Luận án Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam có cùng Đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .1

1. Lý do chọn đề tài.1

2. Lịch sử vấn đề .2

3. Đối tượng nghiên cứu.17

4. Nhiệm vụ và giới hạn của đề tài.17

5. Phương pháp nghiên cứu.18

6. Đóng góp của luận án.19

7. Cấu trúc của luận án.20

Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI CÓ

CÙNG ĐỀ TÀI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DÂN TỘC KINH.21

1.1. Truyện thơ, đề tài và cốt truyện .21

1.1.1. Truyện thơ.21

1.1.2. Đề tài và cốt truyện.23

1.2. Truyện thơ Nôm dân tộc Kinh.27

1.3. Truyện thơ dân tộc Thái.30

1.3.1. Lịch sử văn hóa xã hội tộc người Thái .30

1.3.2. Hiện trạng truyện thơ dân tộc Thái .39

1.4. Mối tương tác giữa truyện thơ Nôm và truyện thơ Thái .43

1.5. Giới thiệu nội dung một số truyện thơ Thái và truyện thơ Nôm liên quan

đến đề tài .45

1.5.1. Truyện thơ Nôm Thạch Sanh và truyện thơ Thái Ngu háu .45

1.5.2. Truyện thơ Nôm Cái Tấm - Cái Cám và truyện thơ Thái Ý Nọi - Náng Xưa .47

1.5.3. Truyện thơ Nôm Từ Thức và truyện thơ Thái Ú Thêm .49

1.5.4. Truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa và truyện thơ Thái Trạng nguyên.52

1.5.5. Truyện thơ Nôm Hoàng Trừu và truyện thơ Thái Trạng Tư .55

TIỂU KẾT CHưƠNG 1 .58

Chương 2 NỘI DUNG CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI

CÙNG ĐỀ TÀI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DÂN TỘC KINH .59

2.1. Khát vọng chinh phục tự nhiên.59

2.1.1. Khát vọng chiến thắng tự nhiên.60

2.1.2. Khát vọng chinh phục tự nhiên - cách thức bảo vệ bản mường .652.2. Khát vọng bảo vệ gia đình - xã hội .68

2.2.1. Khát vọng bảo vệ gia đình .68

2.2.2. Khát vọng bảo vệ xã hội .71

2.3. Khát vọng con người lí tưởng .75

2.3.1. Hình tượng con người lí tưởng .75

2.3.2. Tự hào sánh ngang xứ người .82

2.3.3. Khát vọng “ở hiền gặp lành” .84

2.4. Khát vọng tâm linh .88

TIỂU KẾT CHưƠNG 2 .97

Chương 3 NGHỆ THUẬT CỦA MỘT SỐ TRUYỆN THƠ DÂN TỘC THÁI

CÙNG ĐỀ TÀI VỚI TRUYỆN THƠ NÔM DÂN TỘC KINH .99

3.1. Kết cấu truyện thơ Thái .99

3.1.1. Kết cấu và cấu trúc trong truyện thơ Thái .99

3.1.2. Mô típ truyện thơ Thái .100

3.1.3. Tổ chức tình tiết .107

3.2. Nhân vật truyện thơ Thái .114

3.2.1. Số lượng nhân vật .114

3.2.2. Phân loại nhân vật.115

3.3. Ngôn ngữ truyện thơ Thái.127

3.3.1. Ngôn ngữ người kể chuyện .128

3.3.2. Ngôn ngữ nhân vật.132

3.4. Các biện pháp nghệ thuật.136

3.5. Truyện thơ mang màu sắc sử thi .143

TIỂU KẾT CHưƠNG 3 .146

KẾT LUẬN .147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN .151

TÀI LIỆU THAM KHẢO .151

PHỤ LỤCDANH MỤC B

pdf264 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 640 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu một số truyện thơ của dân tộc Thái ở Việt Nam có cùng Đề tài với truyện thơ Nôm dân tộc Kinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhận thức sâu sắc về kết cấu. Arixtôt cho rằng, cái hoàn chỉnh là “cái có ở phần đầu, phần giữa và phần cuối. Phần đầu là cái không nối tiếp theo cái khác, trái lại, theo quy luật tự nhiên, phải có cái gì tồn tại hoặc tiếp theo sau nó, phần cuối là 100 cái mà theo trình tự tất yếu hay theo lẽ thƣờng Không đƣợc tùy tiện bắt đầu và kết thúc chỗ nào cũng đƣợc” [116, tr.102]. Ở Trung Hoa, Kim Thánh Thán khẳng định, hai chữ “kết cấu cũng giống nhƣ tạo khuôn hình cho nhân vật Phải chế định trƣớc toàn hình của nó. Nếu không chế định đƣợc trƣớc cái toàn cục đó mà cứ để cho cơ bào tự sinh cao thấp từng đoạn thì thân thể con ngƣời sẽ có nhiều vết chắp nối, khí huyết sẽ ứ đọng bên trong” [Dẫn theo 70, tr.123]. Kết cấu - phƣơng tiện sáng tác nghệ thuật, đồng thời cũng lại là phƣơng tiện biểu đạt ý nghĩa. Nghiên cứu kết cấu, cần thiết phải phân biệt kết cấu nhƣ một phƣơng tiện hình thức của tác phẩm văn học với các kĩ thuật, thủ pháp riêng lẻ. Trong sáng tạo văn học, kĩ thuật và thủ pháp có ý nghĩa quan trọng nhƣng không phải do tự bản thân chúng mà do vai trò biểu đạt ý nghĩa của chúng. Kết cấu tác phẩm nhìn chung ổn định, bất biến, mang tính độc đáo sinh động từ phƣơng diện tổ chức cốt truyện, ví von, ẩn dụ, tổ chức trần thuật, hệ thống hình tƣợng Nhƣ vậy, kết cấu của tác phẩm văn học là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, phục tùng yêu cầu biểu đạt tư tưởng, phục tùng việc xây dựng hình tượng nhân vật và phải đạt đến sự hoàn chỉnh, thống nhất, thẩm mĩ. Từ khái niệm kết cấu nói trên, chúng tôi cho rằng truyện thơ Thái có 2 phƣơng diện lớn của kết cấu, gồm mô típ truyện thơ và cách tổ chức tình tiết 3.1.2. Mô típ truyện thơ Thái Mô típ là thuật ngữ đƣợc dùng với các định danh nhƣ mẫu đề, khuôn, dạng, hoặc kiểu “nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nh đã đƣợc hình thành ổn định bền vững và đƣợc sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn học nghệ thuật” [10, tr.24]. Nhiều tác phẩm có mô típ truyện tƣơng tự nhau làm thành kiểu truyện. Trong một kiểu truyện có nhiều mô típ nhƣng không nhất thiết có những mô típ chung. Trong số các truyện thơ Thái đang khảo sát, chúng tôi thấy những sáng tác sau sử dụng một số mô típ cơ bản. Truyện thơ Ngu háu sử dụng 2 mô típ: dũng sĩ diệt rắn ác cứu người đẹp và mô típ kết hôn lên ngôi. Hình tƣợng rắn phổ biến trong văn học ở các nƣớc Đông Nam Á và thế giới. Khi nhận thức xã hội và tự nhiên của con ngƣời đã thay đổi thì đời sau vẫn mƣợn hình ảnh này để sáng tác. Ở Việt Nam, rắn ảnh hƣởng nhiều đến đời sống cƣ dân 101 nên nó trở thành con vật có mặt với tần số lớn nhất trong số các con vật gán danh mãnh thú. Với ngƣời Thái, rắn còn là biểu tƣợng của sức mạnh con ngƣời. Ngƣời Thái luôn đặt mình trong mối quan hệ so sánh với sức mạnh của rắn. Thế kỉ XIV, tạo Lò Lẹt chiếm giữ vùng đất Mƣờng Muổi (Thuận Châu ngày nay), xƣng làm vua Thái, tự đặt hiệu là Ngu háu (Ngƣu Hống) lấy hình tƣợng rắn làm biểu tƣợng cờ. Ngày nay, tại vùng này, con cháu dòng họ Lò vẫn luôn tự hào lập đền thờ tổ tiên mình. Sách Truyện kể bản mường ghi lại rằng, “Then lại cho lớp ngƣời khác xuống. Thủa đó, ngƣời già ngƣời lột, rắn già thì rắn chết; thế mà rắn vẫn nhiều nhƣ lá cây trên rừng” [156, tr.50]. Rắn không chỉ là biểu tƣợng sức mạnh ở trên đất mà rắn còn tƣợng trƣng cho sự hung bạo của nƣớc. Con rắn linh thiêng từ chỗ đƣợc suy tôn, đƣợc cầu cúng đến chỗ trở thành đối tƣợng đối lập phải loại trừ, tiêu diệt. Phản bác lại hình ảnh kì vĩ giai đoạn trƣớc là cả một hành trình dài trong con đƣờng nhận thức của nhân loại. Tác phẩm Ngu háu tập trung kết nối hai mô típ này, chính vì vậy, có thể khẳng định rằng, sáng tác ra đời trong thời kì lịch sử chƣa xa so với lịch sử phát triển nhận thức của dân tộc Thái. Để cân bằng mạnh yếu, xƣa nay giữa các thế lực vẫn dùng tới “chiêu bài” hay còn gọi là mô típ cống nạp người đẹp cho kẻ mạnh nhƣng đây không phải mô típ trung tâm của tác phẩm. Cách thức phản bác tư tưởng giai đoạn trước của người Thái là đưa vào văn học những con người hiên ngang đầy sức mạnh, có tầm vóc hơn hẳn tự nhiên. Nhân vật Lƣu Vĩnh ra đời trong hoàn cảnh ấy, thực hiện sứ mệnh đáp trả thế giới tự nhiên. Muốn đáp trả tự nhiên con ngƣời cần một cái cớ, ngƣời Thái và thời đại đã nghĩ ra cái cớ đó, công chúa bị mãng xà cƣớp về ép làm vợ. Chàng Lƣu Vĩnh tiêu biểu cho sức mạnh của thời đại, của lịch sử và cho cộng đồng cƣ dân Thái xứng đáng đƣợc lấy ngƣời đẹp và lên ngôi. Sơ đồ kết cấu nhƣ sau: Sự ra đời dũng sĩ Dũng sĩ diệt rắn Cứu công chúa Kết hôn cùng công chúa Lên ngôi Sự xuất hiện rắn Rắn bị diệt 102 Nhìn từ kết cấu cốt truyện, so sánh với truyện thơ Nôm Thạch Sanh dân tộc Kinh, chúng tôi nhận thấy truyện Ngu háu kết cấu cốt truyện đơn giản hơn. Truyện thơ Nôm Thạch Sanh có tổng cộng 9 mô típ: Sự ra đời thần kì, diệt mãng xà, diệt đại bàng và cứu công chúa, xuống Thủy cung, gặp ngƣời đẹp câm, tiếng đàn thần kì, cuộc chiến giữa ngƣời cầu hôn, niêu cơm thần kì, mô típ kết hôn và lên ngôi. Sơ đồ kết cấu nhƣ sau: Số lƣợng mô típ phong phú, phù hợp với nội dung phản ánh đa dạng, nhiều vẻ hơn so với truyện thơ Ngu háu dân tộc Thái. Truyện thơ Thái Ý Nọi - Náng Xưa thuộc kiểu truyện ngƣời bất hạnh, sử dụng các mô típ sau: nhân vật bất hạnh bị thế lực đen tối áp bức, ngƣời mẹ thần kì dẫn con đến hạnh phúc, ngƣời đẹp ngủ trong rừng, kết hôn. Sơ đồ kết cấu nhƣ sau: Nhân vật bất hạnh bị thế lực đen tối áp bức Ngƣời mẹ thần kì dẫn con đến hạnh phúc Ngƣời đẹp ngủ trong rừng Kết hôn Sự ra đời thần kì của dũng sĩ Diệt mãng xà Diệt đại bàng, cứu công chúa Đến Thủy cung Đàn thần kì Kết hôn (đánh dẹp 18 nƣớc chƣ hầu bằng niêu cơm thần kì) Lên ngôi 103 Truyện thơ Nôm Cái Tấm - Cái Cám lại sử dụng các mô típ nhƣ: nhân vật bất hạnh bị thế lực đen tối áp bức, đôi giày hạnh phúc, tái sinh, ngƣời đội lốt vật, ngƣời đẹp ngủ trong rừng, miếng trầu trao duyên, kết hôn, Sơ đồ kết cấu nhƣ sau: Ở truyện Ý Nọi - Náng Xưa, mô típ người mẹ thần kì dẫn con đến hạnh phúc thƣờng xuất hiện trong kiểu truyện bất hạnh của các dân tộc ít ngƣời nhƣng lại không xuất hiện trong truyện Cái Tấm - Cái Cám của ngƣời Kinh, thay thế vào đó là hình tƣợng Bụt. Người mẹ hay Bụt thực chất là yếu tố thần kì của tác phẩm. Truyện Cái Tấm - Cái Cám dân tộc Kinh không có mô típ người mẹ thần kì dẫn dắt con gái đi tới hạnh phúc nhƣ truyện Ý Nọi - Nàng Xưa. Truyện Cái Tấm - Cái Cám không xây dựng ngƣời mẹ nhƣ một nhân vật, còn Ý Nọi - Nàng Xưa xây dựng ngƣời mẹ nhƣ một nhân vật thực sự. Mức độ ảnh hƣởng của ngƣời mẹ tới con gái khá đậm nét. Sau khi chết, mẹ hóa thân thành mãnh hổ, cuộc đời Ý Nọi chuyển sang hƣớng khác, em đƣợc che chở, bảo vệ. Không có sự hóa thân của ngƣời mẹ thì con gái không thể tìm thấy hạnh phúc. Nhân vật Ý Nọi vì thế thiếu sự sinh động, chỉ là “nhân vật chức năng”. Sự hóa thân của nhân vật mẹ chính là tín hiệu thẩm mỹ cho thấy tính bản địa của tác phẩm. Tính bản địa thể hiện ở phƣơng diện văn hóa - sự chi phối của chế độ Nhân vật bất hạnh bị thế lực đen tối áp bức Đôi giày hạnh phúc Tái sinh Ngƣời đội lốt vật Ngƣời đẹp ngủ trong rừng Miếng trầu trao duyên Đoàn tụ 104 mẫu hệ với tƣ duy sáng tác. Hình ảnh mãnh hổ khá quen thuộc với ngƣời dân miền núi Tây Bắc ở những thế kỉ đã qua. Cốt truyện Cái Tấm - Cái Cám của dân tộc Kinh hoàn toàn vắng bóng nhân vật ngƣời mẹ nhƣng lại thay thế vào đó là hình tƣợng Bụt làm yếu tố thần kì. Chính Bụt từng bƣớc đƣa Tấm đến hạnh phúc. Trong văn hóa ngƣời Việt, “hình tượng Bụt là phép cộng của rất nhiều hình ảnh đẹp ở các tôn giáo khác nhau”, vì vậy rất gần gũi với nhân dân lao động. Đây cũng là phƣơng tiện thẩm mỹ để tác phẩm dù mang bi kịch tới mức nào nhƣng phần kết cũng trở nên có hậu và là hình tƣợng dân gian thể hiện cô đọng, tập trung ƣớc mơ hạnh phúc và công bằng xã hội của dân tộc Kinh. Mô típ đôi giày hạnh phúc trong Cái Tấm - Cái Cám giống nhiều truyện cổ khác. Nhờ đôi giày thần kì Bụt ban cho, Tấm trở thành hoàng hậu. Truyện Ý Nọi - Náng Xưa không có chi tiết này. Ở dân tộc Kinh, môi trƣờng văn hóa phong kiến trong suốt nhiều thế kỉ với chế độ tập quyền đã dần hình thành một biểu tƣợng quyền lực và qua thời gian nó trở thành một tín hiệu thẩm mĩ. Văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XIV, biểu tƣợng này đã xuất hiện trong truyện thơ chữ Hán Hương miệt hành (khuyết danh, thế kỉ XIV). Mô típ miếng trầu cũng vậy, nó nhƣ một sợi dây để hoàng tử tìm lại Tấm, còn Tấm tìm lại hạnh phúc xƣa. Miếng trầu là hình ảnh xuất hiện nhiều lần trong văn học dân gian Việt Nam. Nó không đơn thuần là phƣơng tiện giao tiếp hàng ngày của ngƣời Việt mà còn là biểu tượng phong tục văn hóa. Mô típ tái sinh là những tình tiết dùng để miêu tả hiện tƣợng chết đi và sống lại của nhân vật trong truyện kể, bao hàm hình thức sống lại thành ngƣời và cả sống lại thành vật. Nhân vật chính trong truyện thơ Thái Ý Nọi - Náng Xưa không tái sinh mà sự tái sinh lại thể hiện ở nhân vật ngƣời mẹ. Song sự tái sinh lại không làm thành một vòng tròn khép kín, chỉ để khẳng định tình mẫu tử của người mẹ dành cho con gái mình chứ không mang ý nghĩa thay đổi số phận cho nhân vật chính hay nhân vật tái sinh. Hết chức năng yểm trợ, nhân vật này tự biến mất. Mô típ tái sinh thể hiện trong tƣ tƣởng chủ đề của thể loại truyện cổ tích ở dạng này còn chính là những ý nghĩa xã hội, ý nghĩa nhân sinh dân gian gởi gắm vào cuộc đời hạnh phúc các nhân vật sau khi sống lại thành ngƣời. Nhân vật Tấm trong truyện thơ Nôm có vòng đời tái sinh nhƣng biểu đạt một tinh thần khác: sự tái sinh mang ý nghĩa là sự thay đổi số phận. Nhân vật hóa thân qua một kiếp hay nhiều kiếp khác 105 nhau nhƣng cuối cùng trở về với hình dáng ban đầu là một con ngƣời trần tục với thân thể, linh hồn, tính cách nhƣ xƣa song hoàn hảo hơn. Mô típ tái sinh còn có ý nghĩa trong việc biểu hiện những quan niệm của dân gian về giá trị của sự sống và hạnh phúc. Quan niệm ấy đƣợc thể hiện trong quá trình đấu tranh gian khổ, trong những khó khăn thử thách nhân vật phải trải qua để dành sự sống và song song với nó là quan niệm về hạnh phúc, loài ngƣời phải nỗ lực hết mình mới mong vƣơn tới đƣợc. Để đƣợc tái sinh, Tấm hóa thân nhiều lần dƣới hình dạng của kiếp vật khác nhau. Nhân vật đặt trong nhiều thế giới khác nhau, phải ứng xử linh hoạt trong nhiều tình huống đầy nghịch lý. Những tình huống này có tác dụng làm cho tính cách của nhân vật hay sự trớ trêu của số phận ngày càng lộ rõ. Truyện Ú Thêm dân tộc Thái lại kết cấu bằng những mô típ khác xoay quanh hai mô típ chủ đạo dũng sĩ diệt yêu quái cứu người đẹp và phàm nam du tiên. Truyện có 6 mô típ chính sau: nhân vật bất hạnh bị thế lực đen tối áp bức, phàm nam du tiên, chặt dây linh hồn, dũng sĩ diệt yêu quái cứu ngƣời đẹp, kết hôn và lên ngôi, thử lòng, thử tài. Cùng chung mô típ với truyện thơ Ú Thêm, truyện thơ Nôm Kinh Từ Thức xoay quanh mô típ hạt nhân là sự vượt thoát thực tại lên tiên. Truyện thơ Ú Thêm, một dạng truyện có nguồn gốc từ kiểu truyện cổ chàng trai kh e, xuất hiện mô típ dũng sĩ diệt yêu quái cứu ngƣời đẹp. Quỷ Khăm Ca và thế giới quỷ là hình ảnh ẩn dụ của một thế lực mới, khác trƣớc, khó lƣờng hơn, bởi chúng có linh hồn. Chúng không tồn tại đơn lẻ mà là một cộng đồng đông đảo. Đây có thể là hình ảnh biến thái của một tầng lớp ngƣời trong xã hội. Đến thời điểm lịch sử mà truyện thơ Ú Thêm ra đời, cuộc chinh phục tự nhiên đã hoàn tất, con ngƣời đối đầu với thế lực mới, đó là chính mình. Cuộc chiến với chính mình không bao giờ là dễ dàng. Mƣờng quỷ tƣợng trƣng cho mảng tối của Mƣờng Trần với những thói xấu cố hữu nhƣ đố kị, ghen ghét, thâu tóm quyền lực Truyện thơ Nôm Từ Thức có chung mô típ phàm nam du tiên, lấy vợ tiên nhƣng lại qua mô típ đó đề cập tới một vấn đề khác: phản ứng của nho sỹ phong kiến với chính xã hội Nho giáo đang sống. Xƣa nay, giới nghiên cứu thƣờng xếp tác phẩm vào loại truyện Nôm bình dân song mƣợn mô típ truyền thống tác giả không đơn thuần đặt ra vấn đề ở tầm thức bình dân mà nó phản ánh vấn đề mang tính bác 106 học với chân dung một nhà nho xuất xử hành tàng. Mô típ lên tiên ở hai truyện còn cho ngƣời đọc thấy quan niệm về vũ trụ, về thế giới của hai dân tộc. Mục đích du tiên của Thêm giống nhƣ chàng Đăm San đi bắt nữ thần Mặt Trời, mang màu sắc sử thi, khẳng định mơ ƣớc của ngƣời xƣa về việc chinh phục tự nhiên. Từ Thức du tiên vì muốn trốn chạy hiện thực, xã hội phong kiến không còn chốn nƣơng thân. Chính vì vậy, Từ Thức lên tiên nhƣng thực chất thể hiện cháy b ng khát vọng chân chính - nhập thế. Nếu nhƣ truyện thơ Ú Thêm có mô típ chủ đạo là dũng sĩ diệt yêu quái cứu người đẹp và phàm nam du tiên thì truyện thơ Thái Trạng nguyên lại xuất hiện mô típ sau: hàn sĩ xin ăn đỗ Trạng đi sứ, thử tài, kết duyên cùng ngƣời đẹp nhà giàu, kết duyên cùng công chúa, kết duyên cùng ngƣời đẹp thủy cung, lên ngôi vua. So với truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa, truyện Trạng nguyên có số mô típ lớn hơn hơn, dẫn đến nội dung tác phẩm cũng phong phú hơn. Cụ thể, có 4 mô típ khác biệt với truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa gồm: kết duyên cùng người đẹp thủy cung, dũng sĩ diệt trừ yêu quái, lên ngôi vua, sinh con nối dõi. Các mô típ nói trên phản ánh ƣớc muốn chinh phục, làm chủ tự nhiên, làm chủ môi trƣờng nƣớc, tài nhân đƣợc đền đáp xứng đáng. “Cái quyết định tiểu thuyết là kinh nghiệm nhận thức thực tiễn” [72, tr.39]. Cái kí ức là cái có sẵn, trong quá trình tương tác văn học, người Thái đã thêm bớt tình tiết, tu sức cho ngôn từ để đưa vào sáng tác những nhu cầu thẩm mĩ thực tiễn của xã hội mình mà theo họ, nó cần và đủ, phù hợp với tâm lí tộc người. Như vậy, mô típ là chất liệu kết cấu tác phẩm truyện thơ Thái. Cùng một mô típ sử dụng, ngƣời Thái có mục đích diễn đạt của riêng mình và hành trạng nhân vật sử dụng mô típ đó cũng ở những vị trí không giống nhau. Qua khảo sát một số cặp truyện có chung những mô típ hạt nhân, có thể thấy số lƣợng mô típ cụ thể trong mỗi sáng tác lại không giống nhau. Số lƣợng mô típ trong mỗi loại đề tài không đồng đều và thống nhất tùy thuộc vào nội dung cần biểu đạt trong dụng ý của tác giả mà truyện thơ Thái sử dụng nhiều hay ít. Việc lựa chọn sử dụng mô típ nào trong kết cấu truyện thơ Thái không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà có chủ đích sáng tạo. Nó chịu sự chi phối bởi những kinh nghiệm thực tiễn và tâm lí văn hóa tộc ngƣời. Các mô típ khác biệt với truyện thơ Nôm dân 107 tộc Kinh nhƣ người mẹ thần kì dẫn con đến hạnh phúc (Ý Nọi - Náng Xƣa), chặt dây linh hồn ( Thêm)... cho thấy ngƣời nghệ sỹ đã dựa trên tinh thần dân tộc mình, môi trƣờng sống bản địa mà tổ chức tình tiết. Vì thế, có thể nói rằng mô típ cấu tạo truyện thơ Thái phản ánh sâu sắc tư duy văn hóa tộc người. 3.1.3. Tổ chức tình tiết Do truyện thơ Thái là thể loại giao thoa giữa văn học dân gian và văn học thành văn cho nên cách tổ chức tình tiết cũng không thống nhất theo một trật tự. Qua khảo sát, chúng tôi thấy rằng, có những truyện thơ tổ chức theo mô hình gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ (nhất là đối với dạng truyện thế sự) nhƣng có truyện lại tổ chức không theo mô hình trên mà theo chủ đề nên kết hợp xâu chuỗi nhiều mô típ, nhiều tình tiết. Trong số các truyện thơ chúng tôi thấy có hai truyện thơ Thái chứa đựng kết cấu ba phần, bao gồm: Gặp gỡ - tai biến - đoàn tụ. Nghĩa thông thƣờng của hai từ “gặp gỡ” là: “Gặp nhau giữa những ngƣời í t nhiều có quan hệ thân mật” [100, tr.360] hoặc “con ngƣời gặp nhau, nảy sinh tình cảm gọi là gặp gỡ” [87, tr.79]. Nhƣng gặp gỡ ở đâu, gặp gỡ nhƣ thế nào thì đó là cả một vấn đề sáng tạo độc đáo mà mỗi nhân vật, mỗi tác phẩm một khác” [116, tr.100]. Với diễn biến theo trật tự thời gian, sự kiện gặp gỡ có vị trí và ý nghĩa quan trọng với nhân vật cũng nhƣ mạch kể của cốt truyện. Sau khi gặp gỡ, ở hai nhóm truyện đều có chung màn trắc trở (hay còn gọi là lƣu lạc), còn “trắc trở” nghĩa là có trở ngại, làm cho không tiến hành đƣợc dễ dàng, thuận lợi” [100, tr.991]. Giá trị của màn trắc trở đã chuyển tải gần nhƣ trọn vẹn nội dung của tác phẩm. Không chỉ thể hiện nội dung ở phƣơng diện xã hội, màn trắc trở còn là môi trƣờng để từ đó, thông qua biến cố, vẻ đẹp của nhân vật chính đƣợc bộc lộ, góp phần khắc họa chân dung nhân vật, nhân cách con ngƣời đƣợc khẳng định. Truyện Trạng nguyên (dân tộc Thái) có kết cấu khá giống với truyện Tống Trân - Cúc Hoa (dân tộc Kinh), trong từng bƣớc cũng có mô típ thử thách tài năng, đức hạnh, lòng kiên nhẫn, nhất là cũng xuất hiện tình tiết ban thƣởng, trừng phạt nhƣ các truyện Nôm khác. Cụ thể số lƣợng câu thơ ở các bƣớc nhƣ sau: 108 Về sự gặp gỡ, “các nhân vật trong truyện Nôm thƣờng có hai kiểu gặp gỡ: trực tiếp hoặc đƣờng vòng” [86, tr.81]. Truyện Trạng nguyên lại có kiểu gặp gỡ trực tiếp. Chàng Túng Tân - nàng Cúc Hoa, đều chủ tâm tìm đến nhau. Họ không cần ngƣời bắc cầu kết nối. Cuộc gặp gỡ diễn ra tự nhiên, tác giả truyện Nôm cũng nhƣ truyện thơ đều sắp xếp đan cài các yếu tố ngẫu nhiên nhƣ định mệnh vào câu chuyện. Túng Tân dắt mẹ đi xin ăn, cùng gặp con gái nhà giàu, sau đó chàng tiếp tục gặp công chúa Bạch Hoa khi đi sứ. “Yếu tố ngẫu nhiên là thao tác kĩ thuật để ngƣời nghệ sỹ hợp lí hóa các cuộc gặp gỡ giữa trai và gái trƣớc điều cấm kị của gia đình và xã hội” [87, tr.81]. Viết về sự kiện gặp gỡ, nhân vật nữ thƣờng chủ động. Nàng Cúc Hoa thấy cảm động trƣớc hoàn cảnh của các chàng mà động lòng trắc ẩn. Họ cùng xin cha mẹ đƣợc kết hôn cùng các chàng. Đây là kiểu gặp gỡ mang tính phổ biến ở truyện thơ và truyện Nôm. Trong truyện Nôm, kết cấu kiểu cô gái chủ động gặp chàng trai góp phần khẳng định khát vọng tình yêu tự do, vƣợt ra ngoài lễ giáo Nho gia của ngƣời đƣơng thời. Với truyện thơ Thái, kết cấu nói trên cũng xuất hiện ở nhiều tác phẩm nhƣ: San Lướng - Inh Lái, Trạng Tư, Mang tính thế sự, nhân vật gặp tai biến dẫn đến chia lìa, các thế lực xã hội gây tai họa cho ngƣời vô tội là nhà vua hoặc thầy bói, thầy cúng Tai họa có thể tiềm ẩn ở chốn cung đình, nơi tập trung quyền lực đấng tối cao, xung đột đƣợc xây dựng dựa trên duyên cớ hôn nhân. Đấng tối cao lại đem tới bi kịch cho nhân tài, trong khi đó, đáng ra phải trọng dụng, chứng t đó là một thời đại nhiễu nhƣơng, một xã hội đến thời đổ nát. So với sự kiện gặp gỡ, số dòng thơ của sự kiện trắc trở lớn hơn rất nhiều. Hai nhân vật chính có khoảng thời gian lƣu lạc dài mƣời năm. Mối quan hệ đan xen Túng Tân - Bành Hoa có thời gian lƣu lạc ngắn hơn. Không gian lƣu lạc của Túng Tân - Cúc Hoa diễn ra trong không gian xã hội còn không gian lƣu lạc của Túng Tân - Bành Hoa là không gian địa danh lƣu lạc tha hƣơng. Cách lƣu lạc trong truyện tạo nên trong tâm trí ngƣời đọc về thực trạng bi thƣơng khốn cùng. Nhân vật nam tha hƣơng căng thẳng trong từng cuộc thử tài, đấu trí, nhân vật nữ chính bị ép gả tới mức đã có lúc tìm tới con đƣờng chết với tiếng khóc than ai oán não nùng, hoặc phải sống cô đơn sợ hãi trên hoang đảo. Chặng trắc trở với khúc đoạn chia li, lƣu lạc làm tôi luyện thêm, đồng thời làm sáng r nhân cách nhân vật. 109 Tiếp sau phần đời chia li hoặc lƣu lạc là sự kiện đoàn tụ. Các nhân vật trở về gặp lại nhau, một cuộc đoàn tụ trọn vẹn. Tác phẩm kết thúc có hậu, ở truyện thơ nói chung, phần đoàn tụ thƣờng có kết cấu ngắn hơn nhiều so với phần trắc trở. Cuộc đoạn tụ gồm bốn ngƣời, thêm công chúa Cao Vƣơng. Tất cả đều có cuộc sống mãn nguyện, gia đình trên dƣới hòa thuận, truyện Trạng nguyên còn có thêm đoạn con cái nối d i. Nhân vật chính đƣợc ở ngôi cao, sống cuộc đời hạnh phúc. Túng Tân sau khi làm vua ở trần thế, tiếp tục cùng ba bà nàng lên mƣờng trời làm Then. Nếu nhƣ màn trắc trở của truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa là những khúc nhôi giãi bày mòn m i đằng đẵng thì đến màn đoàn tụ, ngƣời đọc có cảm giác nhƣ nó là cuộc chạy nƣớc rút, vắn tắt và không nuối tiếc. Kiểu đoàn tụ trọn vẹn viên mãn trong tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm: ước mơ một cuộc sống hạnh phúc, con người vẫn tràn trề năng lượng để sống, cống hiến và hưởng thụ. Truyện thơ Thái Trạng nguyên cũng là câu chuyện có hậu, viên mãn tròn đầy nhưng người đọc lại không có cảm giác là cuộc chạy vắn tắt. Ở bảng 4, đoạn đoàn tụ truyện còn nối dài thêm 10 tình tiết, từ chỗ Túng Tân mơ gặp Long Vƣơng cho tới khi Túng Tân về trời làm Then Luông. Chính vì vậy, truyện thơ Trạng nguyên mới có mô hình kết cấu ba tầng: Gặp gỡ 1 → lƣu lạc 1 → đoàn tụ 1 | | | | Gặp gỡ 2 → lƣu lạc 2 → đoàn tụ 2 | | Gặp gỡ 3→ đoàn tụ 3 Truyện Trạng nguyên có 3 lần gặp gỡ, 2 lần lƣu lạc và 3 lần đoàn tụ. So sánh với cách tổ chức tình tiết của truyện thơ Nôm Tống Trân - Cúc Hoa, cốt truyện có mô hình kết cấu 3 tầng: Gặp gỡ 1 → lƣu lạc 1 → đoàn tụ 1 | | | | Gặp gỡ 2 → lƣu lạc 2 → đoàn tụ 2 Truyện Tống Trân - Cúc Hoa có 2 lần gặp gỡ, 2 lần lƣu lạc và 2 lần đoàn tụ. 110 Văn bản Tống Trân - Cúc Hoa dài 1782 câu, còn văn bản Trạng nguyên lƣu giữ tại thƣ viện tỉnh Sơn La dài 3372 câu, tức văn bản Trạng nguyên dài hơn văn bản Tống Trân - Cúc Hoa là 1590 câu. Tuy nhiên, độ dài văn bản không đồng nghĩa với độ dài nội dung mà phải xem xét dựa trên sự so sánh mới có thể rút ra kết luận xác đáng. Tác phẩm Trạng nguyên có 10 chi tiết chính khác biệt, ngƣời viết chỉ xin lựa chọn phân tích một số chi tiết tiêu biểu nhƣ sau, nhằm chỉ ra điểm giống và khác biệt của hai tác phẩm này. Về nguồn gốc xuất thân của Tống Trân và Túng Tân. Trong tác phẩm Tống Trân - Cúc Hoa, chàng Tống Trân có nguồn gốc xuất thân thần kì. Cự phú làng Phù Hoa vốn sống lƣơng thiện, làm nhiều việc thiện nhƣng lại hiếm muộn, lòng mong m i có con nối d i thấu đến Thiên tào. Thiên tào sai vì sao Văn Xƣơng trên thiên đình xuống hạ giới đầu thai (Đây là mô tip chung trong một số truyện Nôm có nguồn gốc kế thừa cốt truyện dân gian). Từ đó, cha mẹ sinh ra Tống Trân. Ở Trạng nguyên, chàng Túng Tân có nguồn gốc xuất thân tự nhiên, tri phủ Thái An vốn sống trong sang giàu, an bình, ông kết giao cùng bạn bè khắp các bản mƣờng nhƣng cũng hiếm muộn, không con nói d i. Một ngày, ông đến Mƣờng Vạt (Yên Châu) thăm bạn, nghỉ chân ngủ nhờ già bản Sen lớn. Trƣớc đó, vợ bản Sen sinh đƣợc con trai. Mong có con nối d i, tri phủ Thái An đã ng lời xin bé trai về nuôi. Ông Sen đồng ý, vợ chồng tri phủ đón con nuôi về chăm sóc tại đất Phù Hoa (tên gọi trƣớc đây của huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La). Ngay từ mở đầu, không muốn tiếp thu, rập khuôn hoàn toàn tác phẩm truyện thơ Nôm dân tộc Kinh, đó là tinh thần của tác giả truyện Trạng nguyên. Khƣớc từ môtip phổ biến trong văn học dân tộc Kinh cho thấy tác giả đã muốn hiện thực hóa hoàn cảnh xuất thân của nhân vật trong truyện thơ Nôm dân tộc Kinh. Từ đó cho thấy, tác giả Thái muốn thoát bỏ những yếu tố thần kì, kéo gần khoảng cách giữa hiện thực cuộc sống và văn chương, có ý thức rất cao đối với việc tiếp nhận, đổi mới văn chương. Trong truyện cổ Thái, môtip sinh ra thần kì có đƣợc sử dụng nhƣng không phải là môtip phổ biến. Mô típ nguồn gốc thần kì vốn là mô típ phổ biến trong văn học dân gian, đƣợc văn học trung đại kế thừa. Tuy nhiên với văn học trung đại, yếu tố này chỉ là một phƣơng tiện nghệ thuật. 111 Tác phẩm đƣợc tạo nên bởi một chuỗi mắt xích. Chi tiết khác lạ ở đầu tác phẩm kéo theo nhiều chi tiết sau biến đổi. Với 1590 câu nối dài, truyện thơ Trạng nguyên đƣợc mở rộng ở phần cuối (xem phần 2.1.1.2.): sự kiện trị hổ dữ ở Mƣờng Lang, sự kiện Túng Tân kết hôn cùng công chúa Cao Vƣơng; giết thuồng luồng dƣới vực sâu... Nhƣ vậy, sáng tạo bằng cách ghép thêm tình tiết, tác giả Thái đã đưa vào tác phẩm những nội dung mới mẻ so với phạm vi phản ánh ban đầu. Sở dĩ đưa thêm nội dung này vì người Thái có nhu cầu phản ánh hiện thực đương thời của tộc mình. Phản ánh tƣ duy văn hóa cộng đồng là nhiệm vụ của văn học. Nhân vật chính chinh phục môi trƣờng cạn và môi trƣờng nƣớc đã thể hiện sự am tƣờng và niềm khát khao mở rộng hiểu biết, vƣơn tới thống lĩnh chân trời mới của cộng đồng Thái. Phát triển thêm nhiều tình tiết mới so với truyện thơ Nôm, tác phẩm là minh chứng tiêu biểu khẳng định rằng nhiều truyện thơ Thái không sao chép hay chuyển thể truyện thơ Nôm mà chỉ tiếp thu cốt truyện rồi sáng tạo cho phù hợp với tâm lí thẩm mĩ của dân tộc mình. Truyện thơ Thái Trạng Tư cũng có cách tổ chức tình tiết theo mô hình 3 phần: Gặp gỡ - Tai biến - Đoàn tụ. Phần mở đầu của hai tác phẩm đều có cách giới thiệu nhân vật khá giống nhau về xuất thân. Hoàng tử là con vua Trung Quốc hoặc nƣớc Ngô cụ thể còn công chúa là con vua nƣớc Việt Nam. Điểm nổi bật và hấp dẫn của nhân vật hoàng tử đƣợc thể hiện ngay trong tính cách, phẩm chất của chàng. Mặc dù là hoàng tử nhƣng chàng không mải mê với những thú vui bất tận ở đời. Chàng là ngƣời mẫu mực vừa có đức lại vừa có tài. Nhân vật ở hai tác phẩm đều có tƣ tƣởng tiến bộ trong việc lựa chọn ngƣời bạn đời của mình. Khi gặp đƣợc công c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_mot_so_truyen_tho_cua_dan_toc_thai_o_viet_nam_co_cung_de_tai_voi_truyen_tho_nom_dan_toc_k.pdf
Tài liệu liên quan