CẢM TẠ . i
TÓM LƯỢC . ii
ABSTRACT. iii
LỜI CAM ĐOAN. iv
MỤC LỤC. v
DANH SÁCH BẢNG . ix
DANH SÁCH HÌNH. xii
TỪ VIẾT TẮT. xv
CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU . 1
1.1. ặt ấn đề . 1
1.2. Mục tiêu đề tài. 2
1.3. Ý nghĩa của luận án . 2
1.4. Tính mới của luận án . 2
CHƯƠNG II. LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU. 4
2.1. Bệnh Beta thalassemia. 4
2.1.1. Đặc điểm phân tử của bệnh Beta thalassemia . 4
2.1.2. Di truyền bệnh Beta thalassemia . 5
2.1.3. Cơ chế gây mất chức năng sinh học của các kiểu đột biến gen betaglobin. 5
2.1.4. Đột biến gây bệnh Beta thalassemia . 7
2.1.5. Các thể bệnh Beta thalassemia. 11
2.1.6. Chẩn đoán bệnh Beta thalassemia. 14
2.1.7. Điều trị Beta thalassemia . 16
2.1.8. Phòng bệnh Beta thalassemia. 17
2.2. Phương pháp lập à phân tích phả hệ bệnh Beta thalassemia. 18
2.2.1. Ý nghĩa của phương pháp nghiên cứu phả hệ. 18
2.2.2. Phương pháp lập phả hệ . 19
2.2.3. Phân tích phả hệ. 19vi
2.2.4. Các ký hiệu dùng để lập gia hệ . 20
2.3. Tư ấn di truyền à các phương pháp chẩn đoán trước sinh phòng bệnh
Beta thalassemia. 21
2.3.1. Tư vấn di truyền cho bệnh nhân Beta thalassemia . 21
2.3.2. Các phương pháp chẩn đoán trước sinh bệnh Beta thalassemia . 22
2.4. Tổng quan các nghiên cứu ề đột biến gây bệnh Beta thalassemia tại Việt
Nam . 28
CHƯƠNG III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 32
3.1. ối tượng nghiên cứu . 32
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 1: xác định tỷ lệ kiểu đột biến
gen. 32
3.1.2. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 2: xây dựng phả hệ. 32
3.1.3. Đối tượng nghiên cứu cho mục tiêu 3: tư vấn di truyền cho người
mang gen bệnh. 32
3.2. Thời gian à địa điểm nghiên cứu. 33
3.3. Phương pháp nghiên cứu. 33
3.3.1. Thiết kế nghiên cứu. 33
3.3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu . 33
3.3.3. Nội dung nghiên cứu . 35
3.3.4. Phương pháp thu thập số liệu. 40
3.3.5. Phương pháp hạn chế sai số . 52
3.3.6. Phương pháp xử lý số liệu. 52
3.4. Hạn chế của đề tài . 53
3.5. ạo đức trong nghiên cứu . 53
CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ . 55
4.1. ặc điểm của đối tượng nghiên cứu . 55
4.1.1. Đặc điểm của đối tượng tham gia xác định kiểu đột biến . 55
4.1.2. Đặc điểm của đối tượng xây dựng phả hệ . 56
4.1.3. Đặc điểm của đối tượng tư vấn . 57
4.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến gen beta-globin gây bệnh Beta thalassemia . 58
4.2.1. Các kỹ thuật sinh học phân tử xác định đột biến gen β-globin. 58vii
4.2.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến gen gây bệnh và các thể bệnh Beta
thalassemia ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long . 61
4.3. Phả hệ di truyền của một số bệnh nhân Beta thalassemia . 70
4.3.1. Xây dựng phả hệ di truyền . 70
4.3.2. Tỷ lệ mang gen bệnh trong phả hệ nghiên cứu. 81
4.3.3. Tỷ lệ các kiểu đột biến trong 12 phả hệ . 84
4.3.4. Tỷ lệ các thể bệnh trong phả hệ nghiên cứu . 84
4.3.5. Kiểu hình huyết học của các thể bệnh Beta thalassemia trong các
phả hệ . 85
4.4. Tư ấn di truyền cho những người mang gen bệnh Beta thalassemia trong
các phả hệ nghiên cứu . 87
4.4.1. Kiến thức đúng về bệnh Beta thalassemia . 87
4.4.2. Kiến thức đúng về chăm sóc bệnh nhân Beta thalassemia. 88
4.4.3. Kiến thức đúng về phòng bệnh Beta thalassemia . 89
4.4.4. Ứng dụng kết quả tư vấn di truyền vào phòng bệnh Beta
thalassemia . 89
CHƯƠNG V. THẢO LUẬN . 91
5.1. ặc điểm của đối tượng nghiên cứu . 91
5.1.1. Đặc điểm của đối tượng tham gia xác định kiểu đột biến. 91
5.1.2. Đặc điểm của đối tượng xây dựng phả hệ . 92
5.1.3. Đặc điểm của đối tượng tư vấn. 92
5.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến gen β-globin gây bệnh Beta thalassemia . 93
5.2.1. Các kỹ thuật sinh học phân tử dùng để xác định đột biến gen beta
globin. 93
5.2.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến gen gây bệnh và các thể bệnh Beta
thalassemia ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. 97
5.3. Phả hệ di truyền của một số bệnh nhân Beta thalassemia . 110
5.3.1. Xây dựng phả hệ di truyền. 110
5.3.2. Tỷ lệ mang gen bệnh trong phả hệ nghiên cứu . 115
5.3.3. Tỷ lệ các kiểu đột biến trong 12 phả hệ nghiên cứu . 117
5.3.4. Các thể bệnh Beta thalassemia và kiểu hình huyết học . 117viii
5.3.5. Ứng dụng kết quả nghiên cứu vào sàng lọc các thể bệnh trong gia
đình bệnh nhân và cộng đồng . 123
5.4. Tư ấn di truyền cho người mang gen đột biến trong các phả hệ. 126
5.4.1. Kiến thức về bệnh Beta thalassemia. 126
5.4.2. Kiến thức về chăm sóc bệnh nhân Beta thalassemia. 129
5.4.3. Kiến thức về phòng bệnh Beta thalassemia . 130
5.4.5. Ứng dụng kết quả tư vấn di truyền vào phòng bệnh Beta
thalassemia . 131
CHƯƠNG VI. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT. 135
6.1. Kết luận . 135
6.1.1. Tỷ lệ các kiểu đột biến gen gây bệnh và thể bệnh Beta thalassemia
ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long . 135
6.1.2. Phả hệ di truyền của một số bệnh nhân Beta thalassemia. 135
6.1.3. Tư vấn di truyền cho người mang gen trong 12 phả hệ . 136
6.2. ề xuất . 136
TÀI LIỆU THAM KHẢO. 137
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: tờ thông tin dành cho bệnh nhân và gia đình nghiên cứu.
Phụ lục 2: phiếu đồng thuận nghiên cứu về bệnh Beta thalassemia
Phụ lục 3: phiếu thông tin
Phụ lục 4: bộ câu hỏi đánh giá kiến thức tư vấn di truyền
Phụ lục 5: kết quả MLPA trên gen α/β-globin của bệnh nhân Nguyễn
Thị Thu H và Nguyễn Thị Mộng N
Phụ lục 6: danh sách bệnh nhân tham gia xác định kiểu đột biến
Phụ lục 7: danh sách các đối tượng tham gia trong 12 phả hệ
200 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 557 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Nghiên cứu sự di truyền các đột biến gây bệnh ở bệnh nhân Beta - Thalassemia vùng đồng bằng sông Cửu Long bằng kỹ thuật sinh học phân tử - Phạm Thị Ngọc Nga, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c gen Delta đến 0,5kb sau của exon 3 thuộc gen β-globin tạo thể bệnh δβ-
Thal. Và một ĐB mất một đoạn từ vị trí promoter đến hết exon 1 của gen β-
globin tạo thành dạng bệnh β-Thal rất hiếm gặp.
Tuy hiệu quả chẩn đoán mắc bệnh cao, nhưng MLPA chỉ phát hiện được
ĐB mất hoặc nhân đoạn lớn, nên với các ĐB điểm và vi mất đoạn, MLPA sẽ
không hiệu quả.
Tóm lại, cả 3 k thuật: RDB, SEQ, MLPA đều có độ đặc hiệu cao trong
phát hiện ĐB gây bệnh β-Thal dù chi phí khá đắt khoảng 2 triệu Việt Nam
đồng/1 mẫu. Nghiên cứu chưa ghi nhận sự bỏ sót ĐB nào ở phạm vi xác định
của từng k thuật trong tất cả các mẫu khảo sát. Sự phối hợp của cả 3 phương
pháp đã giúp chẩn đoán 100% các kiểu ĐB trên 341 bệnh nhân β-Thal khu vực
ĐBSCL và các kết quả này đều phù hợp với lâm sàng.
Phát hiện ĐB và phát hiện khác về thể bệnh là điểm bắt đầu cho việc lập
kế hoạch điều trị bệnh β-Thal bằng công nghệ gen: chỉnh sửa khuyết tật trong
gen β-globin, thay thế gen β-globin hay đơn giản nhất là kích thích sự tổng
hợp γ-globin giúp giảm tình trạng thiếu máu hiện tại (Schweiz Med
Wochenschr, 1983 . Tuy nhiên, mỗi k thuật sẽ phát huy tốt ưu điểm và hạn
chế được khuyết điểm trong từng tình huống bệnh cần chẩn đoán. Nghiên cứu
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 97 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
tổng hợp lại các ưu, khuyết điểm và tình huống nên chỉ định của từng xét
nghiệm trong bảng 5.1.
Bảng 5.1. Ưu khuyết điểm của k thuật RDB, SEQ, MLPA
Kỹ thuật Ưu điểm Khuyết điểm Áp dụng
RDB
Nhanh, độ đặc
hiệu cao, dễ
thực hiện.
Chỉ xác định ĐB có
probe dò.
Quần thể đã biết ĐB
phổ biến, gia đình đã
biết tiền sử kiểu gen
ĐB di truyền.
SEQ
Phát hiện các
ĐB điểm và vi
mất đoạn trong
vùng SEQ.
Thực hiện tốn thời
gian, bỏ sót các mất
đoạn lớn hoặc ĐB
ngoài vùng SEQ
Quần thể chưa biết ĐB
phổ biến, gia đình đã
chưa biết tiền sử kiểu
gen ĐB di truyền.
MLPA
Phát hiện được
các ĐB mất
đoạn lớn trên
cả c m gen β.
Không phát hiện
được ĐB điểm và vi
mất đoạn.
Sử d ng cho các bệnh
nhân chưa xác định
được ĐB bằng các k
thuật khác.
5.2.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến gen gây bệnh à các thể bệnh Beta
thalassemia ở khu ực Đồng bằng sông Cửu Long
5.2.2.1. Tỷ lệ đột biến gen gây bệnh β-Thal ở khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long
* Các kiểu đột biến phổ biến:
Có 17 kiểu ĐB được xác định trên 609 alen của 341 bệnh nhân β-Thal
khu vực ĐBSCL. Trong đó, 8 kiểu ĐB phổ biến của Việt Nam: Cd26G>A,
Cd41/42 delTTCT, Cd17A>T, -28A>G, IVS1.1G>T, IVS2.654C>T,
Cd71/72+A và Cd95+A chiếm đến 97,2% trên tổng số. Tỷ lệ mỗi kiểu ĐB
không giống nhau, nhưng kết quả nghiên cứu cho thấy ĐB ở vùng ĐBSCL
cũng tập trung các vào các kiểu phổ biến như ở các vùng miền khác và các
nghiên cứu của các tác giả khác khi tìm ĐB ở khu vực phía nam.
Ngoại trừ, đột biến Cd26 G>A gây HbE chiếm tỷ lệ cao, thì hai ĐB hay
gặp nhất là βCd41/42 và βCd17. Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu của
Trần Minh Hiếu, 2001 trên bệnh nhân β-Thal tại bệnh viện Truyền máu Huyết
học thành phố Hồ Chí Minh tỷ lệ đột biến βHbE (31%), βCd41/42 (25%) và βCd17
(17% . Nghiên cứu năm 2003 của Trương Đình Kiệt và ctv phát hiện được 8
loại ĐB trong đó đột biến βCd41/42 (23,18%) và βCd17 (20% vẫn chiếm tỷ lệ cao
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 98 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
nhất và còn nhiều nghiên cứu khác như Lê Thị Hảo, Filon et al, Svasti kết hợp
với các cộng sự người Việt (Bảng 5.2 .
Bảng 5.2. Tỷ lệ 8 kiểu đột biến của nghiên cứu so sánh với nghiên cứu khác
Kiểu
đột
biến
Tỷ lệ
Filon
(2000)
n = 23
Lê
Thị
Hảo
(2001)
n = 44
Svasti
(2002)
n = 50
Trương
Đình
Kiệt
(2003)
n = 206
Nguyễn
Khắc
Hân
Hoan
(2007)
n = 26
Phạm
Thanh
Loan
(2014)
n = 28
Nghiên
cứu này
(2017)
n = 341
βCd41/42 34,5 27 35,3 23,18 33,3 30,4 23,3
βCd17 48,3 20 25 20 12,1 21,4 21
βHbE - 29 - 40 21,2 17,8 33,8
β-28 0 4,5 7,3 4,5 0 5,4 4,6
βIVS1.1 0 1 6 1 9,1 8,9 3,6
βIVS2.654 0 6 7,3 4 12,1 1,8 4,2
βCd71/72 3,4 4,5 7,3 4 12,1 8,9 4,6
βCd95 13,8 6 10,3 2,5 0 1,8 2,1
Khác 0 2 1,5 0,92 0 3,6 2,8
Như vậy, kết quả nghiên cứu của đề tài một lần nữa khẳng định tại Việt
Nam các ĐB tìm gặp trên bệnh nhân β-Thal phần lớn đều rơi vào 8 loại ĐB
phổ biến tương tự như nhiều tác giả đã nghiên cứu trước đây (Bảng 5.2).
- Đột biến gây HbE:
Hemoglobin E là đột biến phổ biến nhất ở châu Á đặc biệt là Đông Nam
Á. ĐB này được ước tính đã xuất hiện từ 5.000 năm trước (Ohashi et al,
2004). Một số nước như: Thái Lan, Myanmar, Campuchia, Lào, nơi tỷ lệ hiện
nhiễm có thể lên đến 50-60% (Fucharoen, S., Winichagoon, P., 1992). Vùng
Đông Bắc Thái Lan, ĐB từ 50-70%. Tại Sri Lanka có 40% đột biến gây β-
Thal là βHbE và ĐB này cũng thường thấy ở Bangladesh và Indonesia ở người
gốc Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Quốc và Philipine. Trong nghiên cứu này có 203/609
alen (33,8%) mang đột biến HbE, như vậy HbE ở khu vực ĐBSCL thấp hơn
các quốc gia trong khu vực. Nhưng HbE vẫn là ĐB chiếm tỷ lệ cao hơn so với
các ĐB còn lại gây bệnh β-Thal.
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 99 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
- Đột biến phổ biến khác HbE
Theo Loukopoulos, D. và Kollia, P., 2001, ngoài sự lưu hành của HbE là
ĐB phổ biến nhất ở Đông Nam Á. So với các nước trong khu vực như Thái
Lan, Singapore và Nam Trung Quốc thì các đột biến: -28 A>G, Cd17 A>T,
Cd41/42 -TTCT,
IVS.1.1 G>A, IVS.2.654 C>T cũng là những ĐB hay gặp mà
nghiên cứu ghi nhận bên cạnh các ĐB khác mang tính chất đặc trưng cho từng
quốc gia (Bảng 5.3 . Trong các ĐB trên, bên cạnh ĐB gây HbE, -28 A>G và
Cd41/42 -TTCT là ĐB đặc trưng ở khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á
so với các khu vực khác trên thế giới, do tần số xuất hiện 2 loại ĐB này khá
cao (Kohne, E., 2011).
Bảng 5.3. Phân bố các kiểu đột biến của nghiên cứu so với một số nước tại
khu vực Đông Nam Á
Kiểu ĐB
Thái
Lan
Singapore Nam Trung
Quốc
Nghiên
cứu này Trung Quốc Malaysia
-28 A>G 56 8 3 48 28
+ 1 A>G 1 10 4
Mã mở đầu 1
IVS.1.1 G>A, T 25 1 10 8 22
IVS.1.5 G>C, T 71 27 56 3
IVS.2.654 C>T 42 47 5 22 26
Cd17 A>T 152 14 7 71 128
Cd19 A>G 54 3 11
Cd35 C>A 30
Cd 41 –C 7
Cd41/42 -TTCT 305 83 12 136 142
Cd 71/72 +A 16 2 11 28
Mất đoạn 3,4 Kb 17
Đột biến khác 18 3 13 16 26
Chưa r 45 12 2
Tổng alen mang ĐB 839 199 133 314 403
Tỷ lệ đột biến Cd41/42 -TTCT xuất hiện với tần suất khá cao ở các nước
trong khu vực châu Á: Trung quốc 41,84%, Indonesia 1,69%, Nhật 5,99%,
Hàn Quốc 4,17%, Malaysia 26,32%, Pakistan 6,7%, Punjabi 13,22%,
Singapore 37,59%, Đài Loan 30,63% và Thái Lan 37,24% và trong nghiên
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 100 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
cứu này là 23,3%. Không cao như Cd41/42 nhưng đột biến -28 A>G cũng
xuất hiện với tỷ lệ khá phổ biến: Trung Quốc 12,31%, Malaysia 6,43%, Đài
Loan 9,38%, Thái Lan 6,83%. Nghiên cứu này ghi nhận tỷ lệ kiểu đột biến -28
A>G chỉ có 4,6% thấp hơn các quốc gia trên nhưng lại cao hơn Nhật 0,32%.
- Đột biến đặc trưng của Việt Nam Cd95+A
Đột biến do sự chèn A vào trong codon 95 AAG của gen β-globin, làm
thay đổi khung đọc với sự chấm dứt của bản dịch tại codon 101 là một stop
codon thay vì stop ở codon 146. Đột biến này được công bố lần đầu tiên trong
nghiên cứu của Cai, S. và Chehab, F.F., 1996 trên 2 gia đình người Việt sống
tại M . Đột biến cũng được ghi nhận xuất hiện ở 1 ph nữ 26 tuổi ở Pháp và 1
gia đình tại Thái Lan với một tần số hiếm 0,12% (Winichagoon, P. et
al, 1992).
Ở nước ta, đột biến βCd95 được gặp với tần số cao hơn từ 1,8-13,8% tùy
nghiên cứu (Bảng 5.2 . Do vậy, ĐB đã được ghi nhận là một ĐB khá đặc trưng
của Việt Nam. Trong nghiên cứu này βCd95 có tần số là 2,1% và 100% các ĐB
được tìm trên dân tộc Kinh, không ghi nhận ĐB có ở dân tộc Hoa, Chăm hay
Khmer sống trong khu vực. Nên có thể nói ở khu vực ĐBSCL, βCd95 là ĐB đặc
trưng của người Kinh.
* Các đột biến không phổ biến
Có 6 kiểu ĐB hiếm đã được công bố bởi vài nghiên cứu trong hoặc ngoài
nước và 3 đột biến: βIVS2.499; βIVS2.636 và βCd38-39 là biến đổi mới chưa được ghi
nhận trong dữ liệu ĐB gây bệnh β-Thal trên thế giới được phát hiện tại khu
vực ĐBSCL bởi nghiên cứu (Bảng 4.8 .
- Kiểu βIVS1.5 (IVS1.5 G>C): tạo kiểu hình β+, ĐB xảy ra ở vị trí c.92+5
G>C của vùng Intron 1, ngay vị trí bám của enzyme cắt đoạn intron ở đầu 5’.
Chính ĐB đã làm giảm hiệu quả cắt intron 1 để gắn exon 1 và 2 trong quá
trình tạo mRNA thuần th c, nên chỉ làm giảm số lượng mRNA, tạo ra kiểu
hình thiếu máu nhẹ.
Đột biến ghi nhận xuất hiện trong nghiên cứu này với tỷ lệ 0,5%. Trong
nghiên cứu của Phạm Thanh Loan, 2014 ở bệnh nhân khu vực miền Bắc, ĐB
xuất hiện với tần số cao hơn 3,6%. Nên ở khu vực phía Bắc nước ta, đột biến
βIVS1.5 cũng được liệt vào ĐB phổ biến trong quá trình sàng lọc, chẩn đoán
bệnh β-Thal. Ở Việt Nam, βIVS1.5 là ĐB tìm gặp với tần số thấp <10%, nhưng ở
các quốc gia trong khu vực châu Á, ĐB này lại rất phổ biến: Bangladesh 60%,
Vương quốc Oman của Ả rập 61,6%, Pakistan 37,3%, và Đông Nam Á:
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 101 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
Indonesia 54,24%, Malaysia 26,9%, vùng Maharastra của Ấn Độ 6,55%,
(
- βCd26 (Cd26 G>T): đột biến xảy ra ở vị trí codon 26. Tại vị trí này
nucleotide loại G thường được thay thế thành A để tạo ra một ĐB phổ biến
HbE, quy định kiểu hình β+ (thiếu máu nhẹ, hoặc không có biểu hiện lâm
sàng . Tuy nhiên, nếu nucleotide loại G được thay bằng T thì GAG (Glu
>TAG (Stop codon , sẽ tạo ra kiểu hình β0.
Trong nghiên cứu này, kiểu đột biến βCd26 được ghi nhận với tỷ lệ rất
thấp 0,3% trên một bệnh nhân thể phối hợp HbE/β-Thal dân tộc Kinh, ở Bến
Tre và một người nữ cũng dân tộc Kinh ở Kiên Giang. Năm 2013, khi tìm ĐB
cho 498 sản ph và chồng đến khám tại bệnh viện Từ Dũ, Nguyễn Khắc Hân
Hoan cũng tìm được ĐB này với tỷ lệ 0,1%. Hiện tại, theo cơ sở dữ liệu ĐB
gen β-globin của Ithanet, đột biến βCd26 lần đầu tiên được tìm gặp trong một
gia đình sống ở Bắc Thái Lan, trong nghiên cứu của Goonnapa
Fucharoen,1990. Tác giả này cũng ghi nhận đột biến Cd26 G>T xuất hiện
trong cộng đồng Thái với tỷ lệ 0,12%.
- βCd15 (Cd15 G>A hay c48.G>A): đột biến thay acid amin Trytophan
thành stop codon ở vị trí c.48, gây ra kiểu hình β0 do tạo mRNA không thực
hiện được chức năng. Có 0,8% đột biến βCd15 được ghi nhận trong nghiên cứu,
ĐB xuất hiện trên các bệnh nhân dân tộc Kinh, không ghi nhận dân tộc khác
và cũng chưa tìm thấy nghiên cứu khác trong nước có ĐB này.
Trên thế giới, ĐB này chỉ tìm gặp ở Nhật 0,95%, Bồ Đào Nha 11,79% và
Nga 6,45%. Trong khi ĐB khác cũng xảy ra codon 15 và cùng một biến đổi
G>A nhưng xảy ra ở vị trí c.47 lại là một ĐB vô cùng phổ biến ở khu vực
Đông nam Á. Kết quả của nghiên cứu cho thấy đột biến Cd15 G>A phát hiện
được trong khu vực ĐBSCL là một ĐB hiếm, không thuộc ĐB phổ biến ở
Đông Nam Á. Do vậy, việc sử d ng các k thuật dò tìm ĐB phổ biến ở Đông
Nam Á sẽ bỏ sót ĐB này.
- βCd11 (Cd11G>A), đột biến thay acid amin Valin thành Isoleucin hay
còn gọi là Hb Hamilton. Đột biến được nghiên cứu ghi nhận với tỷ lệ rất thấp
0,2% trên một bệnh nhân người mang gen bệnh dân tộc Kinh, ở Tiền Giang.
Đột biến chưa tìm thấy ở các nghiên cứu khác trong nước. Đây cũng là ĐB
hiếm gặp trên thế giới và cả khu vực Đông Nam Á. Đột biến này được tìm
thấy đầu tiên trong một gia đình Úc sống ở Canada và trong một gia đình
Trung Quốc. Ở Sardinia, một vương quốc ở khu vực Địa Trung Hải Hb
Hamilton xuất hiện với tần số là 1/400 (0,25% (
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 102 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
- Tương tự βCd11 2 kiểu đột biến (-pro)del, ()del được tìm thấy trong
nghiên cứu với tỷ lệ mỗi kiểu là 0,2% và cũng chưa tìm thấy trong kết quả
nghiên cứu khác trong nước. Nguyễn Khắc Hân Hoan, 2013 cũng tìm thấy
được 2 kiểu mất đoạn ngoài gen β-globin: dell 1393bp và dell 9,6kb, đột biến
này có vị trí và lượng nucleotide mất cũng khác biệt với nghiên cứu.
* Các đột biến mới trong nghiên cứu
Có 3 bệnh nhân mang 3 đột biến mới được phát hiện bằng k thuật giải
trình tự. 100% các bệnh nhân là dân tộc Kinh. Trong đó, có 2 bệnh nhân ở thể
dị hợp tử kép do sự phối hợp ĐB mới với ĐB đã biết khác: βCd17/βCd38/39, -
pro)
del
/βIVS2.499 và một bệnh nhân thể dị hợp tử: βIVS2.636 (Bảng 4.8 .
Theo nghiên cứu của TIF và nhiều tác giả trong, ngoài nước nếu bệnh
nhân chỉ mang mỗi đột biến βCd17 hay đột biến -pro)del sẽ ở dạng thể nhẹ,
không có triệu chứng thiếu máu. Với chỉ số Hb ghi nhận trong nghiên cứu
thấp: bệnh nhân βCd17/βCd38/39 là 6,1g/dL; -pro)del/βIVS2.499 là 6,8g/dL (Bảng
4.10 . Kết hợp với lâm sàng cần truyền máu ph thuộc hàng tháng, ứ sắt nặng,
gan, lách to, biến dạng xương,... Nghiên cứu kết luận: hai ĐB mới là βCd38/39 và
βIVS2.499 cũng góp phần gây thiếu máu ở bệnh nhân với mức độ tương tự như
các bệnh nhân β-Thal thể nặng do hai ĐB khác nhau trên gen β-globin gây ra.
Tuy vậy, khi dựa trên chỉ số MCV, MCH và điện di Hb, nghiên cứu ghi
nhận tình trạng thiếu máu hồng cầu nhỏ, nhược sắc do MCV=71,8fL,
MCH=22,3pg và điện di bất thường với HbF tăng cao (HbA: 65,5%; HbA2:
2,7%; HbF: 32% ở bệnh nhân βCd17/βCd38/39. Các chỉ số ghi nhận tương tự như
β-Thal thể trung gian theo phân loại của Kohne, 2011 (Bảng 2.5 .
Tương tự, theo bảng phân loại này, dựa vào chỉ số Hb=10g/dL,
MCV=69,2fL, MCH=21pg và kết quả điện di: HbA: 89,8%; HbA2: 6%; HbF:
4,2%. Kết hợp với lâm sàng thiếu máu nhẹ và không cần truyền máu. Nghiên
cứu kết luận: bệnh nhân dị hợp tử với kiểu đột biến βIVS2.636 (c.316-179 A>C)
hoàn toàn phù hợp với β-Thal thể nhẹ. Đột biến này tuy chưa được ghi nhận
trong dữ liệu ĐB gây bệnh β-Thal, nhưng năm 2013, Eun Sil Park et al, 2013
cũng đã tìm thấy một bệnh nhân dị hợp tử mang kiểu ĐB này với
MCV=74,3fL, MCH=24pg, khi thực hiện nghiên cứu trên 20 bệnh nhân β-
Thal tại Hàn Quốc.
Kiểu phối hợp đột biến -pro)del/βIVS2.499 được tìm thấy trên bệnh nhân
Nguyễn Thị Mộng N, 13 tuổi với lâm sàng thiếu máu nặng. Theo y văn, sự
thay đổi của chỉ số MCV, MCH là dấu hiệu quan trọng cho sàng lọc bệnh
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 103 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
thalassemia vì mức độ giảm của MCV liên quan trực tiếp đến mức độ giảm
sản xuất chuỗi globin và MCH thể hiện tình trạng nhược sắt của hồng cầu. Tuy
nhiên, kết quả công thức máu của bệnh nhân được phân tích trước khi truyền
máu, 2 chỉ số MCV=85,8fL, MCH=29,5pg được ghi nhận là hoàn toàn bình
thường.
Kết quả nghiên cứu của đề tài và nhiều nghiên cứu khác một lần nữa cho
thấy nếu chỉ dựa vào giá trị MCV và MCH vẫn có kết quả âm tính giả nhất
định. Như theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Thị Nga là 6%. Và cũng theo tác
giả này nếu sử d ng công thức Shine và Lal (MCV2 x MCH để sàng lọc bệnh
tỷ lệ âm tính giả là 9%.
Về các chỉ số điện di Hb, nghiên cứu ghi nhận bệnh nhân có kết quả điện
di gần như bình thường: HbA: 95,2%; HbA2: 2,2%; HbF: 2,2%. Nghi ngờ có
thể xuất hiện ĐB trên gen α-globin, nghiên cứu cũng đã gửi mẫu máu của đối
tượng đến bệnh viện Từ Dũ để làm MLPA, kiểm tra các ĐB gây bệnh α-Thal.
Kết quả, không tìm thấy ĐB nào trên 4 gen α-globin (Ph l c 5 . Vậy Nguyễn
Thị Mộng N là bệnh nhân β-Thal truyền máu ph thuộc hồng cầu bình thường
đầu tiên ở bệnh nhân khu vực ĐBSCL được nghiên cứu ghi nhận với chỉ số
điện di HbA giảm rất nhẹ và HbF tăng rất ít.
Khi kiểm tra kiểu ĐB của cha và mẹ bệnh nhân bằng k thuật giải trình
tự tìm βIVS2.499; MLPA tìm ĐB trên gen α-globin và ĐB -pro)del. Kết quả:
cả 2 ĐB của bệnh nhân đều được di truyền từ mẹ. Mẹ bệnh nhân có lâm sàng
biểu hiện mức độ thiếu máu trung bình, truyền máu không thường xuyên
khoảng 2-3 tháng 1 lần, có khi chỉ truyền máu 2 đợt/1 năm, mức độ ứ sắt
1.800ng/mL, lách to độ 3, có biểu hiện da xanh, niêm nhạt và biến dạng xương
nhẹ. Chỉ số huyết học: Hb 8,3g/dL, MCV=83,5fL, MCH= 29,9pg. Chỉ số Hb:
HbA: 96,4%; HbA2: 2,5%; HbF: 1,1% và mẹ bệnh nhân cũng không mang ĐB
gây α-Thal nào khi thực hiện MLPA.
Như vậy, nếu dựa vào chỉ số Hb của bệnh nhân (6,8g/dL và mẹ
(8,3g/dL nằm trong khoảng 6-10g/dL trong nghiên cứu của Khone, E., 2011,
thì kiểu phối hợp đột biến -pro)del/βIVS2.499 phù hợp với β-Thal thể trung
gian. Tuy nhiên, kiểu gen của mẹ và bệnh nhân hoàn toàn giống nhau nhưng
lâm sàng của con biểu hiện nặng hơn mẹ điều này có thể giải thích dựa vào cơ
chế tạo kháng thể bất thường sau mỗi lần truyền máu ở bệnh nhân β-Thal.
Mặc dù chẩn đoán β-Thal thể nặng thường là không khó, nhưng điều
này thường gây khó khăn ở các nước đang phát triển khi đi kèm với một số
bệnh nhiễm trùng (sẽ làm tăng mức độ tan huyết hoặc sau khi bệnh nhân dùng
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 104 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
thuốc kéo dài (Khone, E., 2011 . Theo gia đình, bệnh nhân Nguyễn Thị Mộng
N được phát hiện mắc bệnh β-Thal khi đang nhập viện điều trị viêm hô hấp lúc
2 tuổi. Từ thời điểm đó, cứ cách 2-3 tháng bệnh nhân được chỉ định đến bệnh
viện theo d i, truyền máu. Thời gian càng rút ngắn lại, cho đến hiện tại
khoảng 1lần/1tháng.
Ngoại trừ ABO và Rh, bệnh nhân không được xét nghiệm các kháng thể
lạ kháng hồng cầu (xuất hiện sau mỗi lần truyền máu và các kháng nguyên
nhóm máu khác trước khi truyền máu. Hồng cầu khối không qua quá trình lọc
rửa, chưa có chương trình thải sắt tại nơi điều trị. Tất cả có thể là nguyên nhân
đã chuyển bệnh nhân từ thiếu máu thể trung gian thành thể nặng như hiện nay
sau 11 năm truyền máu.
Trong khi mẹ của bệnh nhân lúc còn nhỏ chỉ phát hiện thiếu máu không
r nguyên nhân ở trạm y tế, do xa bệnh viện và gia đình không có điều kiện
nên bệnh nhân chỉ được đưa đến bệnh viện truyền máu khi bị ngất. Tính đến
thời điểm trước kết hôn (20 tuổi , mẹ bệnh nhân chỉ truyền máu được hai lần.
Mẹ bệnh nhân chỉ được chẩn đoán mắc bệnh β-Thal và được khám định kỳ khi
điều trị cùng con.
Như vậy, tất cả các xét nghiệm về thông số huyết học (công thức máu,
điện di Hb,.là một bước không thể thiếu trong việc chẩn đoán và điều trị
bệnh nhân β-Thal. Nhưng theo nghiên cứu, chẩn đoán thalassemia thật sự
được khẳng định khi kết hợp lâm sàng, các thông số huyết học với cả xét
nghiệm sinh học phân tử tìm ra chính xác kiểu ĐB gây bệnh. Tất cả sẽ là cơ sở
vững chắc giúp bác sĩ có thể khẳng định chính xác mức độ thiếu máu nặng,
nhẹ cho mỗi bệnh nhân. Từ đó, một phác đồ điều trị sẽ được thiết lập phù hợp,
giúp bệnh nhân giảm biến chứng và kéo dài tuổi thọ cũng như tránh những
trường hợp truyền máu quá nhiều cho những kiểu ĐB gen gây thiếu máu trung
gian.
Tóm lại, bên cạnh các kiểu ĐB phổ biến chiếm tỷ lệ cao, nghiên cứu đã
ghi nhận có đến 9 kiểu ĐB khác. Trong đó có cả ĐB mới, ĐB chưa phát hiện
trong các nghiên cứu trước tại Việt Nam, hơn nữa các ĐB này còn rất hiếm
gặp trên thế giới. Điều này cho thấy phổ ĐB của bệnh nhân β-Thal khu vực
ĐBSCL rất rộng. Kết quả nghiên cứu là một tiền đề quan trọng trong việc gợi
ý các xét nghiệm tìm kiểu gen cho bệnh nhân hoặc chẩn đoán trước sinh cho
đối tượng mang gen có ý định có con. Cần phải chú trọng sử d ng k thuật
phù hợp để tránh bỏ sót và dẫn đến việc chào đời bé thể nặng hoặc đánh giá
sai về thể bệnh ảnh hưởng điều trị cho bệnh nhân .
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 105 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
5.2.2.2. Tỷ lệ các kiểu đột biến theo các nhóm dân tộc khu vực Đồng
bằng Sông Cửu Long
Kết quả nghiên cứu ghi nhận: có sự khác nhau về số lượng người mang 2
đột biến với một ĐB theo từng dân tộc. Điều này là do quá trình chọn thuận
tiện các đối tượng mắc bệnh β-Thal nhập viện trong thời gian thực hiện nghiên
cứu tại nơi lấy mẫu (Bảng 4.7 . Ngoài ra, nghiên cứu cũng phát hiện số lượng
và tỷ lệ các kiểu ĐB không giống nhau ở từng nhóm dân tộc nghiên cứu.
Trong 4 dân tộc khảo sát ở khu vực ĐBSCL, dân tộc Kinh có số lượng
các kiểu ĐB nhiều nhất. Có đến 16 kiểu ĐB được xác định, trong đó 97,5%
ĐB thuộc 8 kiểu phổ biến ở Việt Nam, có 8 kiểu ĐB khác thuộc dạng không
phổ biến chiếm 2,5%. Như vậy, các ĐB không phổ biến và ĐB mới trong
nghiên cứu đều tập trung ở dân tộc này. Điều này có thể do 88% số lượng mẫu
nghiên cứu được chọn là bệnh nhân β-Thal có dân tộc Kinh. Cỡ mẫu khá lớn
đã tạo điều kiện cho sự xuất hiện các ĐB hiếm.
Theo ghi nhận của nghiên cứu có 8/9 kiểu ĐB hiếm gặp được tìm thấy ở
dân tộc Kinh. Trong khi, ở dân tộc Hoa chỉ có 4 kiểu ĐB xuất hiện: βCd41/42,
βIVS2.654, β-28và βHbE và 100% là ĐB phổ biến. Đây cũng là các ĐB phổ biến
của người Trung Quốc (Bảng 5.3 . Người Hoa ở miền nam Việt Nam đều do
người Trung Quốc di cư sang. Do vậy, có thể lý giải sự xuất hiện các ĐB trong
dân tộc này một phần là do sự di truyền từ tổ tiên.
Dân tộc Khmer, ngoại trừ βCd15 là kiểu ĐB không phổ biến duy nhất tìm
gặp và chiếm 2,6%. Có 4/5 kiểu thuộc dạng ĐB phổ biến: βHbE, βCd41/42, βCd17
và βIVS2.654 chiếm 97,4%. Trong đó, kiểu βHbE, βCd41/42 chiếm tỷ lệ cao nhất lần
lượt là 48,7% và 33,3%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu 2011 của chúng
tôi, tỷ lệ mang gen bệnh HbE trong cộng đồng dân tộc Khmer rất cao (31% .
Khi thực hiện ARMS-PCR cho các bệnh nhân mang gen β-Thal, đột biến
βCd41/42 cũng là ĐB duy nhất được phát hiện.
Tuy tỷ lệ từng kiểu ĐB khác nhau ở mỗi dân tộc, nhưng nghiên cứu ghi
nhận được ở cả 3 dân tộc: Kinh, Khmer, Hoa, 2 kiểu đột biến: βHbE, βCd41/42
luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, bên cạnh sự xuất hiện các ĐB phổ biến khác. Ở khu
vực ĐBSCL, dân tộc Hoa, Khmer sống ở rất nhiều tỉnh và thường co c m ở
huyện xã riêng. Việc kết hôn cùng tộc vẫn còn xảy ra, thời gian gần đây, với
sự hòa nhập các cộng đồng dân tộc các cuộc hôn nhân giữa dân tộc Hoa với
các dân tộc Kinh, Khmer đã xuất hiện nhiều hơn. Điều này đã góp phần lan
rộng các kiểu ĐB gây bệnh từ cộng đồng dân tộc này sang dân tộc khác.
Luận án tốt nghiệp tiến sĩ - Khóa 2013 Trường ĐHCT
Chuyên ngành Công nghệ sinh học 106 Viện nghiên cứu & phát triển CNSH
Trong khi các ĐB phổ biến xuất hiện hầu hết trên các nhóm dân tộc
nghiên cứu, thì chỉ có 2 kiểu đột biến: βHbE và ()del được tìm thấy ở người
Chăm. Đây là dân tộc có ít kiểu ĐB nhất trong 4 nhóm mà nghiên cứu ghi
nhận được. Do đặc điểm sống tập trung dọc theo sông Hậu thuộc địa bàn các
xã Châu Phong (huyện Tân Châu , xã Phú Hiệp (Phú Tân , xã Khánh Hoà
(Châu Phú ,... của tỉnh An Giang. Để thuận tiện lấy mẫu bệnh nhân β-Thal
người Chăm, nghiên cứu đã chọn bệnh viện đa khoa Châu Đốc, bệnh viện đa
khoa trung tâm An Giang và cả bệnh viện Nhi Đồng 1 thành phố Hồ Chí
Minh, bệnh viện nhi tuyến cuối của khu vực ĐBSCL. Tuy nhiên, trong suốt
thời gian từ tháng 1/6/2013 đến 30/6/2016, nghiên cứu không ghi nhận được
bất cứ trường hợp mắc bệnh β-Thal thể nặng nào.
Tất cả các bệnh nhân tham gia xác định kiểu ĐB chỉ là người mang gen
hoặc người mắc HbE ở trạng thái đồng hợp tử, chỉ có một bệnh nhân mang
gen β-Thal do ĐB mất cả gen β-globin và một phần gen HbD, đối tượng này
cũng đã chọn để nghiên cứu phả hệ. Các đối tượng không có dấu hiệu thiếu
máu trên lâm sàng. Bệnh nhân nhập viện do mang bệnh lý khác và tình cờ
phát hiện thiếu máu dạng β-Thal thể nhẹ.
Khác với các dân tộc Kinh, Hoa, Khmer có thể kết hôn với dân tộc khác.
Người Chăm chỉ kết hôn với người của dân tộc mình do cộng đồng người
Chăm tại An Giang theo Hồi giáo Islam. Tín đồ theo đạo Islam thực hiện
nghiêm túc giáo luật của Hồi giáo chính thống. Điều này đã tạo ra các tập t c
truyền thống đặc biệt của người Chăm, giới hạn họ kết hôn với người khác dân
tộc. Và có thể trong nguồn gốc di truyền, người Chăm không có nhiều các ĐB
gây bệnh β-Thal như các dân tộc khác tại Việt Nam, nên dù tỷ lệ mang HbE
nhiều (88,9% nhưng khó tìm được ĐB khác để kết hợp với HbE tạo ra β-Thal
thể nặng.
Kết quả nghiên cứu trên người Chăm ở khu vực ĐBSCL, khá giống với
dân tộc Êđê và M’Nông tỉnh Đắc Lắc trong nghiên cứu của Nguyễn Thị Thúy
Minh, 2015. Trên 2 nhóm dân tộc này thiếu máu di truyền chủ yếu vẫn là
HbE, có đến 148/561 bệnh nhân có HbE ở dân tộc M’Nông và 163/588 ở dân
tộc Êđê, trong khi tỷ lệ đột biến β-Thal rất thấp. Tỷ lệ này lần lượt là 0,3% và
0,2% trên 2 nhóm M’Nông và Êđê. Đặt biệt, khi xác định kiểu ĐB, chỉ có
βCd41/42 được tìm gặp. Như vậy, bệnh β-Thal không phải luôn phổ biến ở các
dân tộc ít người.
Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ thực hiện trên một số lượng mẫu rất nhỏ và
chỉ lấy mẫu tại các bệnh viện, nên vấn đề người Ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_nghien_cuu_su_di_truyen_cac_dot_bien_gay_benh_o_benh.pdf