MỞ ĐẦU.1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN, CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU.8
1.1.Tổng quan tình hình nghiên cứu .8
1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài . 18
1.3. Khái quát về Tuyên Quang, về Nà Hang và người Tày ở Nà Hang. 29
Chương 2: NGHI LỄ SINH ĐẺ VÀ NUÔI DẠY CON. 40
2.1. Quan niệm của người Tày về con cái. 40
2.2. Cơ sở tín ngưỡng của nghi lễ sinh đẻ. 48
2.3. Chăm sóc và nuôi dạy trẻ . 62
Chương 3: NGHI LỄ HÔN NHÂN CỦA NGưỜI TÀY. 68
3.1. Quan niệm của người Tày về hôn nhân. 68
3.2. Nguyên tắc kết hôn của người Tày . 76
3.3. Phong tục và các nghi lễ hôn nhân của người Tày . 78
Chương 4: NGHI LỄ TANG MA CỦA NGưỜI TÀY . 95
4.1. Quan niệm về sự sống, cái chết và linh hồn . 95
4.2. Quan niệm hồn vía con người. 98
4.3. Các loại tang ma. 99
4.4. Trình tự nghi lễ tang ma của người Tày. 101
4.5. Lễ chôn cất người chết. . 111
4.6. Các nghi lễ sau khi chôn cất người chết. 114
Chương 5: BIẾN ĐỔI CỦA NGHI LỄ CHU KỲ ĐỜI NGưỜI VÀ MỘT SỐ
NHẬN XÉT. 125
5.1. Những biến đổi của nghi lễ chu kỳ đời người của người Tày. 125
5.2. Những mặt tích cực và hạn chế của nghi lễ trong sinh đẻ và nuôi dạy con. 135
5.3. Những mặt tích cực và hạn chế của hôn nhân và nghi lễ trong hôn nhân. 139
5.4. Những mặt tích cực và hạn chế của nghi lễ trong tang ma . 140
5.5. Một vài kiến nghị . 141
5.6. Một số giải pháp. 143
KẾT LUẬN. 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 152
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
205 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 577 | Lượt tải: 1
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người Tày huyện Nà Hang tỉnh Tuyên Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ tục trong nghi lễ hôn nhân của 
người Tày được thực hiện theo một khuân mẫu nhất định với các quy định cụ thể 
mà mọi người phải tuân thủ khi thực hiện. Các nghi lễ này được thầy cúng thực hiện 
tại gia chủ trong nhiều giờ. Do vậy, thờ cúng tổ tiên thể hiện trong nghi lễ hôn nhân 
chính là bản sắc riêng trong văn hóa của người Tày. 
3.3.1. Các nghi lễ hôn nhân của người Tày 
 Đối với người Tày ở Nà Hang thì hôn nhân là một việc được xem là hệ trọng 
của đời người. Do vậy, người Tày vô cùng chú trọng tới các nghi lễ hôn nhân. Nghi 
lễ hôn nhân cảu người Tày gồm có: (1) Nghi lễ ở nhà gái trước khi cưới: dạm hỏi, 
xin số, ăn hỏi; (2) Nghi lễ trong đám cưới: trình lễ dẫn cưới ở nhà gái; xin dâu, rước 
dâu, cúng trình gia tiên và lễ nhập cô dâu về nhà chồng; (3) Nghi lễ sau đám cưới 
như: nghi lễ lại mặt,... Các nghi lễ này rất được người Tày coi trọng và thực hiện rất 
nghiêm túc. 
3.3.2.1. Nghi lễ ở nhà gái trước khi cưới 
- Nghi lễ dạm ngõ, xem mặt, xin số 
 Theo phong tục truyền thống, người Tày có tục lệ dạm ngõ, xem mặt, xin số. 
Tục lệ này cũng là tục lệ chung của người Tày ở Tuyên Quang. Việc đi dạm ngõ, 
xem mặt, xin số là một việc làm bình thường của hai gia đình có quan hệ quen biết 
nhau từ trước. Việc gả con là việc của hai gia đình tự thỏa thuận và đồng ý ngầm 
79 
với nhau. Việc đi hỏi vợ cho con là việc chủ động của gia đình có con trai. 
Trong văn hóa của người Tày dạm ngõ, xem mặt và xin lá số thường được tiến 
hành vào buổi tối bởi đồng bào cho rằng, lúc chưa biết ý kiến của cô gái và gia đình 
nhà cô gái như thế nào nên lễ dạm ngõ thông thường người ta sẽ tổ chức đi vào buổi 
tối để làng xóm không biết, tránh việc bị mang tiếng cho cả cô gái và chàng trai sau 
này bởi số mệnh có vai trò quyết định khá lớn. Và phong tục nghi lễ này không có 
thời gian cố định mà có thể thực hiện quanh năm bất cứ thời gian nào khi gia đình 
muốn, chỉ tránh vào những ngày xấu trong năm 
Thực hiện lễ dạm ngõ, thông thường nhà trai mời người làm mối mang lễ vật 
sang nhà gái ướm hỏi, người này được các gia đình lựa chọn thường là người lớn 
tuổi trong cộng đồng, có tài ăn nói, hiểu biết và gia đình toàn vẹn, con cái đầy đủ và 
làm ăn tốt, tuy nhiên người ta thường ưu tiên những người trong dòng họ trước, 
thường là bác hoặc cậu của chàng trai. Đây chỉ là buổi lễ ướm hỏi nên lễ vật mà ông 
mối mang sang nhà gái khá đơn giản gồm một chai rượu và ít bánh giầy, ý nghĩa 
của các lễ vật đó biểu tượng cho tình yêu đôi lứa gắn bó keo sơn, hạnh phúc 
Do hai bên nhà trai và nhà gái đã biết trước do trai gái tự tìm hiểu nên sau 
phần chào hỏi, ông mối nhà trai trình bày lý do và xin ý kiến của bố mẹ cô gái, nếu 
gia đình bố mẹ cô gái ưng thuận sẽ đặt lễ lên vật của nhà trai mang sang lên bàn thờ 
tổ tiên gia đình và hẹn ông mối khoảng 3 ngày sau. Nếu nhà gái không đồng ý thì 
gia đình nhà gái sẽ có những câu nói và câu trả lời khước từ rất khéo léo để nhà trai 
không mất lòng. Trong phong tục, tập quán dù đã ưng thuận nhưng theo văn hóa 
tộc người nhà gái chưa trả lời ngay mà ghi nhận những lời nói ấy để hỏi ý kiến của 
con cháu và họ hàng anh em nội ngoại của gia đình mình. Sau lễ dạm ngõ 3 ngày 
người đại diện gia đình nhà trai sẽ quay lại nhà gái nói chuyện để nhận được câu trả 
lời của gia đình cô gái, nếu hai bên đã nhất trí người mối sẽ về báo lại cho gia đình 
nhà trai biết để chọn ngày sang nhà cô gái xin lấy lá số. 
Để có những quyết định chính thức với nhà trai, theo phong tục truyền thống 
nhà gái đưa lễ vật lên bàn thờ tổ tiên, thắp hương. Thường bố cô gái là người thực 
hiện công việc này, ông ta đặt chai rượu và ít bánh, thắp hương và khấn với tổ tiên 
rằng có người đến xin dạm cưới con gái mình, xin được báo với tổ tiên. Nếu trong 
thời gian nếu không có dấu hiệu bất thường nào xảy ra thì gia đình nhà gái sẽ đồng 
80 
ý, nếu như trong gia đình có xảy ra việc đổ vỡ, cháy, hay những tiếng động bất 
thường trong làng như hổ gầm, hoẵng kêu thì họ sẽ không nhận lời để hẹn nhà trai 
đến xin lá số bởi họ cho rằng đó là dấu hiệu báo cho một cuộc hôn nhân không tốt. 
Nhà trai ủy nhiệm cho một người thân trong họ là nam giới đứng tuổi, lanh lợi, 
hoạt bát, hiểu biết khá rõ hoàn cảnh gia đình nhà trai, thay mặt nhà trai (gọi là ông 
mối) sang nhà gái để đàm luận về hôn thú của đôi trẻ. Ông mối có thể là bác ruột 
hoặc cậu ruột của chú rể. 
Sau khi được nhà gái chấp nhận, gia đình nhà trai sắp xếp thời gian đến nhà 
gái nói chuyện và thực hiện các thủ tục tiếp theo của hôn nhân. Khi đã định được 
ngày, giờ tốt nhà trai tiến hành lễ dạm ngõ, xem mặt. Đi theo ông mối có hai cô 
gái trẻ gánh lễ vật. Lễ vật mang theo đến lễ dạm ngõ của người Tày Nà Hang chỉ 
là 1 lít rượu và túi quà nhỏ. Lễ dạm ngõ của người Tày ở một số nơi là 2 đôi gà 
thiến, 4 ống gạo, 2 chai rượu và 2 cân muối. Có nơi là đôi gà, 2 chai rượu, một ít 
bánh giầy hoặc xôi đỗ xanh đủ để sặp 2 mâm cơm [69]. Như vậy, lễ vật trong lễ 
dạm ngõ của người Tày có khác nhau ở các địa phương. 
 Thành phần tham dự buổi lễ dạm ngõ bên nhà gái gồm có: ông bà nội, ông bà 
ngoại, cha, mẹ, chú, bác, cô, dì của cô gái. 
Mục đích của lễ dạm ngõ là nhà trai chính thức ngỏ lời với nhà gái về việc 
chính thức cho đôi trẻ nên vợ, nên chồng, hai nhà kết thành thông gia. Đồng thời, lễ 
dạm ngõ nhà trai cũng xin lá số tử vi của cô gái (cô dâu tương lai) đem về. Lá số tử 
vi của cô gái ghi rõ họ và tên, ngày tháng năm sinh, giờ sinh. Ở một số nơi người ta 
quy định, chính cô gái phải là người trực tiếp ghi ngày tháng năm sinh để trao cho 
nhà trai và Chàng trai cũng phải tự viết tên tuổi, ngày tháng, năm sinh và giờ sinh 
của mình vào một tờ giấy đỏ để mang ý nghĩa tâm linh rất linh thiêng đưa cho cha 
mẹ mình bởi họ cho rằng có như vậy thì việc so lá số mới hiệu nghiệm và tốt đẹp. 
Do khoảng cách từ lễ dạm ngõ tới đám cưới chính thức là 3 năm, vì vậy mỗi năm 
nhà trai phải thực hiện lễ siêu tết đối với gia đình nhà gái: Lễ tết nguyên đán (lệ 
chiêng), 12 cặp bánh trưng; Lễ rằm tháng bảy (lệ bươn chiết), 12 cặp bánh gai; Lệ 
cốm (lệ khẩu mẩu), là cốm làm từ lúa non. Đi kèm những lễ vật siêu tết đó là 10 con 
gà trống thiến, 10 lít rượu. Do nhà trai tự đưa sang không cần có đại diện của dòng 
họ. Theo tập quán của người Tày, sau khoảng thời gian nhằm tiến tới đám cưới chính 
81 
thức. Nhà trai chủ động tổ chức buổi lễ đối chiếu về tuổi của đôi trai gái. Họ gọi là lễ 
“lấy biên”. Lễ vật để tiến hành lễ “lấy biên” gồm: 2 con gà trống thiến, 2 lít rượu, 2kg 
gạo. Trong buổi lễ “lấy biên” này có sự tham gia của đại diện nhà trai, nhà gái, thầy 
cúng phải là người biết chữ Nho, hiểu biết sách tử vi để xem tuổi cho đôi trai, gái có 
hợp tuổi nhau hay không để tiến tới hôn nhân hay cắt đứt quan hệ. Nghi lễ này hiện nay 
vẫn còn được thực hiện ở nhiều gia đình người Tày ở Nà Hang. 
3.4.2. Lễ ăn hỏi, thách cưới của người Tày 
Theo tập quán của người Tày, sau khi đối chiếu ngày, tháng, năm sinh thấy 
hợp nhau và xây dựng quan hệ vợ chồng của hai đứa trẻ. Nhà trai chủ động sang 
nhà gái để tiến hành lễ ăn hỏi và chính thức thiết lập quan hệ thông gia (lệ thó mầu). 
Lễ ăn hỏi của người Tày ở Nà Hang thường chỉ có một người đại diện, cũng có 
nhiều trường hợp lễ ăn hỏi tổ chức đi nhiều người gồm các thành phần như: cùng 
vai với bố mẹ, anh chị, em, cháu, bạn bè. 
Lễ vật tối thiểu để tiến hành lễ ăn hỏi gồm có 2 con gà trống thiến, 2 lít rượu, 
2kg gạo tẻ, trầu cau, chè thuốc lá, thuốc lào, bánh kẹo. 
Sau lễ ăn hỏi, gia đình nhà trai và nhà gái tiến hành lễ thách cưới. Nhà gái đưa 
ra ý kiến lấy bao nhiêu đồ vật như lợn, gà, bánh trưng, bánh dày, rượu, gạo tẻ để 
tiến hành làm lễ cưới. 
Lễ thách cưới này do nhà trai đề xuất và chủ trì tại nhà gái. Các thỏa thuận giữa 2 
bên nhà trai, nhà gái sẽ được ghi chép lại theo quy ước, có sự đồng ý của hai bên gia 
đình một cách công khai. Tập tục này cũng là chung cho người Tày ở Tuyên Quang. 
3.4.3. Tổ chức lễ cưới 
Người Tày thường tổ chức lễ cưới từ tháng 8 đến hết tháng Chạp (âm lịch) vì 
họ cho rằng, đây là thời điểm khí hậu mát mẻ, không oi bức đồng thời công việc 
rảnh rỗi vì mùa màng đã thu hoạch xong mà ít khi tổ chức từ tháng 3 đến tháng 7. 
Đồng bào có câu: Bươn slam lồng chả gả quằn lùa/ Bươn cảu khấu khấu rườn rắp 
lùa nghĩa là: “Tháng Ba gieo mạ đi hỏi vợ/ Tháng Chín thu hoạch cưới vợ về”. Họ 
cho rằng, nếu tổ chức lễ cưới vào tháng 3, tháng 4 thì đôi trai gái sẽ khó thành vợ 
chồng: Bươn slam bươn sli mí pần slam pần sli (không thành 3 cũng chẳng thành 
4). Hơn nữa, vào những tháng mùa hè, đồng bào còn phải bận rộn với công việc 
đồng áng, mặt khác, đây cũng là thời điểm họ chuẩn bị về kinh tế để cuối năm có 
82 
thể tổ chức đám cưới cho con cái. Đồng bào còn cho biết, đây cũng là khoảng thời 
gian mà họ tìm được nhiều ngày lành tháng tốt hơn. Họ cho rằng, trong những 
tháng này, người làm cỗ không vất vả, người đến ăn cỗ cưới cũng cảm thấy ngon 
miệng và thức ăn tồn đọng từ ngày hôm trước sẽ không bị ôi thiu. Với những gia 
đình nghèo, sẽ không có khả năng mua đồ ăn mới cho bữa cỗ ngày hôm sau. 
Trước khi tiến hành lễ cưới, nhà trai phải chuẩn bị đầy đủ lễ vật trong thời 
gian từ 2 - 3 năm, có những hộ khá thì chỉ chuẩn bị trong năm. Khi đã có đầy đủ lễ, 
nhà trai sẽ báo trước cho nhà gái khoảng từ 15 ngày đến 1 tháng để chuẩn bị cho 
đám cưới. Trong thời gian này, nhà trai sẽ phải nộp đầy đủ sính lễ như đã thỏa 
thuận từ trước cho nhà gái. 
Các nghi lễ trước đám cưới được tổ chức sau lễ ăn hỏi của người Tày ở Nà 
Hang gồm có: Lễ nhận thông gia, chú rể ra mắt họ hàng, những lễ vật và số lượng 
phải có trong ngày cưới (gọi là bản kê khai). 
Việc chuẩn bị cho đám cưới của người Tày ở Nà Hang được chuẩn bị chu đáo 
với sự góp sức của nhiều người trong gia đình, họ hàng. Bởi vì người Tày coi đây 
là ngày lễ trọng đại của cuộc đời và chính trong ngày lễ này đã thể hiện tính cộng 
đồng cao của người Tày. Trước khi đám cưới diễn ra, gia chủ đã lên danh sách 
những vị khách thân thiết cần mời từ trước để gia đình đi mời cho kịp. Họ có tục 
không mời khách quá cận ngày cưới, tức là phải mời trước từ 8 đến 10 ngày trở lên. 
Họ cho rằng, nếu mời quá gần ngày cưới có nghĩa là từ trước gia đình không có ý 
định mời, sau này mời thêm là không có ý tôn trọng khách nên người đó sẽ có thể 
không đến tham dự đám cưới. Chỉ trong trường hợp đặc biệt cưới gấp như khi cô 
gái đã có thai hoặc thời gian tổ chức cưới quá ngắn thì khi đi mời cưới, bố mẹ hai 
bên cũng phải giải thích để khách hiểu và thông cảm cho. Lễ cưới của người Tày 
thường được tiến hành từ 2-3 ngày, trong đó nhà gái tổ chức hôm trước còn nhà trai 
tổ chức hôm sau. 
Trong ngày dựng rạp, gia chủ chủ yếu lo chuẩn bị vật chất cho ngày cưới 
chính thức như rạp, bàn ghế, thực phẩm, chế biến cỗ,... Người Tày ở Nà Hang cũng 
dựng rạp bằng tre, phần mái rạp được làm bằng những tấm cót. Bàn ghế và đồ dùng 
trong nấu nướng phải mượn của các gia đình trong hàng xóm. Bởi vậy, ngày dựng 
rạp phải huy động một lượng người khá lớn trong dòng họ tham gia. Sau khi dựng 
83 
rạp xong, chiều tối hôm đó là bữa ăn uống của những người trong họ hàng thân 
thiết và người phục vụ. Bữa cỗ dựng rạp thường đơn giản, món ăn chỉ có thịt lợn và 
rau canh. Buổi tối hôm đó, họ hàng, dân làng và bạn bè đến chơi rất đông. 
Đối với nhà trai, trước ngày tổ chức đám cưới phải chuẩn bị các lễ vật theo 
bản kê khai của nhà gái đưa sang cho cho nhà gái tại phần lễ xin cưới và lễ kê khai 
và có một đại diện đưa sang trước một ngày để nhà gái chế biến thức ăn, làm cúng 
tổ tiên (do phó trưởng đoàn - Quan làng tiếp sang bàn giao lễ vật). Trong các lễ trên 
có một khoản tiền bắt buộc gọi là tiền Huô (tiền mua sắm cho con gái mang sang 
nhà chồng và làm quà cho anh em bên chồng). 
Trong ngày cưới, ngôi nhà sàn của người Tày được bố trí các vị trí ngồi theo 
thứ tự, cấp bậc: Đối diện với bàn thờ tổ tiên là đại diện của các bậc gốc họ, các chi 
trong dòng họ và người chủ hôn. Đây là vị trí trung tâm diễn ra các nghi thức của 
đám cưới khi chú rể đến đón dâu hoặc khi đoàn nhà gái đến nhà trai. Từ vị trí chỗ 
ngồi của đại diện gốc họ ra đến cửa ra vào là đoàn đại diện nhà trai hoặc nhà gái và 
cô dâu cùng các phù dâu khi làm lễ trình họ, nhận họ và tiền mừng. Khu vực phía 
trên dọc theo dãy cửa sổ mặt chính là chiếu ngồi của các bậc chức sắc và người có 
tuổi, người đại diện các mối quan hệ thân gia, bạn bè là nam giới. Dọc dãy khu dưới 
(nơi để chạn bát nấu ăn thường ngày cho đến gian buồng ngủ của phụ nữ, giáp 
buồng cô dâu) là chiếu ngồi của phụ nữ và trẻ nhỏ. Khu vực giữa nhà, quanh bếp 
sinh hoạt là chỗ ngồi của các nam thanh niên, những người đến giúp việc... giáp cửa 
buồng cô dâu là chỗ ngồi của chú rể và phù rể. Trong buồng cô dâu được trang trí 
các hình hoa lá bằng các hình vẽ, cắt, dán và cửa buồng nẹp vải hoa, dải tua rua. 
Đây là chiếu ngồi qua đêm của cô dâu, phù dâu và đại diện nhà gái sau khi thực 
hiện xong các nghi lễ trình họ. 
Vào sáng sớm ngày cưới, nhà trai thường mời anh em, họ hàng đến làm cơm 
và chuẩn bị lễ vật mang đến nhà gái. Thời gian đi đón dâu phụ thuộc vào giờ dâu 
vào cửa nhà trai để nhà trai ấn định thời gian đi đón dâu về. Giờ đi đón dâu trong 
ngày cưới phụ thuộc vào kết quả xem của thầy cúng dựa trên việc xem số, tuổi của 
cô dâu để đi đón vào giờ thích hợp nhưng thông thường là vào 8h sáng, 10h sáng, 
1h chiều (giờ Mùi) và 4h chiều (giờ Thân). Người Tày quan niệm rằng, nếu hôm 
cưới, sáng sớm có mưa phùn, buổi chiều hửng nắng thì sau này đôi trai gái sẽ làm 
84 
ăn thuận buồm xuôi gió. Nếu vào ngày đó có sấm sét, việc làm ăn ắt sẽ gặp khó 
khăn, những điều rủi ro có thể xảy ra đối với đôi trai gái. 
Vào sáng ngày đón dâu, cỗ bàn được bày biện để đón khách đến dự cưới, lúc này 
bà con hàng xóm thường có mặt rất đông đủ. Những người thân trong họ hoặc bạn bè 
kết nghĩa thường đến giúp gia đình làm cỗ. Thanh niên trong làng được mời đến để 
giúp gia đình lấy củi, nấu nướng, đây cũng là dịp để họ hàng làng mạc và thanh niên 
nam nữ trong bản gặp gỡ nhau. Với nhà gái, vào sáng sớm, gia đình cũng chuẩn bị 
làm cơm để đón rể và phải chuẩn bị đầy đủ chăn màn mới để về nhà chồng. 
Đoàn đón dâu nhà trai theo quy định của người Tày thường gồm có: Chú rể, 
1 phù rể, 1 thầy tào, 2 người bác của chú rể, 2 quan làng, 1 cô gái chưa lấy chồng 
và một số người đi để gánh những đồ đạc của cô dâu về nhà chồng. Trong đoàn đi 
đón dâu, quy định bắt buộc phải mặc theo nghi thức trang phục truyền thống của 
người riêng thầy cúng có trang phục riêng. Gia đình nhà trai chọn người đi gánh đồ 
bên nhà gái và đoàn đi đón dâu phải là chàng trai hay cô gái trẻ chưa có vợ, chưa có 
chồng và những người đã có gia đình đầy đủ vợ chồng, có con trai con gái và gia 
đình hạnh phúc. 
Đến giờ chuẩn bị đi đón dâu, gia đình nhà trai thắp hương báo cáo tổ tiên xin 
phép lên đường đi đón cô dâu và mong tổ tiên phù hộ. Phương tiện đi đón dâu có 
thể xe đạp, xe máy hoặc đi bộ, tùy theo điều kiện từng gia đình và khoảng cách xa 
gần khác nhau. Đoàn đón dâu nhà trai đến nhà gái tập trung trước cửa nhà cô dâu 
đợi thầy tào cúng làm lễ xin phép chú rể mới được vào làm các thủ tục đón cô dâu. 
Trong đám cưới của người Tày có nét văn hóa khá đặc sắc đó là hai bên nhà 
trai và nhà gái phải hát đối đáp nhau trong các bước thực hành nghi lễ. Nghi lễ này 
vẫn còn được thực hiện ở Nà Hang. Nhà trai khi đến nhà gái phải hát để xưng danh, 
chào hỏi theo tục căng dây chặn đường. Theo phong tục của người Tày, khi đoàn 
đón dâu của nhà trai đến cổng nhà gái, nhà gái cho chăng dây hoặc đóng cổng nhà lại 
và cho người giả vờ gặng hỏi, chất vấn bằng những câu hát, nhà trai phải cử người hát 
trong khoảng 20 phút, nếu nhà gái thấy hợp tình hợp lý thì sẽ mở cổng để cho đoàn đón 
dâu của nhà trai vào nhà. 
Có thể nói, trong đám cưới người Tày, mọi người thường giao tiếp thông qua 
hát quan làng (hát đối). 
85 
“Tôi ở bản nhỏ đi đến đây 
Nghe tin bản lớn có giống tốt 
Tôi đến nhà xin được mang về 
Để nhà tôi sinh sôi giống nòi...” 
 Những câu hát đối, hát giao duyên này trở thành một hình thức sinh hoạt văn 
hóa văn nghệ, vừa là để chúc mừng cô dâu chú rể, vừa là cơ hội để người già, trẻ 
nhỏ tâm tình, kể chuyện, nam nữ thanh niên có cơ hội tìm hiểu, giao lưu và kết nối 
thâm tình. 
Tục giữ cửa: Trên chân cầu thang nhà sàn của nhà gái được đặt bốn chén rượu 
và một số vật dụng làm chướng ngại vật nhà trai phải hát để xin nhà gái mở đỡ bỏ 
từng chặng đường mới có thể bước vào nhà. 
Nhà trai vào đến nhà nếu nhà gái chưa trải chiếu hoặc trải chiếu chưa ngay ngắn 
thì nhà trai phải hát xin trải chiếu trên sàn nhà gọi là tục xin trải chiếu. 
Khi nhà trai đã ngồi trên chiếu, nhà gái hát mời nước, mời trầu. Lễ trình tổ và 
nộp gánh: Gánh lễ vật của nhà trai (lễ vật của nhà trai bao gồm: Trầu cau, thịt lợn, 
gạo nếp, mười hai chiếc bánh chưng, mười hai chiếc bánh dày, rượu, chè, một đôi 
gà trống thiến) được chú rể dâng lên bàn thờ tổ tiên nhà gái. Những người trong gia 
đình cô dâu đứng chứng kiến, nhà trai hát bài trình tổ và nộp gánh. Nội dung bài hát 
ca ngợi tổ tiên, công đức của cha mẹ đã sinh thành cô dâu, nhà trai xin có lễ vật 
dâng cúng tồ tiên và tỏ lòng biết ơn cha mẹ cô đâu. Nhà gái trịnh trọng hát bài nhận 
gánh và xếp lễ vật lên bàn thờ tổ tiên. 
Gia đình nhà gái phải chuẩn bị sắp xếp toàn bộ đồ đạc của cô dâu mang về 
nhà chồng ra trước bàn thờ gia tiên để thầy tào làm lễ. Thông thường đồ đạc gồm: 
2 chiếc màn, 2 chiếc chăn vải chàm, 1 đôi chiếu, 1 đôi gối, 1 chiếc đệm, 1 chiếc 
nón (để cô dâu cầm ở tay khi về nhà chồng) và một số của hồi môn khác cùng 
nhiều đồ dùng cá nhân khác của cô dâu. Một số nơi lễ vật mà cô dâu mang về nhà 
chồng gồm có 1 chậu thau, chăn màn, hòm gỗ, 1 cái cuốc, 1 con đao, liềm, 10 cái 
bát, 10 đôi đũa, 1 mâm, 1 nồi, 1 siêu, 1 đôi gối cho bố mẹ chồng. 
Trước giờ nhà trai đến, gia đình nhà gái phải làm nhiệm vụ chuẩn bị tất cả 
những gì cần trong nghi lễ đón dâu. Các bà, cô, dì họ hàng giúp sắp xếp đồ đạc cho 
cô dâu. 
86 
Trong đoàn đại biểu nhà trai đi đón dâu thì Quan lang có vai trò rất quan 
trọng. Đó là người đại diện cao nhất của họ nhà trai, có thẩm quyền giải quyết tất 
cả mọi việc liên quan tới vấn đề nghi lễ của họ nhà gái. Cho nên, một người muốn 
làm quan lang phải có một số tiêu chuẩn chính như biết làm thơ, hát đối đáp, nhất 
thiết đã có vợ, có đông con càng tốt, là người uy tín, có đạo đức và ăn nói lịch 
thiệp. Họ cho rằng, ngày cưới là ngày vui nhất trong đời người cho nên cần phải có 
lời ca, tiếng hát. Đám cưới dù có ồn ào đến đâu, hễ tiếng hát cất lên thì tất cả mọi 
người đều chăm chú và say sưa lắng nghe. Những câu hát trong đám cưới thực sự 
là một nhu cầu về văn hóa văn nghệ của người Tày. Nó như một cuộc hát đối đáp 
giữa nam và nữ, người đáp phải cố gắng trả lời khớp ý với câu của đối phương đưa 
ra. Giữ phần chủ động trong cuộc hát đối đáp này thường là bên nhà gái. Trước giờ 
đi đón dâu như đã chọn, nhà trai thường làm lễ cúng tổ tiên. Trên đường đi đón 
dâu, nếu đi qua cầu thì phải thả tiền lẻ xuống cầu để cho hồn nhân sẽ được thuận 
lợi và may mắn. Họ kiêng đi qua các cổng đền chùa, miếu, những nơi thờ tự hoặc 
phải đi vòng phía sau hoặc đi phía xa hơn. 
Đến nhà gái, đến giờ đón dâu thầy Tào xin phép gia tiên nhà gái, cho chú rể 
vào làm lễ đón dâu. Thầy tào mời cô dâu và chú rể đến trước bàn thờ gia tiên nhà 
gái để làm lễ, đứng phía sau là phù rể, bố nuôi của cô dâu và đoàn đón dâu làm lễ. 
Mặc dù việc xem tuổi, so tuổi đã được thưc hiện trước đó nhưng theo thủ tục, lúc 
này thầy tào vẫn phải đọc ngày tháng năm sinh của cô dâu để báo cáo, làm lễ xin tổ 
tiên, với mục đích báo cáo tổ tiên hồn mệnh của cô dâu sẽ chính thức theo về nhà 
chồng từ ngày hôm nay. Theo tục lệ truyền thống, người Tày ở Nà Hang khi người 
con gái đi lấy chồng thì không chịu sự chi phối trực tiếp của dòng họ mình nữa, vì 
thế gia đình phải làm lễ xuất gia, tách ma cho con gái trước khi về nhà chồng. Tùy 
từng nơi, lễ này được gọi bằng các từ khác nhau như "cooc tu" (xuất gia), nạc vạ 
(tách họ), "phúng trưởng" (đóng ô), "thót phi" (tách ma)... Giờ ra cửa đã được đoàn 
đón dâu thông báo trước cho ông bà đưa của nhà gái. Mặc dầu vậy, sự chuẩn bị của 
các cô gái Tày trước khi về làm dâu vẫn rất chậm chạp. Họ có câu: "thẳm thanh 
bặng lùa lồng lảng" (sửa soạn như dâu về nhà chồng). 
Chú rể, cô dâu cùng người đại diện đón dâu của nhà trai và nhà gái cùng 
chắp tay vái làm lễ mong chúc phúc cho đôi vợ chồng trẻ gặp nhiều may mắn. Nghi 
87 
lễ vái lạy thần linh của thầy Tào cùng gia đình nhà trai, nhà gái vái 3 lần, mỗi lần 3 
vái, tổng cộng 9 vái. Một nghi lễ quan trọng nữa trong lễ xin dâu là của thầy Tào 
cúng tổ tiên, chú rể dâng tặng cha mẹ tấm vải để trả công sinh thành dưỡng dục của 
cha mẹ nuôi vợ của mình. 
Nhà trai hát bài dâng tấm vải ướt khô, chú rể đứng trước bàn thờ trịnh trọng 
làm lễ dâng tấm vải ướt khô lên mẹ cô dâu. Quan làng của nhà trai cất tiếng hát bài 
dâng tấm vải ướt khô. Tấm vải ướt khô được dệt bằng sợi bông, rộng 20cm, dài 15- 
20m. Một nửa được nhuộm màu hồng tượng trưng cho nửa ướt, một nửa để vải 
trắng tượng trưng cho nửa khô với ý nghĩa người mẹ đã mang nặng đẻ đau, chăm 
sóc nuôi dưỡng con chỗ ướt mẹ nằm, chỗ khô mẹ dành cho con, dâng tấm vải ướt 
khô thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với công lao sinh thành và giáo dưỡng 
của người mẹ. Cuối cùng cô dâu chú rể đứng trước bàn thờ làm lễ bái tổ. Chú rể lạy 
bố mẹ vợ và nhà trai xin đón dâu. 
Một trong những nét khá đặc sắc trong đám cưới của người Tày đó là nghi lễ 
cúng vải xô và vải đỏ. Tấm vải này con rể tặng mẹ vợ, nhưng không phải để mẹ 
dùng ngay. Nó được đặt trên bàn thờ hoặc cất giữ cho đến ngày mẹ của cô dâu 
không còn nữa và khi mất người ta sẽ chôn mảnh vải này theo thi hài của mẹ vợ. 
Nghi lễ này thể hiện tính nhân văn cao, nó vừa thể hiện lòng biết ơn của con rể, vừa 
là sự tôn kính công nuôi dưỡng sinh thành của người phụ nữ Tày. 
Trong nghi lễ xin dâu truyền thống, cô dâu sẽ có một đôi giầy mới đưa lên 
làm lễ cùng chiếc ô màu đen, có buộc 1 chiếc khăn bông màu hồng ở cán ô. Thầy 
Tào phải làm lễ xong, cô dâu mới được đi giầy vào chân Với ý nghĩa trong quá 
trình đi trên đường về nhà chú rể, không ai, không có ma tà nào làm phiền và bắt 
cô dâu đi được và vì thế không phải ngẫu nhiên khi chết bao giờ người Tày cũng 
phải thực hiện nghi thức đi giầy vải tự khâu cho người chết trước khi khâm liệm 
bởi học quan niệm có vậy thì tổ tiên mới nhận ra mình. Tất cả đồ nghề của hồi 
môn của cô dâu mang về nhà chồng đều được đưa lên để thầy Tào làm lễ xin, vì 
quan niệm của người Tày, làm như thế, hồn cô dâu mới theo về nhà chồng. Sau khi 
thầy Tào làm lễ xin tất cả những đồ đạc và của hồi môn mà cô dâu mang theo về 
nhà chồng xong, nếu bố mẹ và gia đình cô dâu có đồ tặng kỷ niệm mọi người thay 
nhau tặng. Khi các nghi thức xin dâu đã hoàn tất, đoàn mang đồ của hồi môn của 
88 
cô dâu sẽ tập trung khuân vác đi trước 
Quá trình đón dâu của người Tày ở Nà Hang, phải trải qua nhiều thủ tục và 
mỗi thủ tục đó đều phản ánh sắc thái văn hóa của người Tày. Đoàn đón dâu phải trải 
qua rất nhiều “cửa” (tiếng Tày gọi là Tu) và mỗi cửa đó, ông đón phải xử lý khéo 
léo để nhà trai không bị mang tiếng. Tìm hiểu những người đã từng nhiều lần làm 
ông đón trong đám cưới thì được biết, nếu thực hiện đúng theo tập quán truyền 
thống, đoàn nhà trai phải vượt qua 36 cửa mới có thể đón được cô dâu về. Cửa nào 
mà không vượt qua được tức không hát đối đáp, xử lý được thì họ nhà trai sẽ bị phạt 
uống rượu và hơn nữa là bị chê cười. Đoàn đón dâu bắt buộc phải vượt qua một số 
trò chơi phiền toái, kể từ lúc bắt đầu tới cổng làng cho đến khi tiến hành các nghi lễ 
ở nhà gái. Để làm được những việc đó, đòi hỏi ông đón (ông quan lang) phải có tài 
ứng đáp khôn khéo bằng thơ hay còn gọi là Hát quan lang. Phong tục này đã có từ 
lâu đời trong xã hội người Tày, nhất là những năm trước Cách mạng tháng Tám 
năm 1945 và những năm hòa bình lập lại cho đến những năm 60-70 của thế kỷ XX. 
Qua lời hát đó đã thể hiện sự vui mừng, phấn khởi của hai họ trong ngày vui của cô 
dâu, chú rể. 
Một quy định trong lễ đón dâu của người Tày, khi đi qua cầu thang bước 
xuống nhà, cô gái xin dâu của nhà trai có một chiếc khăn dệt màu trắng vắt ngang 
qua cầu thang để cô dâu đi sau sẽ nhặt lên, với ý nghĩa cô dâu gặp điều may mắn, 
đặc biệt khi trên đường về nhà chồng. Khi đi đến ngã ba hay ngã tư cô gái xin dâu 
của nhà trai lại để một miếng vải trắng xuống đường, cô dâu đi sau lại tiếp tục nhặt 
miếng vải trắng cầm lên rồi đi tiếp. Nghi thức trên đường của đoàn đón dâu cứ diễn 
ra như thế cho đến khi nào về đến nhà chú rể thì thôi. Khi cô đâu chuẩn bị ra cửa, 
mỗi người trong gia đình đưa ít tiền gói vào lì xì (chỉ khoảng năm chục nghìn) đưa 
cho cô dâu để lấy lộc làm ăn. Khi đó, em gái ruột của cô dâu hoặc em họ phải đội 
nón cho cô dâu và phải là chiếc nón mới, chiếc nón lá này là của bố mẹ cô dâu tặng 
cho con gái trước khi về nhà chồng và mong con đi đường có đồ che mưa, nắ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
luan_an_nghi_le_trong_chu_ky_doi_nguoi_cua_nguoi_tay_huyen_n.pdf