Luận án Nghiên cứu mức sẵn lòng chi trả của người dân nhằm cải thiện chất lượng nước bị ô nhiễm ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh - Lê Thị Phương Dung

Lời cam đoan . i

Lời cảm ơn . ii

Mục lục . iii

Danh mục các từ viết tắt . vii

Danh mục bảng . viii

Danh mục hình . ix

Trích yếu luận án . x

Thesis abstract . xii

Phần 1. Mở đầu . 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài . 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu . 4

1.2.1. Mục tiêu chung . 4

1.2.2. Mục tiêu cụ thể . 4

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 4

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu . 4

1.3.2. Đối tượng điều tra . 4

1.3.3. Phạm vi nghiên cứu . 5

1.4. Những đóng góp mới của luận án . 5

1.5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài . 6

Phần 2. Tổng quan các vấn đề lý luận và thực tiễn về sẵn lòng chi trả để cải

thiện chất lượng môi trường nước bị ô nhiễm ở các làng nghề . 7

2.1. Cơ sở lý luận về sẵn lòng chi trả để cải thiện chất lượng môi trường nước

bị ô nhiễm . 7

2.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến nghiên cứu . 7

2.1.2. Các lý luận về sẵn lòng chi trả để cải thiện chất lượng môi trường nước . 12

2.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu sẵn lòng chi trả khi chất lượng nước thay đổi . 20

2.1.4. Nội dung nghiên cứu mức sẵn lòng chi trả của người dân để cải thiện chất

lượng môi trường nước tại các làng nghề . 24

2.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng tới sẵn lòng trả của người dân để cải thiện chất

lượng môi trường nước . 26iv

2.2. Tổng quan nghiên cứu sẵn lòng chi trả của người dân để cải thiện chất

lượng môi trường nước . 29

2.2.1. Các nghiên cứu trên thế giới liên quan đến sẵn lòng chi trả của người dân

để cải thiện chất lượng môi trường nước . 29

2.2.2. Các nghiên cứu trong nước liên quan đến sẵn lòng chi trả của người dân

để cải thiện chất lượng môi trường nước . 35

2.2.3. Khoảng trống trong nghiên cứu mức sẵn lòng chi trả để cải thiện chất

lượng môi trường nước trong các làng nghề . 39

2.3. Bài học kinh nghiệm từ cơ sở lý luận và thực tiễn cho nghiên cứu mức sẵn

lòng chi trả để cải thiện chất lượng môi trường nước ở các làng nghề tỉnh

Bắc Ninh . 41

Tóm tắt phần 2 . 43

Phần 3. Phương pháp nghiên cứu . 44

3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu . 44

3.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Bắc Ninh . 44

3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh . 44

3.1.3. Tình hình phát triển làng nghề của tỉnh Bắc Ninh trong những năm gần

đây . 48

3.2. Khung phân tích và cách tiếp cận . 50

3.2.1. Khung phân tích của luận án . 50

3.2.2. Cách tiếp cận của luận án . 52

3.3. Phương pháp nghiên cứu của luận án . 54

3.3.1. Chọn điểm nghiên cứu . 54

3.3.2. Phương pháp thu thập số liệu . 55

3.3.3. Phương pháp xử lý và phân tích số liệu . 60

3.3.4. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích cơ bản . 62

Tóm tắt phần 3 . 64

Phần 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận . 65

4.1. Thực trạng quan điểm, nhận thức của người dân về ô nhiễm môi trường

nước và cải thiện chất lượng môi trường nước ở các làng nghề tỉnh

Bắc Ninh . 65

4.1.1. Tình hình ô nhiễm môi trường nước ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh . 65v

4.1.2. Đánh giá của người dân về ô nhiễm môi trường .70

4.1.3. Nhận thức của người dân về sự nguy hại do ô nhiễm môi trường nước

gây ra . 75

4.1.4. Quan điểm của người dân về sự cần thiết cải thiện chất lượng môi trường

nước tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh .80

4.1.5. Tình hình thu, nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp . 85

4.2. Đánh giá mức sẵn lòng chi trả của người dân nhằm cải thiện chất lượng

nước bị ô nhiễm ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh . 88

4.2.1. Kết quả của phương pháp single-bounded dichotomous choice (1DC) . 88

4.2.2. Phương pháp chọn ngẫu nhiên lặp (double-bounded dichotomous choice -

2DC). 89

4.2.3. Phân tích mức sẵn lòng chi trả theo các đặc điểm nhân khẩu của hộ . 90

4.2.4. Mức sẵn lòng trả trung bình (Mean WTP). 95

4.2.5. Tổng quỹ có thể thu được để cải tạo chất lượng môi trường nước của tỉnh

Bắc Ninh . 99

4.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sẵn lòng chi trả của người dân nhằm cải thiện

chất lượng môi trường nước . 101

4.3.1. Đặc điểm kinh tế-xã hội của người được phỏng vấn . 101

4.3.2. Lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng tới sẵn lòng chi trả của người dân nhằm

cải thiện chất lượng môi trường nước tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh . 104

4.4. Định hướng và giải pháp nhằm huy động nguồn lực tài Chính cho cải thiện chất

lượng môi trường nước ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh. 113

4.4.1. Định hướng giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước ở các làng nghề tỉnh

Bắc Ninh . 113

4.4.2. Công tác bảo vệ môi trường nước tại các làng nghề trong thời gian qua . 118

4.4.3. Đề xuất các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước ở các làng

nghề tỉnh Bắc Ninh . 122

Tóm tắt phần 4 . 133

Phần 5. Kết luận và kiến nghị . 135

5.1. Kết luận . 135

5.2. Kiến nghị . 136

5.2.1. Đối với Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các Bộ liên quan . 136vi

5.2.2. Đối với chính quyền các cấp . 137

5.2.3. Đối với các hội, đoàn thể các cấp các ngành . 137

Danh mục các công trình đã công bố có liên quan đến luận án . 138

Tài liệu tham khảo . 139

Phụ lục . 152

pdf188 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu mức sẵn lòng chi trả của người dân nhằm cải thiện chất lượng nước bị ô nhiễm ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh - Lê Thị Phương Dung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cạnh các phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống như truyền hình, phát thanh, báo chí còn có các mạng xã hội. Tại các làng nghề ở Bắc Ninh, truyền thông lại càng có ý nghĩa trong việc tăng cường nhận thức cho người dân về vấn đề ô nhiễm môi trường. Thông qua ti vi, đài phát thanh của xã, phường, người dân có cái nhìn nghiêm túc về tình hình ô nhiễm môi trường trên địa bàn mình sinh sống và những tác hại mà ô nhiễm môi trường gây nên. Bên cạnh đó, tiếp cận với truyền thông giúp người dân nắm được các chính sách của nhà nước cũng như biện pháp xử lý ô nhiễm môi trường. Từ đó, người dân có thể thay đổi nhận thức và hành vi ứng xử trong sản xuất. Qua kết quả nghiên cứu cho biết sự quan tâm về các vấn đề ô nhiễm môi trường tương đối khác nhau giữa các làng nghề và chưa được cao của người dân. Qua đó cũng thấy được công tác truyền thông về vấn đề ô nhiễm môi trường tại các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh trong những năm qua còn chưa được coi trọng. Tại các làng nghề như Khắc Niệm, Phong Khê, Đa Hội thông qua các phương tiện truyền thông người dân được tiếp cận với các vấn đề ô nhiễm môi trường nhiều lần, trong khi các làng nghề Đại Bái, Yên Phụ tỷ lệ người dân được nghe về vấn đề này rất thấp. Nghiên cứu về số lần được nghe, nhìn về các vấn đề ô nhiễm môi trường và đánh giá của người được phỏng vấn về hiện trạng môi trường nước của địa phương cho thấy giữa hai biến này có mối quan hệ chặt chẽ.Tỷ lệ người nghe về vấn đề môi trường nhiều lần hoặc một vài lần đánh giá môi trường nước tại địa phương họ đang sinh sống tệ hơn trong năm năm gần đây cao hơn nhiều so với người được phỏng vấn chưa bao giờ nghe về vấn đề môi trường. Đồng thời, trong khi chỉ có khoảng 3% người đã từng được nghe về vấn đề môi trường nhận định môi trường nước vẫn tốt thì có tới 13,2% người được phỏng vấn chưa được nghe về vấn đề môi trường có cùng nhận định đó. Ngoài ra, tỷ lệ các hộ này đánh giá môi trường nước của làng nghề họ sinh sống không thay đổi trong năm năm gần đây cũng cao hơn nhiều so với các hộ đã từng được nghe về các vấn đề môi trường. Điều này cho thấy phần nào sự ảnh hưởng của truyền thông tới ý kiến của người dân về hiện trạng chất lượng nước của làng nghề. 73 Bảng 4.3. Mối quan hệ giữa đánh giá về môi trường nước của người dân và số lần tiếp cận với truyền thông Hiện trạng môi trường nước Nghe vấn đề môi trường Nhiều lần Một vài lần Chưa nghe bao giờ Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Số lượng (người) Tỷ lệ (%) Tệ hơn 311 87,5 490 92,5 66 57,9 Vẫn tốt 11 3,1 16 3 15 13,2 Không thay đổi 34 9,6 24 4,5 33 28,9 Chi-square 99,137 Df 4 Sig. 0,000 Kết quả về mối quan hệ giữa số lần tiếp cận với truyền thông về các vấn đề ô nhiễm môi trường với đánh giá của người dân về môi trường nước cho thấy vai trò của truyền thông trong nhận thức của người dân. Điều này cũng đặt ra một hàm ý quan trọng trong thực thi các chính sách giảm thiểu ô nhiễm môi trường nước và môi trường cần tập trung vào khâu tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và ý thức bảo vệ môi trường của người dân. Đặc biệt ở các xã như Đại Bái, Yên Phụ cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền qua các phương tiện như báo, đài Nghiên cứu về đánh giá của người dân về các vấn đề ô nhiễm môi trường tại địa bàn họ đang sinh sống trong 5 năm gần đây cho thấy, hầu hết người dân đánh giá môi trường sống của họ đang ngày càng trở nên tồi tệ. Với 96.8% người dân đánh giá ô nhiễm môi trường nước đang là vấn đề của địa phương; 41,3% người được phỏng vấn cho rằng làng nghề của họ đang bị ô nhiễm không khí và 18,6% người được phỏng vấn đánh giá làng nghề họ sinh sống bị ô nhiễm tiếng ồn. Hình 4.1 cho thấy tỷ lệ các hộ gia đình cho rằng địa bàn họ sinh sống đang gặp phải các vấn đề ô nhiễm nào. 74 Hình 4.1. Đánh giá của người được phỏng vấn về ô nhiễm môi trường tại các làng nghề ở Bắc Ninh Có thể thấy tỷ lệ các hộ đánh giá ô nhiễm môi trường nước ở các làng nghề là vấn đề nghiêm trọng tương đối giống nhau giữa các địa bàn nghiên cứu và cao hơn các vấn đề ô nhiễm môi trường khác. Tại các làng nghề chế biến nông sản như Yên Phụ, bún Khắc Niệm, để sản xuất ra bún, bánh đa nem, làm đậu, nấu rượu đều phải trải qua các khâu khác nhau và thải ra một lượng nước thải rất lớn. Ví dụ, tại làng nghề Khắc Niệm, trung bình mỗi hộ cần tiêu tốn 1 – 2 khối nước cho 3 tạ bún và thải ra môi trường từ 4 – 5 khối nước thải/ngày. Bên cạnh đó những làng nghề này thường có các hoạt động chăn nuôi đi kèm, phát sinh thêm nguồn nước thải từ chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đối với làng nghề sản xuất giấy Phong Khê, nước thải từ các công đoạn ngâm, tẩy, nghiền chiếm khoảng 50% tổng lượng nước thải, chứa nhiều hóa chất như xút, nước giaven, phèn, nhựa thông, phẩm màu, xơ sợi. Làng nghề đúc đồng Đại Bái và sắt thép Đa Hội có nhu cầu sử dụng nước không lớn nhưng nước thải bị ô nhiễm những chất rất độc hại như các hóa chất, axit, muối kim loại, xyanua và các kim loại nặng Hg, Pb, Cr, Zn, Cu, Nước thải từ các hoạt động sản xuất nghề không qua xử lý mà đổ trực tiếp ra cống rãnh, mương, ao gây ô nhiễm nguồn nước mặt. Ngoài ra, các hộ chủ yếu sử dụng chất đốt là than đá để sản xuất, việc đó gây ô nhiễm môi trường không 20 19,9 20,2 19,9 16,8 9,4 0 20 5,4 6,5 0,9 0 14,5 3,1 0,1 0 5 10 15 20 25 Khắc Niệm Yên Phụ Đại Bái Đa Hội Phong Khê Nước Không khí Tiếng ồn Khác Làng nghề Tỷ lệ % 75 khí, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người với lượng CO2, SO2 và bụi than cao. Bên cạnh đó thải ra chất thải rắn: xỉ than, thải hữu cơ, chất thải từ chăn nuôi, sinh hoạt gây ô nhiễm nặng cho các nguồn tài nguyên khác nhau. Tại làng nghề Đại Bái, với hơn 200 lò đúc đồng, nhôm được hút qua hệ thống ống khói cao từ 7m – 12m chưa đạt chuẩn, sau đó xả trực tiếp ra môi trường, nhiều lò còn không có ống khói, ảnh hưởng lớn đến không khí và sức khỏe người dân. Do đó người dân tại Đại Bái đánh giá ô nhiễm không khí là vấn đề nghiêm trọng tương đương với ô nhiễm nước. So sánh với kết quả ô nhiễm môi trường nước tại các làng nghề, có thể thấy người dân tại đây nhận thức được thực trạng môi trường các làng nghề tỉnh Bắc Ninh đang bị xuống cấp trầm trọng. Người được phỏng vấn đánh giá ô nhiễm nguồn nước là vấn đề của địa phương họ chiếm tỷ lệ cao nhất. Kết quả này có thể đưa ra nhận định rằng ô nhiễm môi trường nước đang ngày càng trở thành vấn đề bức xúc, nó xảy ra không chỉ ở địa bàn nghiên cứu mà ở khắp các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh. Trong khi đó, ô nhiễm không khí thường gây nên bởi bụi, CO, kim loại nhẹ, acid và tập trung tại các làng nghề tái chế kim loại như Đại Bái, Đa Hội. Do hai làng nghề này sử dụng kim loại với mức độ sử dụng máy móc cao. 4.1.3. Nhận thức của người dân về sự nguy hại do ô nhiễm môi trường nước gây ra Một hậu quả lớn do ô nhiễm nước gây nên là các bệnh liên quan quan đến nguồn nước sinh hoạt hàng ngày của các hộ dân như: ung thư, tiêu chảy, viêm kết mạc Các bệnh này đang gia tăng trong những năm gần đây. Kết quả phỏng vấn về ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nước tới sức khỏe của người dân có tới trên 96% người được phỏng vấn trả lời rằng ô nhiễm nước ảnh hưởng tới sức khỏe của gia đình họ. Những chất gây ô nhiễm chủ yếu trong nước là các mầm bệnh sinh ra từ chất thải của con người (vi khuẩn và vi rút), kim loại nặng và hoá chất từ chất thải công nghiệp, nông nghiệp. Nước uống bị ô nhiễm hoặc thức ăn chế biến bằng nước nhiễm độc là hình thức phơi nhiễm phổ biến nhất. Ăn cá bắt từ nguồn nước bị ô nhiễm cũng có thể nguy hiểm vì chúng có thể mang mầm bệnh và tích luỹ các chất độc hại như kim loại nặng và các chất hữu cơ bền thông 76 qua quá trình tích luỹ sinh học. Ngoài ra, con người cũng có thể bị ảnh hưởng bởi cây trồng được tưới bằng nước ô nhiễm hoặc do đất bị nhiễm bẩn bởi các dòng sông ô nhiễm dâng lên. Các mầm bệnh trong nước ô nhiễm có thể gây ra hàng loạt các bệnh liên quan đến đường ruột, đặc biệt nguy hiểm và có thể gây tử vong đối với trẻ em và những người có thể trạng nhạy cảm. Những chất độc tích luỹ trong cá và các loại thức phẩm khác ít có nguy cơ gây độc cấp tính nhưng lại có thể để lại hậu quả lâu dài. Trên các địa bàn được nghiên cứu, các làng nghề tái chế sắt thép Đa Hội, đúc đồng Đại Bái là nhóm làng nghề có tỷ lệ người mắc bệnh liên quan tới ô nhiễm rất cao. Nguyên nhân là do người dân tại đây tiếp cận thường xuyên với hơi khí độc, nhiệt độ, tiếng ồn và chất thải rắn. Các bệnh phổ biến là bệnh hô hấp, bệnh ngoài da, bệnh thần kinh và ung thư. Bên cạnh đó, các nguy cơ tại nạn thương tích đối với người lao động làng nghề như nổ lò, điện giật, bỏng, ngã, gãy tay, vật nặng đè cũng đáng báo động. Tại làng nghề giấy Phong Khê, Khắc Niệm, Yên Phụ các bệnh về đường hô hấp, bệnh da liễu và đường ruột là những bệnh phổ biến. Kết quả tổng hợp ô nhiễm môi trường nước ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh cho thấy, các nguồn nước thải, nước mặt bị ô nhiễm nghiêm trọng, nguồn nước ngầm ở nhiều địa phương có dấu hiệu nhiễm Mangan vượt mức cho phép. Tại nhiều làng nghề, nguồn nước mặt có hàm lượng Coliform vượt TCCP nhiều lần. Đây là loại vi khuẩn gây ra nhiều bệnh đường ruột nguy hiểm với hàng loạt các chứng rối loạn đường tiêu hóa như: đau bụng, tiêu chảy, sốt kèm theo, mất nước, rối loạn máu, mệt mỏi Nếu Coliform xâm nhập vào các đối tượng có sức đề kháng yếu như trẻ em và người cao tuổi thì bệnh sẽ có khả năng chuyển biến xấu và nghiêm trọng hơn. Tại các làng nghề sản xuất đồng nhôm, sắt thép, nguồn nước mặt ô nhiễm do các chỉ tiêu BOD5, amoni, nitrite và sắt cao hơn TCCP nhiều lần. Nước trong các ao, hồ tanh hôi ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống và sản xuất nông nghiệp của người dân. Không chỉ vậy, nếu người dân sử dụng nguồn nước bị nhiễm nitrite để sinh hoạt có thể gây nên ung thư. Nguồn nước ngầm ở một số làng nghề có chỉ tiêu Mangan vượt mức cho phép, trong khi đó nhiều hộ gia đình vẫn sử dụng nước giếng khoan trong sinh hoạt hàng ngày. Nước ngầm có hàm lượng Mangan cao có thể gây ra các độc tố ảnh hưởng tới con người. Nhiễm độc Mangan từ nước uống làm giảm khả năng 77 ngôn ngữ, giảm trí nhớ, giảm khả năng vận động, nếu nhiễm độc Mangan lâu ngày có thể dẫn đến triệu chứng thần kinh không bình thường. Có khoảng 68,2% hộ cho rằng hoạt động sinh hoạt của họ như tắm rửa, giặt giũ, nấu ăn và các hoạt động sản xuất, sinh hoạt khác bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi ô nhiễm môi trường nước. Tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh, rất nhiều hộ gia đình vẫn đang sử dụng nguồn nước máy gia đình trong sinh hoạt thay vì nguồn nước sạch từ các nhà máy sản xuất nước. Với những hộ gia đình này, ảnh hưởng của nguồn nước ngầm bị ô nhiễm càng rõ rệt. Bên cạnh đó, rất nhiều hộ phàn nàn ô nhiễm môi trường nước đã ảnh hưởng tới hoạt động kinh tế, sản xuất. Do tỷ lệ người dân mắc bệnh gia tăng đã ảnh hưởng không nhỏ tới kinh tế của gia đình. Những hộ gia đình phụ thuộc vào nguồn nước mặt và nước ngầm để tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản, sản xuất nghề, ô nhiễm nguồn nước khiến năng suất cây trồng, vật nuôi suy giảm. Ô nhiễm môi trường nước làng nghề đã làm nhiều ao, hồ, sông ngòi trước đây là nơi nuôi trồng rau, nuôi cá thì nay phải bỏ hoang. Hậu quả của ô nhiễm nước cũng làm giảm sức thu hút đối với du lịch.Ô nhiễm môi trường nước gây tác hại xấu tới sức khỏe người lao động và cộng đồng dân cư làng xã, làm tăng chi phí khám, chữa bệnh, làm giảm năng suất lao động, mất ngày công lao động do nghỉ ốm đau. Những nghiên cứu trước đây cho thấy, tại Bắc Ninh chi phí điều trị các loại bệnh của người dân trong làng nghề cao gấp 3 lần so với những người dân sống trong các làng thuần nông. Từ những tác động xấu đó, ô nhiễm môi trường nước đã gây thiệt hại kinh tế cho các hộ. Một số ít người được phỏng vấn nhận định môi trường nước bị ô nhiễm đã ảnh hưởng tới các hoạt động vui chơi, giải trí, lễ hội truyền thống tại địa bàn họ sinh sống. Tỷ lệ các hộ đánh giá về sự ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nước tới sức khỏe, sinh hoạt, sản xuất, kinh tế giữa hộ thuần nông và hộ làm nghề tương đối giống nhau, điều này cho thấy những thiệt hại do ô nhiễm môi trường nước gây ra rất lớn, ảnh hưởng tới tất cả người dân sinh sống trên địa bàn làng nghề. Nhận định về nguồn gây ô nhiễm, kết quả điều tra cho thấy nước thải từ hoạt động sản xuất nghề được người dân coi là nguyên nhân chính gây nên ô nhiễm môi trường nước. Đáng lưu ý có tới 81,03% hộ làm nghề thừa nhận nước thải từ các cơ sở sản xuất nghề truyền thống trong làng đã gây nên ô nhiễm môi trường nước. 78 Bảng 4.4. Nhận thức của người dân về ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nước tại các làng nghề Bắc Ninh Đơn vị tính: % Chỉ tiêu Hộ làm nghề Hộ thuần nông Trung bình Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường nước đến sản xuất, sinh hoạt và sức khỏe Sức khỏe 96,21 95,77 95,9 Sinh hoạt 78,28 64,08 68,2 Kinh tế 16,90 21,55 20,2 Sản xuất 25,52 24,93 25,1 Khác 1,38 0,99 1,1 Nguồn gây ô nhiễm Nước thải sinh hoạt 40,00 38,59 39 Nước thải sản xuất nghề 81,03 72,25 74,8 Nước thải từ các khu công nghiệp 32,76 44,23 40,9 Khác 0,34 1,69 1,3 Các làng nghề ở Bắc Ninh nhìn chung có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu. Các cơ sở sản xuất nằm xen kẽ tại cá khu dân cư càng làm cho tình trạng ô nhiễm nước thải tại các làng nghề tiếp tục gia tăng. Kết cấu hạ tầng nông thôn như đường, cống, rãnh thoát nước thải không đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất. Tại các làng nghề chế biến nông sản như Yên Phụ, Khắc Niệm, nước thải từ các khâu lọc tách bã, tách bột đen của quá trình sản xuất tinh bột từ sắn, dong riềng, nước thải từ quá trình chăn nuôi và giết mổ được xả thẳng vào môi trường, gây ô nhiễm môi trường nước sông Tào Khê và hệ thống kênh mương dẫn nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp đối với các xã khu vực xung quanh. Tại làng nghề sản xuất giấy Phong Khê, các cơ sở sản xuất không lắp đặt hệ thống xử lý khí thải khiến môi trường không khí bị ô nhiễm nặng nề. Làng nghề sử dụng khối lượng nước lớn và phát sinh ra khối lượng nước thải với nồng độ các chất gây ô nhiễm cao. Nước thải không qua hệ thống xử lý là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường sông Ngũ Huyện Khê. Nước thải sinh hoạt từ các hộ gia đình cũng là một trong những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nước ở các làng nghề. Có khoảng 39% người được phỏng vấn cho rằng nước thải sinh hoạt chưa được xử lý đã xả ra môi trường là một trong 79 những yếu tố khiến chất lượng nước ở đây bị suy giảm. Nước thải sinh hoạt là loại hình nước thải lớn tại Việt Nam ở hầu hết các vùng đô thị và nông thôn. Ở các làng nghề tỉnh Bắc Ninh, nước thải sinh hoạt được phát sinh với khối lượng lớn hơn nhiều so với các làng không sản xuất nghề. Do các làng nghề thu hút một lượng lớn lao động từ các địa phương khác tới sinh sống và sản xuất. Ở khu vực đô thị, lượng nước thải sinh hoạt phát sinh trung bình 120 lít/người/ngày, ở khu vực nông thôn lượng phát sinh trung bình 80 lít/người/ngày. Tại Bắc Ninh, lượng phát sinh trung bình của nước thải sinh hoạt lớn hơn rất nhiều, trung bình 151 lít/người/ngày (Tổng cục Môi trường, 2019). Áp lực dân số từ các làng nghề khiến cho lượng nước thải phát sinh trên một đơn vị diện tích ở khu vực làng nghề tỉnh Bắc Ninh lớn hơn nhiều so với các khu vực khác, dẫn tới tình trạng quá tải của các hệ thống thoát nước và tiếp nhận nước thải. Các ao, hồ, kênh mương ở khu vực làng nghề ô nhiễm do phải tiếp nhận lượng nước thải khổng lồ từ sản xuất và sinh hoạt của người dân. Đáng lo ngại, có 40,9% người được phỏng vấn nhận định rằng nước thải từ các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh cũng góp phần gây ô nhiễm. Đối với các khu công nghiệp, mặc dù đã có hệ thống xử lý nước thải tập trung, tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng đấu nối nước thải với hệ thống này. Ví dụ tại KCN Đại Đồng – Hoàn Sơn có 65 cơ sở đang hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng chỉ có 30 doanh nghiệp có biên bản thỏa thuận đấu nối nước thải với công ty cổ phần công nghệ viễn thông Sài Gòn để thu gom nước thải tập trung của KCN. Bên cạnh đó, nhiều cụm công nghiệp của tỉnh chưa có hệ thống này. Theo kết quả phỏng vấn sâu người dân nơi đây, cả chục doanh nghiệp sản xuất giấy thuộc cụm công nghiệp Phú Lâm xả thẳng nước thải ra sông Ngũ huyện khê và sông Cầu, khiến cho cá chết la liệt, dạt trắng hai bên bờ sông. Cụm công nghiệp Tiên Du cũng thường xuyên xả nước thải vào kênh mương chạy qua các khu vực có dân cư sinh sống. Kết quả phỏng vấn các hộ gia đình làm nghề cho thấy có tới 86,4% hộ không có biện pháp nào để xử lý nước thải trước khi xả ra môi trường. Một tỷ lệ nhỏ các hộ (khoảng 13,4%) ở làng nghề chế biến nông sản sử dụng các biện pháp như tái sử dụng chất thải sản xuất cho hoạt động nông nghiệp. Phần lớn người được phỏng vấn cho rằng nước thải từ hoạt động sản xuất nghề đã gây nên ô 80 nhiễm môi trường nước, nhưng chỉ có 11% hộ sản xuất phải nhận những phàn nàn, kêu ca từ các hộ gia đình khác. Để giải quyết các mâu thuẫn này, các hộ đã thông qua trao đổi hoặc xây dựng đường ống xả thải riêng. Chúng ta có thể giải thích điều này thông qua văn hóa làng xã của Việt Nam cũng như việc các hoạt động sản xuất nghề truyền thống đã có hàng ngàn năm nay. Như vậy, có thể thấy người dân tại các làng nghề đều xác định, nhận thức được các tác nhân gây nên ô nhiễm môi trường nước. Tuy nhiên, hoạt động sản xuất nghề đã có từ hàng chục năm đến hàng trăm năm nay, là một phần vô cùng quan trọng trong truyền thống văn hóa, góp phần lớn vào kinh tế của người dân làng nghề khiến cho người dân ở đây coi vấn đề ô nhiễm là tất yếu của sản xuất nghề và chấp nhận sống cùng ô nhiễm. 4.1.4. Quan điểm của người dân về sự cần thiết cải thiện chất lượng môi trường nước tại các làng nghề tỉnh Bắc Ninh Quan điểm của người dân về vấn đề môi trường là chủ đề đã được nhiều nghiên cứu trước đây khẳng định. Báo cáo chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt nam (PAPI) 2016 của CECODES, VFF-CRT, RTA & UNDP (2017) cho thấy ngày càng có nhiều người quan tâm tới môi trường hơn những năm trước. Báo cáo này cũng khẳng định vấn đề bảo vệ môi trường là vấn đề hệ trọng thứ hai sau vấn đề đói nghèo. Khi phân tích quan điểm của người dân về bảo vệ môi trường theo đặc điểm nhân khẩu học, trình độ học vấn là yếu tố quyết định nhiều nhất. Báo cáo này chỉ rõ, nhóm dân cư có trình độ học vấn cao hơn quan ngại về điều kiện môi trường nhiều hơn và đây cũng là nhóm bày tỏ sự sẵn sàng đánh đổi tăng trưởng kinh tế để bảo vệ môi trường tốt hơn. Trong các vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nước và không khí là hai vấn đề ô nhiễm đáng quan ngại nhất. Từ những kết quả chung đó, trong nghiên cứu này, tác giả đã tiến hành phân tích quan điểm của người dân về cải thiện chất lượng môi trường nước theo yếu tố trình độ học vấn của người được phỏng vấn. Kết quả nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh cho thấy, hầu hết người dân nhận biết được những ảnh hưởng của môi trường nước bị ô nhiễm tới sức khỏe, đời sống cũng như hoạt động sản xuất của gia đình họ. 81 Bảng 4.5. Quan điểm của người dân về sự cần thiết cải thiện chất lượng môi trường nước bị ô nhiễm Quan điểm TRÌNH ĐỘ HỌC VẤN Dưới THPT THPT TC/CĐ ĐH/trên ĐH Số lượng (hộ) % Số lượng (hộ) % Số lượng (hộ) % Số lượng (hộ) % 1. Tầm quan trọng của xử lý nước thải Rất quan trọng 358 62,5 228 74 47 77 45 76 Quan trọng 211 36,8 78 25 14 22 13 22 Không quan trọng 3 0,52 1 0,3 0 0,0 1 1,7 2. Đánh đổi giữa phát triển kinh tế và chất lượng môi trường nước Đồng ý 201 35,1 57 18,6 7 11,5 7 11,7 Không đồng ý 371 64,9 250 81,4 54 88,5 53 88,3 3. Hy sinh một phần thu nhập để cải thiện môi trường nước Đồng ý 548 96,1 299 97,4 61 100 58 96,7 Không đồng ý 22 3,9 8 2,6 0 0 2 3,3 4. Các hộ sản xuất nên trả phí cao hơn Đồng ý 447 78,1 252 82,1 42 68,9 39 65 Không đồng ý 125 21,9 55 17,9 19 31,1 21 35 5. Chính sách hữu ích để nâng cao môi trường nước là chính sách của Trung ương 108 18,9 44 14,6 9 15 13 22 Tỉnh 179 31,4 79 26,2 11 18,3 12 20,3 Huyện 181 31,7 148 49 37 61,7 28 47,5 Hương ước làng 103 18 31 10,2 3 5 6 10,2 6. Việc thu phí từ các hộ gia đình nên thông qua Các tổ chức xã hội 165 28,85 48 15,64 10 16,39 15 25 Hóa đơn nước 312 54,55 213 69,38 44 72,13 32 53,3 Hóa đơn điện 94 16,43 46 14,98 7 11,48 12 20 Khác 1 0,17 0 0 0 0 1 1,7 Nhận thức được những mối nguy hại từ ô nhiễm môi trường nước, dân cư sống trong khu vực làng nghề đều thấy được tầm quan trọng của việc cải thiện chất lượng nước. Mặc dù quan điểm của họ về việc nâng cao chất lượng nước 82 không giống nhau, nhưng có thể thấy người dân có nhu cầu về cải thiện chất lượng môi trường nước hiện tại.Như đã phân tích ở trên, hầu hết người dân đều nhận diện được tác hại của ô nhiễm môi trường nước. Nhưng, hoạt động sản xuất nghề đã giải quyết công việc cho hàng chục nghìn lao động trong và ngoài tỉnh, góp phần tăng thu nhập. Để thấy rõ được mối quan hệ giữa quan điểm trong việc đánh đổi giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường, và trình độ học vấn như thế nào, các tiêu chí phân tích được thể hiện ở bảng 4.5. Kết quả điều tra khá tương đồng với Báo cáo chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) 2016. Cụ thể: Khi đưa ra quan điểm đánh đổi giữa phát triển kinh tế và chất lượng môi trường nước thì tỷ lệ người có trình độ học vấn cao hơn (trình độ Trung cấp/Cao đẳng (TC/CĐ) và Đại học/trên ĐH (ĐH/trên ĐH) không đồng ý đánh đổi là trên 88% cao hơn so với tỷ lệ người có trình độ học vấn thấp hơn nhưng không đồng ý với quan điểm đó.Bên cạnh đó, khi được hỏi về tầm quan trọng của xử lý nước thải thì tỷ lệ người có trình độ học vấn cao đánh giá việc xử lý nước thải là rất quan trọng cao hơn so với tỷ lệ người có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông (THPT). Tỷ lệ người sẵn sàng hy sinh một phần thu nhập để cải thiện chất lượng môi trường nước trong các làng nghề rất cao (trên 96%) và tương đối giống nhau giữa các nhóm đáp viện có trình độ học vấn khác nhau. Điều này cho thấy nhu cầu cải thiện chất lượng nước tại các địa bàn nghiên cứu là rất lớn. Thực tế, mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường luôn là bài toán khó giải, nhất là trong điều kiện các làng nghề. Tại cuộc họp thường niên lần thứ 67 của Hiệp hội Kinh tế châu Mỹ vào tháng 12/1954, Simon Kuznets lần đầu tiên giới thiệu về khái niệm đường cong Kuznets, mô tả mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và vấn đề bất bình đẳng thu nhập. Đến năm 1991, đường cong Kunets trở thành phương tiện để mô tả mối quan hệ giữa chất lượng môi trường và thu nhập đầu người theo thời gian. Nhiều bằng chứng cho thấy, mức độ suy thoái môi trường và mức thu nhập đầu người cũng tuân theo quy luật đường cong U ngược Kuznets: suy thoái môi trường gia tăng trong các giai đoạn đầu của phát triển, nhưng cuối cùng sẽ đạt đến đỉnh hay ngưỡng chuyển đổi và bắt đầu giảm khi thu nhập vượt một mức nào đó. Đối với các làng nghề, logic này cũng khá dễ hiểu. Vào thời kỳ đầu của quá trình phát triển các làng nghề, ô nhiễm môi trường gia tăng một cách nhanh chóng do người dân đặt ưu tiên cao cho việc gia tăng năng suất đầu ra, 83 việc làm và thu nhập hơn là quan tâm tới không khí hay nguồn nước sạch. Khi các làng nghề phát triển tới một mức nào đó, thu nhập của người dân gia tăng, mối quan tâm của người dân lúc này nghiêng về sức khỏe, môi trường và các giá trị khác của cuộc sống. Đồng thời, các cơ quan thi hành cũng trở nên nghiêm khắc hơn, các chính sách môi trường, luật pháp hoạt động hiệu quả hơn; các công nghệ sạch, công nghệ tiên tiến được áp dụng tạo điều kiện để cải thiện môi trường làng nghề. Như vậy, theo lý thuyết sự tăng ô nhiễm môi trường là điều không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế. Tuy nhiên sẽ rất nguy hiểm nếu người làm chính sách coi ô nhiễm môi trường không phải là vấn đề bởi nó sẽ được phục hồi theo đúng đường cong Kuznets. Bởi sự phục hồi của chất lượng môi trường có xảy ra hay không, nhanh hay chậm phụ thuộc vào hành động của con người. Trong trường hợp các làng nghề của tỉnh Bắc Ninh, thông qua những phản hổi của người dân, đặc biệt là sự sẵn sàng đánh đổi giữa phát triển kinh tế và ô nhiễm môi trường có thể nhận thấy người dân đã nhận thức về giá trị môi trường bên cạnh những giá trị kinh tế mà phát triển làng nghề đem lại. Điều này cũng đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách cần phải đưa ra quyết sách nhanh chóng, đúng đắn trong việc điều phối nguồn ngân sách tăng lên, nâng cao năng lực của hệ thống quản lý môi trường, nghiên cứu chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến. Sự khác nhau về quan điểm trong bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế giữa nhóm chủ hộ có trình độ học vấn cao và nhóm chủ hộ có trình độ học vấn t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghien_cuu_muc_san_long_chi_tra_cua_nguoi_dan_nham_c.pdf
Tài liệu liên quan