào cũng làm được điều này như Hồ Chí Minh. Một người trung thành với CNMLN nhưng lại thực hiện thành thục một buổi lễ cầu hồn, một việc tưởng chừng duy tâm nhưng lại duy vật biện chứng. 89 Khác với nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới, nhất là ở phương Tây - thường rất chú trọng đến khía cạnh hùng biện khi tuyên truyền, Hồ Chí Minh không như vậy. Nắm bắt đặc điểm của người dân Việt Nam nên một mặt quan tâm về lý lẽ, mặt khác Hồ Chí Minh rất chú ý tác động đến mặt tình cảm. Người Việt Nam trong cuộc sống, trong ứng xử và hành động thường chú trọng những giá trị cộng đồng, có nhu cầu được quan tâm, thăm hỏi, động viên từ người khác. Do đó, Hồ Chí Minh khi thuyết phục đồng bào rất quan tâm tới sợi dây liên kết tình cảm gia đình, làng xóm, cộng đồng, dân tộc. Cái lý thiết thực, cái tình chân thành, gần gũi là một trong những yếu tố làm nên thành công của Hồ Chí Minh trong quá trình thuyết phục quần chúng. Hồ Chí Minh đề cao CNMLN, nhưng Người không thuyết giáo một cách hàn lâm, trừu tượng. Người biết, trình độ học vấn của nhân dân ta còn hạn chế, nên giải thích những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin một cách rất dung dị, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nhận thức của từng đối tượng. Khiến cho mọi người ra sức thực hành CNMLN mà không tự biết. Bản chất của CNMLN, qua cách nói, cách viết của Hồ Chí Minh đi vào nhận thức con người, vào thực tiễn rất tự nhiên. Những quan điểm, đường lối của Đảng được thể hiện một cách dễ hiểu, dễ nhớ, vì vậy mà dễ làm và khi dân biết làm theo đường lối đó thì cách mạng thành công. Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Người hay dùng các hình thức ca dao, hò vè, thơ, lẩy Kiều và làm cho nó biến hóa, thể hiện được những thông điệp chính trị muốn chuyển tải đến nhân dân. Có thể khẳng định rằng: “Những thành công của nhà cách mạng, nhà lãnh tụ, vị Chủ tịch Đảng và Chủ tịch nước: Hồ Chí Minh, có thể cắt nghĩa bằng nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng hơn cả, cốt yếu hơn cả là Cụ Hồ rất được lòng dân. Còn có thể khẳng định thêm rằng, đối chiếu sử sách cùng tình hình thế giới, trong nước và thời đại này, ông Hồ được lòng dân hơn bất cứ người nào trước ông và ngay cả bây giờ sau khi ông mất. Được lòng dân Việt Nam và còn được lòng dân thế giới. Dân không bác bỏ ở ông một điều gì. Cái gì ở ông cũng được quần chúng chấp nhận, hoan nghênh và tôn vinh. Ông đã liên tục suốt già nửa thế kỷ, đứng đầu một tập thể lãnh đạo, khi bí mật, khi công khai, cả phía chính quyền và phía đoàn thể. Tất nhiên, không tránh khỏi, lúc này hay lúc khác, trong cái tập thể ấy có cá nhân này hay tổ chức kia đã phạm sai lầm, buộc ông phải tự kiểm điểm, nhận lỗi trước quần chúng. Nhưng dù vậy, nhân dân không nhập ông Hồ với những người mà họ trách cứ” [71, tr.101]. Vì vậy, trong lòng nhân dân, Hồ Chí Minh là người lãnh đạo vẹn toàn nhất, mẫu mực và đáng kính nhất, trở thành một biểu tượng hội tụ giá trị văn hóa bền vững. Một người “tiên phong trong việc hướng nhận thức của mình đón lấy những lý tưởng mới nhất và cao 90 đẹp nhất của thời đại và vận dụng nó để vạch đường chỉ lối cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của thời đại. Tiên phong trong ý nghĩa tạo ra một thế hệ quần chúng mới triệt để hành động cách mạng theo lý tưởng của mình” [78, tr.30]. 3.3. NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC VÀ SỬ DỤNG LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG 3.3.1. Thành tín, khoan dung, nhận biết đúng người, xếp người đúng việc, kết hợp dụng với dưỡng Muốn tập hợp, quy tụ, sử dụng được người khác thì người lãnh đạo phải tạo được niềm tin chân thành ở những đối tượng lãnh đạo. Họ phải tạo ra được sự nhất quán giữa nói và làm, biết đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. Hồ Chí Minh không chỉ tạo ấn tượng cho người được tiếp xúc, cho đối tượng lãnh đạo về sự chân thành, mà còn thuyết phục họ bằng những lý lẽ khoa học, bằng sự nhất quán xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Người hiểu rằng: “Bất kỳ việc gì dù nhỏ mà không có tín tâm và quyết tâm thì cũng không làm được. Có tín tâm và quyết tâm thì việc dù to dù nhỏ cũng làm được” [98, tr.4]. Vì vậy, việc tạo dựng niềm tin từ trong nhân dân, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và trong bạn bè quốc tế là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Nhưng Người làm việc đó bằng sự chân thành, không phải giả tạo, không phải là thủ đoạn mị dân như một số người đứng đầu từ trước đến nay vẫn dùng để tranh thủ sự ủng hộ nhất thời của quần chúng để đạt được mục tiêu, lợi ích của cá nhân. Niềm tin mà Hồ Chí Minh tạo ra trong thực tế và được cuộc sống chứng minh là sâu sắc, lâu bền, nó vượt qua giới hạn của không gian và thời gian. Hồ Chí Minh là biểu tượng của sự đảm bảo, của sự tin tưởng, đồng thời là biểu tượng minh chứng cho người lãnh đạo khi đạt được lòng tin ở mọi người. Có được điều đó là do Hồ Chí Minh luôn thương yêu, kính trọng, tin tưởng nhân dân, luôn lấy dân làm gốc, xem dân là gốc, là nền tảng của thắng lợi, là ở tấm lòng đấu tranh cho những giá trị toàn nhân dân loại, cho sự giải phóng loài người. Từ khi là một thanh niên yêu nước, cho đến khi ở trên đỉnh cao của quyền lực, Hồ Chí Minh vẫn luôn xem mình là người đầy tớ phục vụ nhân dân, một người lính vâng mệnh quốc dân ra trận. Người gắn bó với cuộc sống của nhân dân, đồng cam cộng khổ với nhân dân, nhiều khi rất khó phân biệt đâu là vị Chủ tịch nước đâu là người dân bình thường. Hồ Chí Minh luôn hòa nhập vào cuộc sống của người dân một cách rất tự nhiên, từ cử chỉ, hành động, cũng như trong lời nói. Qua đó tạo nên một sự gắn bó thân mật, gần gũi của quần chúng với lãnh đạo của mình nhưng vẫn tràn đầy sự kính trọng. Hồ Chí Minh hòa mình vào quần chúng, khám phá ra sức mạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn của nhân dân, để từ đó biết tập hợp, phát huy sức mạnh của mọi người. Nhân dân tìm thấy ở Người điểm tựa, niềm tin, động lực, hi vọng vươn tới tương lai. Do đó, họ hướng về Người. Trừ 91 những kẻ đi ngược lại với quyền lợi dân tộc, tuyệt đại đa số nhân dân đều tin vào lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh và Người trở thành một biểu tượng cao đẹp của nền chính trị mới. Thành tín mà Hồ Chí Minh có là kết quả của một quá trình không ngừng lo lắng cho dân, vì dân. Là giá trị được sinh thành từ sự tranh đấu của lãnh tụ để cho mỗi người được sống trong độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, nhưng luôn đặt thân mình ra sau nhân dân. Hồ Chí Minh xem ý dân là ý trời, “dân muốn gì ta phải làm nấy”, “Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta” [95, tr. 337-338]. Với Hồ Chí Minh, những thiếu sót vụng về, những việc làm chưa chuẩn của nhân dân luôn được thông cảm và thấu hiểu. Nhưng Người không quên, mà trái lại, luôn nghĩ đến trách nhiệm của mình, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa làm hết, làm tròn phận sự phục vụ nhân dân, để vừa học dân, vừa giúp dân hiểu được cái tốt, cái xấu, cái chính, cái tà, cái đúng, cái sai. Những gì mọi người chưa hiểu, Hồ Chí Minh kiên trì, khéo léo giải thích, biết chọn lựa cách thức, địa điểm, thời giờ để thuyết phục với một thái độ phấn khởi, cầu thị, nhẫn nại, không nóng vội, không miệt thị, chê trách quần chúng. Ngay trước khi về với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh vẫn lo lắng, nghĩ đến điều có lợi cho dân: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghe_thuat_lanh_dao_ho_chi_minh_noi_dung_va_gia_tri.pdf
  • pdfScan Đào Đình Tuấn.pdf
  • pdfThông tin LA Đào Đình Tuấn.pdf
  • pdfTóm tắt LA Tiếng Anh Đào Đình Tuấn.pdf
  • pdfTóm tắt LA Tiếng Việt Đào Đình Tuấn.pdf
Tài liệu liên quan