ĐẶT VẤN ĐỀ . 1
Chương 1: TỔNG QUAN. 3
1.1. Khái niệm hen phế quản . 3
1.2. Dịch tễ học hen phế quản. 3
1.3. Các yếu tố nguy cơ gây hen phế quản . 4
1.4. Cơ chế sinh bệnh học của hen phế quản. 5
1.4.1. Viêm đường thở . 5
1.4.2. Hen tăng bạch cầu ái toan . 5
1.4.3. Hen không tăng bạch cầu ái toan . 6
1.4.4. Tăng phản ứng đường thở . 7
1.4.5. Thay đổi cơ trơn phế quản . 8
1.4.6. Tắc nghẽn đường thở . 8
1.4.7. Tái tạo lại cấu trúc đường thở . 8
1.5. Sinh tổng hợp Oxide nitric. 10
1.5.1. Nguồn gốc của NO tại phế quản . 11
1.5.2. Nguồn gốc của NO tại phế nang . 12
1.5.3. Mô hình khí động học của NO trong khí thở. 12
1.5.4. Tác dụng sinh lý của Oxide nitric. 15
1.5.5. Phương pháp đo nồng độ Oxide nitric khí thở ra. 17
1.5.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến nồng độ Oxide nitric . 18
1.6. Chẩn đoán hen ở trẻ em trên 5 tuổi và người lớn . 20
1.6.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán hen theo GINA 2015. 20
1.6.2. Khuyến cáo chẩn đoán hen theo nồng độ FeNO . 22
1.7. Kiểm soát hen. 26
1.7.1. Phân mức độ kiểm soát hen theo GINA 2015 . 27
171 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 26/02/2022 | Lượt xem: 475 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu hiệu quả kiểm soát hen bằng oxide nitric khí thở ra ở trẻ em trên 5 tuổi tại bệnh viện nhi Trung Ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.3.2. Mối tương quan giữa nồng độ Oxide Nitric với với chỉ số FEV1.
Biểu đồ 3.11: Mối tương quan giữa nồng độ FeNO với FEV1
Nhận xét: Nồng độ FeNO có mối tương quan đồng biến với FEV1, với
r= 0,19; p=0,04
76
Biểu đồ 3.12: Mối tương quan giữa nồng độ CANO với FEV1
Nhận xét: Nồng độ CANO không có mối tương quan với FEV1, với
r=0,05, p=0,57.
3.3.3. Mối tương quan giữa nồng độ Oxide nitric và bạch cầu ái toan trong
máu ngoại vi
Biểu đồ 3.13: Mối tương quan giữa FeNO với số lượng bạch cầu ái toan
trong máu ngoại vi
Nhận xét: Nồng độ FeNO không có mối tương quan với số lượng bạch
cầu ái toan trong máu ngoại vi với r=0,14, p =0,15.
77
Biểu đồ 3.14: Mối tương quan giữa CANO với số lượng bạch cầu ái toan
trong máu ngoại vi
Nhận xét: Nồng độ CANO không có mối tương quan với số lượng bạch
cầu ái toan trong máu ngoại vi, với r=0,13, p=0,19.
Biểu đồ 3.15: Mối tương quan giữa FeNO với nồng độ IgE máu
Nhận xét: Nồng độ FeNO không có mối tương quan với nồng độ IgE
trong máu ngoại vi; r= 0,068, p= 0,49
78
Biểu đồ 3.16: Mối tương quan giữa CANO với nồng độ IgE máu
Nhận xét: Nồng độ CANO không có mối tương quan với nồng độ IgE
trong máu ngoại vi với r= 0,13, p=0,18.
3.4. Đánh giá kiểm soát hen
Diễn biến số trẻ hen tham gia nghiên cứu theo thời gian
Biểu đồ 3.17. Số trẻ tham gia nghiên cứu trong quá trình theo dõi điều trị hen
Nhận xét: Số trẻ tham gia nghiên cứu giảm dần theo thời gian. Trong số
109 trẻ hen tham gia nghiên cứu, sau 1 tháng điều trị còn 85 trẻ tham gia
nghiên cứu, sau 3 tháng còn 67 trẻ tham gia nghiên cứu, sau 6 tháng còn 57
trẻ tham gia nghiên cứu.
79
Số lần sử dụng thuốc cắt cơn SABA trung bình trong tháng
Biểu đồ 3.18: Số lần sử dụng SABA trung bình trong một tháng
Nhận xét: Số lần sử dụng SABA giảm dần theo thời gian điều trị dự
phòng. Số lần sử dụng SABA trong lần khám đầu tiên là 2±0,31 lần/tháng;
sau 1 tháng điều trị là 2±0,59 lần/tháng; sau 3 tháng điều trị là 1±0,15
lần/tháng và sau 6 tháng điều trị là 1±0,43 lần/tháng. Số lần sử dụng SABA
sau 3 tháng và 6 tháng giảm so với lần thăm khám ban đầu có ý nghĩa thống
kê với p=0,0001 và p=0,014.
Đánh giá kiểm soát hen theo GINA
Biểu đồ 3.19: Đánh giá kiểm soát hen theo GINA 2015
Nhận xét: Theo GINA 2015, số trẻ hen kiểm soát hoàn toàn sau 1 tháng
là 35,3%; sau 3 tháng là 49,3% và sau 6 tháng là 64,4% (p<0,0001).
80
Đánh giá kiểm soát hen theo ACT
Biểu đồ 3.20: Mức độ kiểm soát hen theo ACT trong quá trình theo dõi
điều trị dự phòng
Nhận xét: Đánh giá kiểm soát hen theo ACT, số trẻ kiểm soát hen sau 1
tháng là 82,4%, sau 3 tháng là 87% và sau 6 tháng là 91,5%. Tình trạng kiểm
soát hen hoàn toàn tăng dần theo thời gian với p<0,05.
Biểu đồ 3.21: Điểm kiểm soát hen trung bình theo ACT trong thời gian
điều trị dự phòng
Nhận xét: Điểm kiểm soát hen trung bình theo ACT ở lần đầu thăm
khám là 18±3,3; sau 1 tháng là 23±2,5; sau 3 tháng là 23±2,5; sau 6 tháng là
24±2,5 (sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,0001). Tình trạng kiểm soát
hen cải thiện tốt theo thời gian điều trị.
81
Đánh giá kiểm soát hen theo nồng độ FeNO
Biểu đồ 3.22: Mức độ kiểm soát hen theo nồng độ FeNO
Nhận xét: Đánh giá kiểm soát hen theo nồng độ FeNO theo khuyến cáo
của ATS, số trẻ được kiểm soát hen sau 1 tháng là 31,8%, sau 3 tháng là
46,3%, sau 6 tháng là 49,1%, sự khác biệt giữa lần đầu thăm khám với sau 1
tháng, 3 tháng, 6 tháng có ý nghĩa thống kê với p=0,0001.
Giá trị hô hấp ký trong quá trình theo dõi điều trị hen
Biểu đồ 3.23: Sự thay đổi một số giá trị chức năng hô hấp trong quá trình
theo dõi điều trị hen
Nhận xét: Giá trị FEV1, FVC/FEV1, FEF25-75 sau 1 tháng, 3 tháng, 6
tháng điều trị cao hơn so với lần thăm khám đầu tiên, sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê với p=0,0001
82
Giá trị NO khí thở ra trong quá trình theo dõi điều trị hen
Biểu đồ 3.24: Sự thay đổi nồng độ Oxide nitric khí thở ra trong quá trình
theo dõi điều trị hen
Nhận xét: Nồng độ FeNO giảm có ý nghĩa sau điều trị dự phòng. Sau 1
tháng, nồng độ FeNO là 15,3ppb (p=0,035); sau 3 tháng là 13,75 ppb
(p=0,007); sau 6 tháng là 13,94 ppb (p=0,004). Nồng độ CANO giảm dần sau
1 tháng, 3 tháng và 6 tháng điều trị, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa
thống kê với p>0,05.
So sánh mức độ kiểm soát hen hoàn toàn theo GINA, ACT, GINA+FeNO
Biểu đồ 3.25: So sánh mức độ kiểm soát hen theo GINA, ACT, FeNO
Nhận xét: Số trẻ kiểm soát hen hoàn toàn sau 1 tháng, 3 tháng và 6
tháng điều trị đánh giá theo ACT cao hơn so với đánh giá kiểm soát hen theo
GINA và theo GINA+ FeNO.
83
Bảng 3.16: Đánh giá tỷ lệ kiểm soát hen hoàn toàn trong thời gian điều trị theo
phân nhóm FeNO
FeNO (ppb)
P
35(n=29)
Sau 3
tháng
KSHT (%) 60,7 43,5 38,9 0,28
Liều ICS
(TB±SD)
219±155 245±166 264±154 0,63
Sau 6
tháng
KSHT (%) 63,2% 48% 93,3% 0,015
Liều ICS
(TB±SD)
242±154 234±147 163±104 0,21
Nhận xét: Nhóm trẻ hen có FeNO<20ppb kiểm soát hoàn toàn sau 3
tháng chiếm tỷ lệ cao hơn hai nhóm còn lại, tuy nhiên liều ICS không thuyên
giảm sau 6 tháng điều trị. Nhóm FeNO từ 20-35 ppb có số trẻ hen kiểm soát
hoàn toàn và liều ICS không có sự khác biệt sau 3, 6 tháng điều trị. Nhóm
FeNO>35 ppb có số trẻ hen kiểm soát hoàn toàn chiếm tỷ lệ cao nhất là
93,3% và liều ICS thuyên giảm rõ rệt sau 6 tháng điều trị.
Bảng 3.17: Đánh giá tỷ lệ kiểm soát hen hoàn toàn trong thời gian điều trị theo
phân nhóm CANO
CANO
P
<4 ppb ≥4 ppb
Sau 3 tháng
KSHT (%) 30 57,1 0,41
Liều ICS (TB±SD) 269±148 227±160 0,32
Sau 6 tháng
KSHT (%) 52,9 69 0,24
Liều ICS (TB±SD) 263±133 201±142 0,12
Nhận xét: Không có sự khác biệt về tỷ lệ trẻ hen kiểm soát hoàn toàn
sau 3 tháng, 6 tháng điều trị ở hai nhóm CANO<4ppb và CANO≥4 ppb.
Tuy nhiên liều ICS ở nhóm CANO≥4 ppb có xu hướng thuyên giảm sau 6
tháng điều trị so với sau 3 tháng điều trị.
84
Bảng 3.18. Đánh giá tỷ lệ kiểm soát hen hoàn toàn trong thời gian điều trị theo
phân nhóm bạch cầu ái toan máu.
Số lượng bạch cầu ái toan trong máu
(bc/µl)
P
1000
n=19 n=20 n=44 n=19
Sau 3
tháng
KSHT (%) 73,3 10 50 40 0,02
Liều ICS
(TB±SD)
192±156 263±190 221±126 325±197 0,18
Sau 6
tháng
KSHT (%) 58,3 75 66,79 55,6 0,81
Liều ICS
(TB±SD)
206±125 169±95 188±118 361±170 0,005
Nhận xét: Nhóm trẻ hen có bạch cầu ái toan máu 1000
bc/µl có xu hướng tăng liều ICS sau 6 tháng điều trị, các nhóm còn lại có
xu hướng giảm liều ICS sau 6 tháng điều trị.
Liều ICS trung bình của 109 trẻ hen trong thời gian điều trị
Biểu đồ 3.26: Liều ICS trung bình trong quá trình điều trị.
Nhận xét: Liều ICS trung bình được chỉ định tại lần khám đầu tiên là
297±146 µg, sau 1 tháng là 301±146 µg, sau 3 tháng là 262±139 µg, sau 6
tháng là 219±141 µg. Liều ICS tại thời điểm 3 tháng và 6 tháng điều trị dự
phòng thấp hơn so với lần thăm khám ban đầu với p=0,038 và p=0,02.
85
Mối tương quan giữa nồng độ FeNO, CANO với ACT
Biểu đồ 3.27: Mối tương quan giữa nồng độ FeNO, CANO với ACT
Nhận xét: Không có mối tương quan giữa nồng độ FeNO với điểm kiểm
soát hen ACT (r=0,165; p=0,086). Tương tự, không có mối tương quan giữa
nồng độ CANO với ACT (r=0,097; p=0,32).
86
Chương 4
BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Trong thời gian nghiên cứu từ 01/01/2016 đến 31/12/2018, chúng tôi thu
thập được 109 bệnh nhân HPQ chưa điều trị dự phòng và 30 trẻ khỏe mạnh
từ 6 -17 tuổi tham gia nghiên cứu.
Tuổi và giới
Trong nghiên cứu của chúng tôi, trẻ HPQ có độ tuổi trung bình là 10±1,8
tuổi; tỷ lệ nam/nữ là 1,7:1. Theo nghiên cứu của Trần Thúy Hạnh và Nguyễn
Văn Đoàn năm 2011 về thực trạng hen phế quản tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ
mắc hen ở nam là 4,6% cao hơn so với giới nữ là 3,62%; tỷ lệ nam/nữ là
1,63:1 [17]. Bong Seok Choi tiến hành đo nồng độ FeNO trên 118 trẻ hen tại
Hàn Quốc với độ tuổi trung bình là 8,4 tuổi; tỷ lệ nam/nữ là 1,79:1 [76]. Với
chủ đích lựa chọn trẻ HPQ có thể đo được chức năng hô hấp và FeNO nên
chúng tôi chủ động chọn các trẻ trên 5 tuổi, vì vậy độ tuổi trung bình của trẻ
HPQ trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn các nghiên cứu khác.
Đặc điểm dị ứng của trẻ HPQ
Cơ địa dị ứng được xem là một yếu tố dự báo cho sự tiến triển của bệnh
hen ở trẻ em, cũng như kiểu hình hen dị ứng. Trẻ HPQ thường có tiền sử dị
ứng như viêm da cơ địa, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn [77]. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, trẻ hen có cơ địa dị ứng chiếm tỷ lệ rất cao là
93,6%, trong đó số trẻ mắc các bệnh dị ứng như viêm mũi dị ứng là 91%,
viêm da cơ địa là 32,2%; viêm kết mạc mắt là 28,4%; dị ứng thức ăn là
14,8%; dị ứng thuốc là 11%; shock phản vệ là 1,9%.
Bên cạnh việc khai thác tiền sử mắc các bệnh dị ứng, trẻ hen được làm
test lẩy da với một số dị nguyên hô hấp thường gặp. Tỷ lệ trẻ hen dương tính
87
với các loại mạt nhà chiếm tỷ lệ cao nhất, trong đó D.pter gặp ở 66,5%; D.far
gặp ở 63,2%; ngoài ra dị nguyên gián chiếm 20%; lông chó là 11,6%; lông
mèo là 14,8%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu Elham trên 100 trẻ hen từ
1-7 tuổi, tỷ lệ dị ứng với D.pter và D.far cao hơn so với các loại mạt nhà khác
như Lepidoglyphus destructor, Tyrophagus putrescentiae, và Acarus [78].
Theo nghiên cứu của Li trên 6304 bệnh nhân hen Trung Quốc thì những bệnh
nhân hen mức độ trung bình và nặng có tăng kích thước nốt sẩn với D.pter và
D.far khi làm test lẩy da. Đây là hai dị nguyên chính có liên quan đến mức độ
nặng của hen. Tăng số lượng dị nguyên mẫn cảm ở bệnh nhân hen làm tăng
mức độ nặng của bệnh hen [79].
Nồng độ IgE máu trung bình của nhóm trẻ hen là 757 (14,15-6217)
IU/ml, cao hơn rất nhiều so với trẻ không có cơ địa dị ứng. Như vậy các trẻ
hen trong nghiên cứu của chúng tôi chủ yếu là trẻ hen có cơ địa dị ứng, đây là
yếu tố quan trọng giúp bác sỹ phân loại kiểu hình hen dị ứng, giúp đánh giá
tiên lượng đáp ứng với điều trị bằng corticosteroid.
Tình trạng phơi nhiễm khói thuốc lá (ETS)
Khói thuốc lá là một trong những tác nhân có ảnh hưởng nghiêm trọng
đến sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các bệnh lý đường hô hấp
mạn tính, bệnh lý tim mạch, ung thư, là nguy cơ gây tử vong đặc biệt ở
trẻ em. Theo WHO ước tính có khoảng 175 triệu người trên toàn thế giới tử
vong do khói thuốc lá tình từ nay cho đến năm 2030 [80]. Khói thuốc lá
cũng là một trong nhiều nguyên nhân gây ảnh hưởng đến khởi phát hen và
kiểm soát hen. Trong nghiên cứu của chúng tôi, số trẻ hen có phơi nhiễm
thuốc lá từ bố, ông và người thân trong gia đình chiếm tỷ lệ là 50,3%; phơi
nhiễm khói thuốc lá trong nhà chiếm 30,3%. Hasim Boyaci nghiên cứu tình
trạng phơi nhiễm khói thuốc lá trên 188 trẻ em trong lứa tuổi học đường
thấy rằng tỷ lệ phơi nhiễm khói thuốc lá là 72,3%; trong đó số trẻ phơi
88
nhiễm khói thuốc hàng ngày chiếm 34,6% [81]. Phơi nhiễm khói thuốc lá
ở trẻ em, nhất là trẻ HPQ dẫn đến tình trạng cơn hen nặng, dai dẳng và khó
kiểm soát [82]. Hút thuốc lá cả chủ động và bị động đều dẫn tới kiểu hình
hen không tăng bạch cầu ái toan, tiên lượng kém đáp ứng với điều trị bằng
corticosteroid. Với kết quả nghiên cứu trên 50% trẻ HPQ có phơi nhiễm
với khói thuốc lá, đây là con số cần được cảnh báo các bậc cha mẹ về thói
quen hút thuốc lá khi có trẻ em, nhất là trẻ HPQ.
Chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi
Tình trạng thừa cân béo phì được xem là một yếu tố nguy cơ của hen phế
quản. Theo WHO, tần suất người thừa cân béo phì trên toàn thế giới tăng gấp
đôi vào năm 2008 so với năm 1980 và số người mắc hen cũng tăng nhanh
trong những thập niên gần đây. Các nghiên cứu chỉ ra rằng có mối tương quan
giữa chỉ số BMI với tiến triển của HPQ. Béo phì gây giảm sự đàn hồi của
phổi, giảm thể tích phổi, làm tăng nồng độ hormone tại các mô mỡ là các tiền
chất của quá trình viêm dẫn đến thúc đẩy quá trình viêm tại đường thở [83].
Béo phì là một trong các nguyên nhân dẫn đến kiểm soát hen kém hơn so với
những trẻ hen có cân nặng bình thường. Béo phì có liên quan đến sự tăng mức
độ nặng của bệnh hen [84]. Béo phì gặp ở kiểu hình hen không dị ứng nhiều
hơn so với kiểu hình hen dị ứng [85].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì chiếm 24,8%.
Trong số 27 trẻ hen thừa cân béo phì, hen mức độ trung bình chiếm 44,4%;
hen mức độ nặng chiếm 11,1%. Như vậy trên 50% trẻ hen thừa cân béo phì
biểu hiện mức độ hen trung bình và nặng. Năm 2015, trung tâm dự phòng và
kiểm soát bệnh của Hoa Kỳ đã công bố béo phì là một yếu tố nguy cơ của
bệnh HPQ ở trẻ hen [86]. Hen ở trẻ béo phì là một kiểu hình hen khó kiểm
soát, mức độ hen nặng và thường đáp ứng kém với điều trị ICS. Do vậy chiều
89
cao và cân nặng và chỉ số khối được xem một yếu tố quan trọng trong đánh
giá, phân loại kiểu hình của trẻ hen phế quản.
Tuổi khởi phát hen
Tuổi khởi phát hen khác nhau ở từng cá thể mắc hen, đây là một đặc
điểm lâm sàng giúp phân loại kiểu hình hen. Trong nghiên cứu của chúng tôi,
số trẻ hen khởi phát sớm trước 5 tuổi là 54,2%, khởi phát muộn sau 5 tuổi là
45,8%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với Lê Thị Hồng Hanh với
tuổi khởi phát hen của trẻ trước 5 tuổi chiếm tỷ lệ 59% [87]. Hen là bệnh hình
thành do có sự tương tác qua lại giữa cơ địa dị ứng và yếu tố môi trường. Hen
khởi phát sớm thường liên quan đến tiền sử gia đình, bản thân mắc các bệnh
dị ứng trong khi hen khởi phát muộn thường liên quan nhiều đến yếu tố môi
trường như khói thuốc lá, ô nhiễm môi trường hay thay đổi cảm xúc, biến đổi
nội tiết. Tuổi khởi phát hen cũng giúp phân loại kiểu hình hen cũng như tiên
lượng tiến triển của bệnh.
Đặc điểm chức năng hô hấp
Phế dung ký là một phương pháp dùng để đánh giá chức năng hô hấp
được sử dụng phổ biến trong chẩn đoán và theo dõi điều trị bệnh lý hô hấp ở
người lớn và trẻ em. Phế dung ký giúp chẩn đoán hen với độ đặc hiệu là
100% thông qua chỉ số FEV1, FEV1/FVC và giúp phân loại được mức độ
nặng của bệnh hen [7], [88]. Trẻ HPQ có chức năng hô hấp thấp hơn so với
trẻ khỏe mạnh.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, giá trị trung bình của FEV1 nhóm trẻ
hen nhẹ là 93±8 (%giá trị dự đoán); hen mức độ trung bình là 85±14 (% giá
trị dự đoán ) và hen mức độ nặng là 66±24 (% giá trị dự đoán). Giá trị FEV1
ở nhóm hen nặng thấp hơn so với nhóm hen nhẹ dai dẳng và hen mức độ
trung bình có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Giá trị FEF25-75 đánh giá mức độ
tắc nghẽn đường thở tại các đường thở xa, ở nhóm hen nhẹ dai dẳng là
90
78±17(% giá trị dự đoán); nhóm hen trung bình là 69±21(%giá trị dự đoán) và
nhóm hen nặng là 50±28(%giá trị dự đoán); FEF25-75 ở nhóm hen nặng thấp
hơn hai nhóm còn lại có ý nghĩa thống kê với p <0,05.
Stout tiến hành nghiên cứu trên nhóm trẻ hen từ 8-11 tuổi sống trong
thành phố ở hai giai đoạn là từ 1992-1994 (cohort 1) và từ 1998-2001 (cohort
2). Với những trẻ được chẩn đoán hen nhẹ ngắt quãng dựa vào lâm sàng, sau
khi đo hô hấp ký để phân mức độ nặng của hen thì có 22,8% trẻ trong cohort
1 và 27,7% trẻ trong cohort 2 được chẩn đoán hen mức độ trung bình và nặng
[89]. Như vậy hô hấp ký có vai trò phân mức độ nặng của hen ở trẻ trên 5
tuổi chính xác hơn, khách quan hơn so với hỏi bệnh và thăm khám lâm sàng.
4.2. Giá trị Oxide nitric khí thở ra
Thông thường, để góp phần chẩn đoán và đánh giá tình trạng kiểm soát
hen, người ta tiến hành đo nồng độ FeNO với lưu lượng 50ml/s [5]. Ở lưu
lượng này, chúng ta có kết quả nồng độ FeNO tại phế quản. Tuy nhiên để xác
định nồng độ NO tại các đường thở xa, hay còn gọi là CANO (nồng độ NO tại
phế nang), người ta cần đo nồng độ oxit nitric khí thở ra với 4 mức lưu lượng
50-100-250-350 ml/s; đồng thời cũng giúp xác định được J’awNO là lưu
lượng NO tại đường thở. Đây là một kỹ thuật khó, cần có sự phối hợp và gắng
sức của trẻ, phải thực hiện nhiều lần nên thường chỉ tiến hành được ở trẻ lớn
và người lớn.
Nồng độ FeNO, CANO của trẻ hen phế quản và trẻ khỏe mạnh
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ FeNO ở trẻ hen phế quản có
giá trị là 22,45 (1,18-85,81) ppb cao hơn so với nhóm trẻ khỏe mạnh là 8,4
(2,7-24,1) ppb. Nồng độ CANO ở trẻ hen là 5,9(0,02-37,08) ppb cao hơn so
với ở nhóm trẻ khỏe mạnh là 2,8(0,98-10,98) ppb. Lưu lượng J’awNO ở trẻ
hen là 56,9 (1,8-200,2) ppb cao hơn so với trẻ khỏe mạnh là 18,7(2,2-53,2)
ppb. Sự khác biệt về giá trị FeNO, CANO, J’awNO ở nhóm trẻ hen so với trẻ
91
khỏe mạnh có ý nghĩa thống kê với p=0,0001. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi tương đồng với các nghiên cứu khác trên thế giới. Franklin nghiên cứu
trên 155 trẻ hen từ 6-18 tuổi nhận thấy nồng độ FeNO ở trẻ hen là 16,4 ppb
(95% CI, 11-24,6) cao hơn so với trẻ không mắc hen là 11 ppb (CI 9,4-12,9;
p=0,03) [90]. Nghiên cứu của Puckett trên 179 trẻ hen từ 6-11 tuổi và 21 trẻ
khỏe mạnh cho thấy nồng độ FeNO của trẻ hen là 19,6 (3,7-186) ppb cao hơn
so với nhóm trẻ khỏe mạnh là 8,5 (2,2-15,3) ppp; nồng độ CANO của trẻ hen
là 1,3 (0,1-13,4) ppb, trẻ khỏe mạnh là 1,47 (0,1-2,23) ppb; sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với p=0,0001 [70]. Paraskakis nghiên cứu trên 132 trẻ bao
gồm 81 trẻ hen, 27 trẻ khỏe mạnh không có cơ địa dị ứng, 24 trẻ khỏe mạnh
có cơ địa dị ứng thì nồng độ CANO ở trẻ hen là 2,22 (0,44-6,63) ppb cao hơn
so với trẻ khỏe mạnh là 1,63 (0,44-3) ppb không phụ thuộc trẻ có cơ địa dị
ứng hay không; sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,0002 [91].
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra diện tích dưới đường cong ROC của
FeNO là 0,83; với điểm cut- off của FeNO=18,2 ppb thì độ nhậy của FeNO
trong chẩn đoán hen là 65% và độ đặc hiệu là 93,3%; với điểm cut- off của
CANO = 3,5 ppb thì độ nhậy là 74,3% và độ đặc hiệu là 73,3%. So với giá trị
của đo chức năng hô hấp trong chẩn đoán hen, các nghiên cứu nhận thấy
FEV1 và FEV1/FVC có độ nhậy là 29% và độ đặc hiệu là 100%; PEF có độ
nhậy là 0% và độ đặc hiệu là 100% [7]. Sivan tiến hành nghiên cứu trên 150
trẻ em, trong đó có 69 trẻ hen không sử dụng corticosteroid, 37 trẻ hen đang
điều dự phòng và 44 trẻ không mắc hen, kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ
FeNO và mức độ tăng số lượng bạch cầu ái toan trong đờm ở nhóm trẻ hen
không sử dụng corticosteroid cao hơn so với các nhóm trẻ còn lại với
p<0,001. Diện tích dưới đường cong ROC trong chẩn đoán hen của FeNO và
tỷ lệ % bạch cầu ái toan trong đờm lần lượt là 0,906 và 0,921 cao hơn so với
92
diện tích dưới đường cong của FEV1 là 0,606. Độ nhậy của FeNO là 80%;
độ đặc hiệu là 92%; giá trị dự đoán âm tính là 86%; giá trị dự đoán dương tính
là 89% tại điểm cắt là 19 ppb [92]. Theo nghiên cứu của Lopez trên 114
người từ 15-75 tuổi, trong đó có 52 bệnh nhân hen, diện tích dưới đường cong
ROC của FeNO là 0,86 (95% Cl: 0,78-0,93), của CANO là 0,72 (95% Cl
0,62-0,71). Giá trị trung bình của CANO của nhóm chứng là 2,2±1,7 ppb;
thấp hơn so với nhóm hen là 5,3±4,9 ppb với p<0,001. Với điểm cut- off của
CANO là 2,3 ppb thì độ nhậy và độ đặc hiệu trong chẩn đoán hen là 70%
[93]. FeNO và CANO có thể được xem là một trong những công cụ sử dụng
trong chẩn đoán sớm bệnh hen ở trẻ em trên 5 tuổi và người trưởng thành.
Theo khuyến cáo của ATS [94] và hướng dẫn chẩn đoán và điều trị hen
ở trẻ em của Tây Ban Nha [64], điểm cut off của FeNO=20 ppb là ngưỡng sử
dụng trong chẩn đoán hen. Hiện nay GINA chưa đưa ra khuyến cáo về
ngưỡng CANO ở trẻ em.
Nồng độ FeNO, CANO ở trẻ hen phế quản theo cơ địa dị ứng
Kiểu hình hen dị ứng là kiểu hình phổ biến nhất ở trẻ HPQ. Cơ địa dị
ứng được xác định bởi tình trạng tăng nồng độ IgE máu, tăng số lượng bạch
cầu ái toan trong máu, test lẩy da dương tính với các dị nguyên đường hô hấp
[95]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy số trẻ hen có cơ địa dị ứng
chiếm tỷ lệ rất cao là 93,6%; số trẻ hen có tăng bạch cầu ái toan trên 300 bc/µl
chiếm 79,3%; số trẻ hen có IgE máu >200 IU/ml chiếm 84,6%; số trẻ có test
lẩy da dương tính với dị nguyên hô hấp chiếm 74,5%. Như vậy ở trẻ em, hen
dị ứng là kiểu hình nổi trội. Theo Phan Quang Đoàn thì cơ địa dị ứng ở bệnh
nhân hen người lớn là 67% [96].
Nồng độ FeNO ở trẻ hen có cơ địa dị ứng là 22,46 (1,18-85,81) ppb so
với 15,37(2,7-31,85) ppb ở trẻ hen không có cơ địa dị ứng là (p=0,16). Nồng
93
độ CANO ở trẻ hen có cơ địa dị ứng là 6,25 (0,05-37,08) ppb so với 3,56
(1,8-8,92) ppb ở trẻ hen không có cơ địa dị ứng (p=0,15). Nhóm trẻ hen có cơ
địa dị ứng có nồng độ FeNO, CANO cao hơn so với nhóm trẻ hen không có
cơ địa dị ứng, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Kết quả của chúng tôi khác biệt so với nghiên cứu của Daniel theo dõi dọc
trên 289 trẻ từ sơ sinh đến năm 8 tuổi. Trẻ được xếp vào nhóm có cơ địa dị
ứng hoặc tiền sử bản thân hoặc gia đình mắc các bệnh dị ứng khi trẻ có một
trong các tiêu chuẩn như có bố hoặc mẹ có tiền sử HPQ, có biểu hiện mắc
bệnh dị ứng đường hô hấp, có test lẩy da dương tính với ít nhất 1 dị nguyên
đường hô hấp. Tại thời điểm 6 tuổi thì những trẻ có biểu hiện dị ứng với dị
nguyên hô hấp hoặc thức ăn có nồng độ FeNO cao hơn so với nhóm trẻ không
có biểu hiện dị ứng với p<0,001 [97]. Karina nghiên cứu trên 1441 trẻ hen từ
13-15 tuổi, giá trị FeNO trung bình của nhóm trẻ hen có cơ địa dị ứng là
17,6±0,6 ppb so với 11,6±0,8 ppb ở nhóm trẻ hen không có cơ địa dị ứng
(p20 ppb liên quan đến
tăng nguy cơ dị ứng ở người không mắc bệnh hen (OR=5,3; 95% CI 3,3 đến
8,5 ppb) và bệnh nhân hen là (OR=16,2; 95% CI 3,4 đến 77,5 ppb). FeNO
>20 ppb là yếu tố dự đoán tốt nhất cho cơ địa dị ứng với đường cong (AUC)
là 68% (95%CI 64% đến 69%). AUC là 65% (95% CI 61%- 69%) ở bệnh
nhân không mắc hen và AUC là 82% (95% CI 71% to 91%) ở bệnh nhân hen
[98]. Nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt so với Karina và Daniel có thể
do số lượng bệnh nhân trong nghiên cứu của chúng tôi nhỏ hơn. Hơn nữa sự
khác biệt về chủng tộc giữa từng quốc gia cũng dẫn đến tỷ lệ mắc các bệnh dị
ứng khác nhau.
Như vậy nồng độ Oxide nitric tại đường thở được xem là một marker
phản ánh tình trạng dị ứng của người khỏe mạnh cũng như ở bệnh nhân hen.
94
Nồng độ FeNO, CANO của trẻ hen phế quản theo chỉ số BMI
Hen và béo phì đều có chung cơ chế sinh bệnh học là quá trình viêm tiến
triển. Ở người béo phì có sản xuất ra các tiền chất như edipokines thúc đẩy
quá trình viêm tại các mô mỡ. Một số nghiên cứu ở trẻ nhỏ chứng minh rằng
khi tăng chỉ số BMI ở trẻ nhỏ làm tăng nguy cơ khò khè dai dẳng hoặc tái đi
tái lại [99], tăng chỉ số BMI kéo dài ở giai đoạn trẻ nhỏ dẫn đến tăng nguy cơ
hen ở lứa tuổi học đường [100].
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 17 trẻ thừa cân, béo phì được đánh
giá theo tiêu chuẩn của WHO. Số trẻ thừa cân có FeNO≥20ppb chiếm 51,9%
và CANO≥4ppb chiếm 63%. Tuy nhiên sự khác biệt về nồng độ FeNO,
CANO ở nhóm trẻ thừa cân và không thừa cân không có ý nghĩa thống kê.
Cibella thực hiện một nghiên cứu cắt ngang trên 708 trẻ trong lứa tuổi
học đường từ 10-16 tuổi, có chỉ số BMI từ 13-39 kg/m2; các trẻ đều được
phỏng vấn bộ câu hỏi về tình trạng hô hấp, làm test lẩy da, đo hô hấp ký và
FeNO. Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng thừa cân béo phì không làm
tăng nồng độ FeNO ở trẻ [101]. Như vậy BMI cao không dẫn đến tình trạng
viêm tăng bạch cầu ái toan tại đường thở ở bệnh nhân hen.
Tuy nhiên, hen trên bệnh nhân thừa cân, béo phì gần đây đã được các
nghiên cứu trên thế giới đề cập nhiều. Hen trên bệnh nhân thừa cân, béo phì
thường nặng và khó kiểm soát hơn. Một số nghiên cứu đã xếp hen trên bệnh
nhân thừa cân béo phì là một kiểu hình hen riêng biệt [102],[103].
Nồng độ FeNO, CANO của trẻ hen theo số lượng bạch cầu ái toan
trong máu và nồng độ IgE máu
Trong nghiên cứu của chúng tôi, nồng độ FeNO và CANO có sự khác
biệt giữa nhóm trẻ hen có bạch cầu ái toan máu bình thường (<300 bc/µl) và
bạch cầu ái toan máu tăng (≥300 bc/µl); giữa nhóm trẻ hen có nồng độ IgE
máu bình thường (< 200 IU/ml) và nồng độ IgE máu tăng (≥ 200 IU/ml). Kiểu
95
hình hen dị ứng với biểu hiện tăng đồng thời bạch cầu ái toan máu, nồng độ
IgE máu, FeNO là kiểu hình chiếm ưu thế so với các nhóm kiểu hình hen
không dị ứng. Với những trẻ hen có tăng bạch cầu ái toan, tăng nồng độ
FeNO thường đáp ứng tốt với điều trị bằng ICS, dự báo kiểu hình hen dị ứng.
Tuy nhiên có một số trường hợp tăng số lượng bạch cầu ái toan máu, tăng
nồng độ FeNO kéo dài, giá trị FEV1<80%, số lần phải nhập viện vì cơn hen
nặng không thuyên giảm sau điều trị với ICS/LABA, corticosteroid đường
toàn thân được phân loại là kiểu hình hen dị ứng nặng tăng bạch cầu ái toan.
Andrei Malinovschi nghiên cứu trên 410 bệnh nhân hen từ 10 đến 34
tuổi, những bệnh nhân có tăng FeNO>25 ppb và bạch cầu ái toan máu
>0,3x109/L có chỉ số FEV1 thấp, có cơn ngừng thở về đêm nhiều hơn so với
nhóm bệnh nhân có nồng độ FeNO và số lượng bạch cầu ái toan trong máu
trong giới hạn bình thường (p<0,001) [104].
Năm 2019, Sánchez-Jareño báo cáo một trường hợp hen dị ứng nặng
tăng bạch cầu ái toan, bệnh nhân có t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nghien_cuu_hieu_qua_kiem_soat_hen_bang_oxide_nitric.pdf