MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
THUYẾT VÀ PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 8
1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài . 8
1.1.1. Các nghiên cứu lý luận về pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt
động thương mại . 8
1.1.2. Các nghiên cứu thực tiễn về pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt
động thương mại . 14
1.1.3. Các kiến nghị và giải pháp. 23
1.1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu. 29
1.1.5. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án . 32
1.2. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu . 33
1.2.1. Các lý thuyết nghiên cứu. 33
1.2.2. Giả thuyết nghiên cứu . 35
1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu . 35
1.2.4. Hướng tiếp cận nghiên cứu . 36
Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN TOÀN THỰC
PHẨM VÀ PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG
HOẠT ĐỘNG THưƠNG MẠI. 38
2.1. Khái quát về an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại. 38
2.1.1. Khái niệm về an toàn thực phẩm . 38
2.1.2. An toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại . 41
2.2. Pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại . 45
2.2.1. Khái niệm pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại. 45
2.2.2. Nội dung pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt động
thương mại. 462.2.3. Vai trò pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại . 55
Chương 3: PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM TRONG
HOẠT ĐỘNG THưƠNG MẠI Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN. 62
3.1. Thực trạng pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt động thương
mại ở Việt Nam . 62
3.1.1. Về điều kiện kinh doanh thực phẩm . 62
3.1.2. Về điều kiện đảm bảo an toàn thực phẩm. 64
3.1.3. Về quảng cáo, ghi nhãn hàng hóa thực phẩm . 75
3.1.4. Về trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm. 78
3.1.5. Về trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp
luật về an toàn thực phẩm . 79
3.1.6. Đánh giá thực trạng pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt động
thương mại ở Việt Nam. 83
3.2. Thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt động thương
mại ở Việt Nam . 93
3.2.1. Tình hình an toàn thực phẩm ở Việt Nam . 93
3.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt
động thương mại ở Việt Nam. 97
3.2.3. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về an toàn thực phẩm trong
hoạt động thương mại ở Việt Nam. 109
Chương 4: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM
TRONG HOẠT ĐỘNG THưƠNG MẠI Ở VIỆT NAM . 122
4.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
pháp luật về an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. 122
4.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về an toàn thực phẩm trong
hoạt động thương mại ở Việt Nam. 1274.2.1. Rà soát pháp luật hiện hành có liên quan đến an toàn thực phẩm
trong hoạt động thương mại . 127
4.2.2. Hoàn thiện các quy định về điều kiện bảo đảm an toàn thực phẩm . 129
4.2.3. Hoàn thiện các quy định về quảng cáo, ghi nhãn hàng hóa thực
phẩm. 132
4.2.4. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về an
toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại . 133
4.2.5. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ quốc gia về an toàn
thực phẩm đầy đủ và đáp ứng yêu cầu của quốc tế. 134
4.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về an toàn
thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam . 136
4.3.1. Kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy quản lý an toàn thực phẩm . 136
4.3.2. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý an toàn
thực phẩm. 137
4.3.3. Tăng cường năng lực hệ thống kiểm nghiệm an toàn thực phẩm. 139
4.3.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyên, phổ biến kiến thức, pháp
luật về an toàn thực phẩm trong xã hội. 140
4.3.5. Giải pháp về kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm về an toàn thực
phẩm trong hoạt động thương mại . 142
KẾT LUẬN . 144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ. 146
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 147
163 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 507 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Pháp luật an toàn thực phẩm trong hoạt động thương mại ở Việt Nam - Đặng Công Hiến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à hết sức quan trọng. Trong quá trình hoạt động thương mại thực phẩm, việc
sử dụng những trang thiết bị, dụng cụ là tất yếu, việc đề ra và triệt để tuân thủ
các yêu cầu đối với các trang thiết bị, dụng cụ này nhằm ngăn chặn các tác
nhân làm cho thực phẩm bị ô nhiễm có thể gây hại đến tính mạng và sức khỏe
người tiêu dùng. Nói cách khác, việc đặt ra các yêu cầu đối với trang thiết bị,
dụng cụ là nhằm ngăn ngừa các yếu tố về sinh học, hóa học và vật lý có thể
làm cho thực phẩm không an toàn đối với người sử dụng.
Để bảo đảm ATTP, các cơ sở hoạt động thương mại thực phẩm phải đáp
ứng các yêu cầu về trang thiết bị, dụng cụ được quy định tại Điều 6, Thông tư
số 15/2012/TT-BYT, đó là các yêu cầu về: Sự đầy đủ của trang thiết bị phục
vụ kinh doanh, bảo quản của từng loại thực phẩm và các quy định về quy
trình, chế độ vệ sinh đối với cơ sở; Về trang thiết bị để kiểm soát nhiệt độ, độ
ẩm, gió và các yếu tố ảnh hưởng tới ATTP theo yêu cầu kỹ thuật của từng loại
sản phẩm thực phẩm trong quá trình kinh doanh; Về thiết bị phòng chống côn
trùng và động vật gây hại; Về độ chính xác và chế độ bảo dưỡng, kiểm định
đối với các thiết bị, dụng cụ giám sát, đo lường chất lượng.
68
* Điều kiện đối với người thực hiện hoạt động thương mại thực phẩm:
Những người làm việc tại cơ sở kinh doanh thực phẩm là những người
thường xuyên tiếp xúc với thực phẩm, vì vậy những tác nhân có thể gây mất
ATTP có thể thông qua họ để làm ô nhiễm thực phẩm. Bởi vậy, việc quy định
những yêu cầu đối với người trực tiếp kinh doanh thực phẩm là hết sức cần
thiết nhằm ngăn chặn những mối nguy về ATTP. Pháp luật đặt ra các yêu cầu
đối với người kinh doanh thực phẩm là phải đáp ứng đủ điều kiện về kiến
thức, sức khỏe và thực hành ATTP. Về kiến thức, chủ cơ sở, người trực tiếp
kinh doanh thực phẩm phải học tập kiến thức vệ sinh ATTP theo quy định và
có xác nhận tập huấn kiến thức ATTP do cơ sở có thẩm quyền cấp (khoản 1,
Điều 7, Thông tư số 15/2012/TT-BYT). Về sức khỏe, chủ cơ sở, người quản
lý có tiếp xúc với thực phẩm và người trực tiếp kinh doanh thực phẩm phải
được khám sức khỏe định kỳ ít nhất mỗi năm một lần (và phải có Giấy xác
nhận đủ điều kiện sức khoẻ theo quy định của Bộ Y tế). Người đang mắc các
bệnh hoặc chứng bệnh thuộc danh mục các bệnh hoặc chứng bệnh truyền
nhiễm mà người lao động không được phép tiếp xúc trực tiếp trong quá trình
kinh doanh thực phẩm, đã được Bộ Y tế quy định (Lao, kiết lỵ, thương hàn, ỉa
chảy, tả, mụn nhọt, són đái, són phân, viêm gan siêu vi trùng, viêm mũi, viêm
họng mủ, các bệnh ngoài da, các bệnh da liễu, những người lành mang vi
khuẩn gây bệnh đường ruột) thì không được tham gia trực tiếp vào quá trình
kinh doanh thực phẩm. Về thực hành, người trực tiếp kinh doanh thực phẩm
phải thực hiện các yêu cầu bảo đảm vệ sinh đối với thực phẩm như: phải mặc
trang phục bảo hộ riêng; không hút thuốc, khạc nhổ trong khu vực kinh doanh
thực phẩm.
* Điều kiện về bảo quản thực phẩm:
Bảo quản thực phẩm là để giữ được chất lượng thực phẩm như ban đầu
(tự nhiên) không bị hư hỏng, nhiễm bẩn, biến chất trong thời hạn bảo quản.
69
Mục tiêu cụ thể của bảo quản thực phẩm là bảo vệ thực phẩm không bị ô
nhiễm bởi vi sinh vật, hoá chất và mối nguy vật lý. Vi sinh vật luôn có trong
thực phẩm, do vậy tiêu diệt và ngăn cản sự hoạt động của các loại vi khuẩn,
nấm mốc, nấm men và đề phòng sự phát triển sinh sản của chúng trong thực
phẩm là nhiệm vụ của công việc bảo quản thực phẩm.
Vai trò của bảo quản thực phẩm rất quan trọng trong việc tránh các mối
nguy ngây ô nhiễm thực phẩm trong hoạt động thương mại thực phẩm. Ví dụ,
độc tố vi nấm Aflatoxin có thể gây ung thư gan, gây giảm năng suất sữa,
trứng trên động vật nuôi (bò, cừu, gia cầm...), độc tố này lại bền vững với
nhiệt, đun nóng thông thường không phá huỷ được chúng. Biện pháp tốt nhất
phòng Aflatoxin là thực hiện bảo quản khô, thoáng mát, tránh cho thực phẩm
bị nhiễm mốc. Hay sự sai sót trong việc bảo quản thực phẩm bằng chiếu xạ sẽ
làm cho thực phẩm bị nhiễm các chất phóng xạ và gây hại cho người sử dụng
khi ăn, uống phải chúng. Do đó, việc pháp luật đặt ra các yêu cầu nghiêm ngặt
trong việc bảo quản thực phẩm là hết sức cần thiết, tránh cho thực phẩm bị ô
nhiễm, bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng.
Những yêu cầu cụ thể đối với bảo quản thực phẩm trong kinh doanh
được quy định tại Điều 8, Thông tư số 15/2012/TT-BYT. Theo đó, thực phẩm
phải được bảo quản trong khu vực chứa đựng, kho riêng và phải bảo đảm các
yêu cầu nghiêm ngặt, cụ thể là các yêu cầu: đối với khu vực chứa đựng/ kho
bảo quản; đối với thiết bị, dụng dụng cụ phục vụ bảo quản thực phẩm; đối với
quy cách bảo quản.
* Điều kiện bảo đảm ATTP trong vận chuyển:
Trong vận chuyển thực phẩm phục vụ kinh doanh, các tổ chức, cá nhân
phải tuân thủ các điều kiện được quy định tại Điều 21, Luật ATTP. Bên cạnh
đó, khoản 2, Điều 33, Nghị định số 77/2016/NĐ-CP ngày 01/07/2016 của
Chính Phủ cũng quy định một số điều kiện bảo đảm ATTP trong vận chuyển
70
thực phẩm. Theo đó, trong quá trình vận chuyển thực phẩm, tổ chức, cá nhân
thực hiện vận chuyển thực phẩm phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về
phương tiện vận chuyển và cơ chế vận chuyển.
Như vậy, pháp luật đã quy định khá đầy đủ, cụ thể và chi tiết về những
điều kiện bảo đảm ATTP trên bình diện chung nhất cho các khâu, các công đoạn
của quá trình kinh doanh thực phẩm. Đó là các yêu cầu cụ thể về cơ sở kinh
doanh (nơi diễn ra hoạt động kinh doanh) thực phẩm, đối với người kinh doanh
thực phẩm, đối với việc bảo quản và vận chuyển thực phẩm. Đây là những nghĩa
vụ pháp lý bắt buộc của các tổ chức, cá nhân kinh doanh thực phẩm.
b) Quy định về điều kiện bảo đảm ATTP trong kinh doanh thực phẩm
đối với một số trường hợp cụ thể
Ngoài những điều kiện chung về bảo đảm ATTP trong hoạt động thương
mại là những điều kiện bắt buộc phải tuân thủ đối với tất cả các tổ chức, cá
nhân kinh doanh thực phẩm, pháp luật về ATTP trong hoạt động thương mại
còn quy định một số điều kiện bảo đảm ATTP cho những cơ sở kinh doanh
thực phẩm cụ thể do tính chất đặc thù của loại sản phẩm, hình thức và quy mô
kinh doanh.
* Điều kiện bảo đảm ATTP trong kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ:
Theo khoản 1, Điều 2, Thông tư số 16/2012/TT-BYT ngày 22/10/2012
của Bộ Y tế Quy định về điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm, dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc
phạm vi quản lý của Bộ Y tế (sau đây gọi là Thông tư số 16/2012/TT-BYT),
cơ sở kinh doanh thực phẩm nhỏ lẻ là cơ sở kinh doanh thực phẩm ở quy mô
hộ gia đình, hộ cá thể có hoặc không có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
thực phẩm. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ thực hiện, yêu cầu về vốn đầu tư không
cao nên hoạt động kinh doanh thực phẩm theo phương thức nhỏ lẽ hiện rất
phổ biến ở nước ta. Tuy nhiên, đây là nhóm đối tượng luôn tiềm tàng nguy cơ
71
gây mất ATTP khó kiểm soát được nguồn gốc của thực phẩm đầu vào, trình
độ dân trí và kiến thức ATTP thấp, Chính bởi lý do đó, pháp luật về ATTP
có những quy định riêng về điều kiện bảo đảm ATTP đối với loại hình kinh
doanh này.
Theo Điều 22, Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Chương V, Thông tư
số 16/2012/TT-BYT, Mục 8, Chương VII, Nghị định số 77/2016/NĐ-CP, các
hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể khi thực hiện kinh doanh thực phẩm phải
đáp ứng những điều kiện và yêu cầu cụ thể về địa điểm, cơ sở vật chất, trang
thiết bị, dụng cụ phục vụ kinh doanh, kho chứa thực phẩm và người trực tiếp
kinh doanh. Đây là những điều kiện bắt buộc đối với hoạt động kinh doanh
thực phẩm nhỏ lẻ. Nếu thiếu một trong những điều kiện này, các cơ quan
quản lý nhà nước chuyên ngành về ATTP sẽ áp dụng các chế tài xử lý vi
phạm đối với họ.
* Điều kiện bảo đảm ATTP trong hoạt động kinh doanh thực phẩm tươi sống:
Theo khoản 21, Điều 2, Luật ATTP, “Thực phẩm tươi sống là thực phẩm
chưa qua chế biến bao gồm thịt, trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ, quả tươi và
các thực phẩm khác chưa qua chế biến”. Nhằm bảo đảm ATTP trong kinh
doanh thực phẩm tươi sống, ngoài những điều kiện chung đối với bất kỳ cơ sở
kinh doanh thực phẩm cần phải có, các cơ sở kinh doanh thực phẩm tươi sống
còn phải đáp ứng các yêu cầu riêng do tính chất của hàng hóa là thực phẩm
chưa qua chế biến. Những yêu cầu này được quy định tại khoản 1, Điều 24,
Luật ATTP năm 2010 cũng như các quy định trong các văn bản QPPL do Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn ban hành hướng dẫn thực hiện. Theo
đó, các cơ sở kinh doanh thực phẩm tươi sống phải tuân thủ các quy định
pháp luật về điều kiện bảo đảm ATTP đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa
đựng thực phẩm (Điều 18, Luật ATTP năm 2010); điều kiện bảo đảm ATTP
trong bảo quản thực phẩm (Điều 20, Luật ATTP năm 2010); Điều kiện bảo
72
đảm ATTP trong vận chuyển thực phẩm (Điều 21, Luật ATTP năm 2010);
đồng thời phải bảo đảm duy trì vệ sinh nơi kinh doanh (khoảng 2, Điều 24,
Luật ATTP năm 2010).
Thực hiện khoản 2, Điều 24, Luật ATTP năm 2010, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 33/2012/TT-NNPTNN ngày
20/07/2012, quy định điều kiện vệ sinh, bảo đảm an toàn thực phẩm đối với
cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm ăn được của động vật ở dạng tươi sống
dùng làm thực phẩm. Thông tư đã quy định các điều kiện bảo đảm ATTP đối
với cơ sở kinh doanh thịt và phụ phẩm ăn được của động vật ở dạng tươi sống
gồm: cơ sở kinh doanh tại chợ truyền thống, cửa hàng chuyên doanh, cửa
hàng giới thiệu sản phẩm, cơ sở kinh doanh trong siêu thị.
Hiện nay, điều kiện bảo đảm ATTP cụ thể đối với hoạt động thương mại
các sản phẩm thực phẩm tươi sống khác như: trứng, cá, thuỷ hải sản, rau, củ,
quả tươi, chưa được pháp luật quy định cụ thể.
* Điều kiện đối với hoạt động kinh doanh thực phẩm đã qua chế biến:
Hiện nay chưa có một định nghĩa chính thống về “thực phẩm đã qua chế
biến”. Tuy nhiên, dựa vào khoản 4, Điều 2, Luật ATTP năm 2010, giải thích
về thuật ngữ “chế biến thực phẩm” chúng ta có thể hiểu “thực phẩm đã qua
chế biến” là những sản phẩm thực phẩm được tạo ra từ quá trình xử lý thực
phẩm đã qua sơ chế hoặc thực phẩm tươi sống theo phương pháp công nghiệp
hoặc thủ công. Có hai loại sản phẩm thực phẩm đã qua chế biến đó là: thực
phẩm bao gói sẵn và thực phẩm không bao gói sẵn.
- Đối với các cơ sở kinh doanh thực phẩm đã qua chế biến bao gói sẵn:
Khoản 1, Điều 27, Luật ATTP năm 2010 quy định những yêu cầu bảo
đảm ATTP như sau: (1) Tuân thủ quy định về ghi nhãn thực phẩm; (2) Tuân
thủ các điều kiện về bảo đảm an toàn đối với dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa
đựng thực phẩm, và điều kiện về bảo đảm ATTP trong bảo quản thực phẩm
73
quy định tại Điều 18 và Điều 20 của Luật ATTP 2010; (3) Bảo đảm và duy trì
vệ sinh nơi kinh doanh; (4) Bảo quản thực phẩm theo đúng hướng dẫn của tổ
chức, cá nhân sản xuất.
- Đối với các cơ sở kinh doanh thực phẩm đã qua chế biến không bao
gói sẵn:
Khoản 2, Điều 27, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 quy định những
yêu cầu để bảo đảm ATTP đó là: (1) Có biện pháp bảo đảm cho thực phẩm
không bị hỏng, mốc, tiếp xúc với côn trùng, động vật, bụi bẩn và các yếu tố
gây ô nhiễm khác; (2) Rửa sạch hoặc khử trùng các dụng cụ ăn uống, chứa
đựng thực phẩm trước khi sử dụng đối với thực phẩm ăn ngay; (3) Có thông
tin về xuất xứ và ngày sản xuất của thực phẩm.
c) Điều kiện bảo đảm ATTP trong hoạt động xuất, nhập khẩu
*Điều kiện bảo đảm ATTP trong hoạt động nhập khẩu thực phẩm:
Trong thời gian qua, thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam tăng nhanh cả
về số lượng và kim ngạch. Năm 2010, giá trị thực phẩm nhập khẩu là 2.838
triệu USD, đến năm 2015 tăng lên 6.295 triệu USD, với đà tăng trưởng đó,
năm 2016 nhập khẩu thực phẩm sẽ đạt hơn 7.303 triệu USD, gấp 2,57 lần
năm 2010. Điều này cho thấy, nhu cầu sử dụng đối với thực phẩm của người
tiêu dùng nước ta ngay càng tăng. Chính vì vậy, công tác bảo đảm ATTP đối
với thực phẩm nhập khẩu đặt ra ngày một bức thiết.
Để kiểm soát chặt chẽ đối với thực phẩm nhập khẩu, tránh để thực phẩm
không bảo đảm an toàn xâm nhập vào thị trường nội địa, pháp luật đặt ra các
điều kiện bảo đảm ATTP đối với thực phẩm nhập khẩu. Những điều kiện này
được quy định tại Điều 38, Luật An toàn thực phẩm năm 2010, đó là:
Thực phẩm nhập khẩu vào Việt Nam ngoài việc phải đáp ứng các yêu cầu
về điều kiện bảo đảm ATTP được pháp luật quy định còn phải thực hiện các yêu
cầu sau: (1) Đã được được đăng ký bản công bố hợp quy tại cơ quan nhà nước
74
có thẩm quyền trước khi nhập khẩu; (2) Phải đã được cấp “Thông báo kết quả
xác nhận thực phẩm đạt yêu cầu nhập khẩu” đối với từng lô hàng của cơ quan
kiểm tra được chỉ định theo quy định của Bộ trưởng Bộ quản lý ngành”.
*Điều kiện bảo đảm ATTP trong xuất khẩu thực phẩm:
Đối với thực phẩm xuất khẩu, pháp luật quy định phải tuân thủ các yêu
cầu sau: (1) Đáp ứng các điều kiện bảo đảm ATTP của Việt Nam; (2) Phù
hợp với quy định về ATTP của nước nhập khẩu theo hợp đồng hoặc điều ước
quốc tế, thỏa thuận quốc tế thừa nhận lẫn nhau về kết quả đánh giá sự phù hợp
với quốc gia, vùng lãnh thổ có liên quan (Điều 41, Luật ATTP năm 2010).
d) Các tiêu chuẩn, quy chuẩn về ATTP trong hoạt động thương mại
Thực hiện Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, các Bộ đã tích cực
xây dựng các tiêu chuẩn (TCVN) và quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (QCVN) về
ATTP. Trong giai đoạn 2011-2016, đã đề nghị ban hành 453 TCVN, ban hành
119 QCVN về thực phẩm và 6 quy định kỹ thuật về ATTP. Trong đó: Bộ Y tế
ban hành 54 QCVN và 6 quy định kỹ thuật quy định về mức giới hạn an toàn
chung cho các sản phẩm thực phẩm (phụ gia thực phẩm, giới hạn kim loại
nặng, dư lượng thuốc thú y, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật); quy định về
mức giới hạn an toàn, yêu cầu kỹ thuật cụ thể đối với 1 số sản phẩm đặc
thù các quy định này đều được ban hành trên cơ sở phù hợp hoàn toàn với
tiêu chuẩn của Ủy ban Tiêu chuẩn Thực phẩm quốc tế (Codex), một số quy
định chưa có trong Codex hoặc đặc thù của quốc gia thì đều hài hòa với quy
định các nước phát triển như Mỹ, Nhật bản, EU và các nước ASEAN; Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành 61 QCVN liên quan đến chất
lượng, ATTP của các chuỗi sản phẩm động vật, sản phẩm thủy vật và sản
phẩm thực vật. Các quy chuẩn này cũng tương đồng hoặc tiệm cận với chuẩn
mực của các tổ chức quốc tế như Codex, FAO và các nước tiên tiến.
Ở địa phương mới chỉ có 02 quy chuẩn về bưởi Tân Triều (Đồng Nai) và
rượu Xuân Thạnh (Trà Vinh) được ban hành trong giai đoạn 2011 - 2016.
75
Bên cạnh việc xây dựng và ban hành các TCVN và QCVN, các bộ cũng
quan tâm, chú trọng tham gia đầy đủ vào các hoạt động xây dựng quy chuẩn
và quy định của quốc tế và khu vực. Lần đầu tiên Việt Nam tham gia chủ trì
cùng Thái Lan xây dựng và được Codex chấp thuận ban hành Tiêu chuẩn
Codex quốc tế đối với sản phẩm nước mắm. [12]
Theo thống kê của nghiên cứu sinh, tính riêng trong lĩnh vực doanh thực
phẩm hiện nay đã có 16 quy chuẩn kỹ thuật quốc gia được ban hành. Các quy
chuẩn này là những yêu cầu về kỹ thuật nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng thực
phẩm tránh các nguy cơ gây mất an toàn thực phẩm, đồng thời giúp người tiêu
dùng chủ động trong việc bảo vệ mình trước những nguy cơ về ATTP từ hàng
thực phẩm.
3.1.3. Về quảng cáo, ghi nhãn hàng hóa thực phẩm
a) Quy định về quảng cáo thực phẩm
Việc quảng cáo thực phẩm được thực hiện theo các quy định ở Luật
ATTP năm 2010, Luật Quảng cáo năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi
hành hai luật này như: Nghị định số 38/2012/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm
2012 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP;
Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/01/2013 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo; Thông tư số 08/2013/TT-BYT
ngày 13/03/2013 của Bộ Y tế hướng dẫn về quảng cáo thực phẩm thuộc phạm
vi quản lý của Bộ Y tế; Thông tư số 40/2012/TT-BCT ngày 21/12/2012 của
Bộ Công Thương quy định cấp giấy xác nhận nội dung quảng cáo thực phẩm
thuộc trách nhiệm quản lý của Bộ Công Thương. Theo các văn bản pháp luật
đó, hoạt động quản cáo thực phẩm phải bảo đảm: (1) Tuân thủ theo các quy
định của pháp luật về quảng cáo; (2) Đăng ký nội dung quản cáo đến cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền và được các cơ quan này xác nhận trước khi
quảng cáo; (3) Nội dung của quảng cáo phải bảo đảm đúng tác dụng của sản
76
phẩm đã công bố, ngoài ra phải bảo đảm chính xác trung thực các nội dung
sau cơ về sản phẩm thực phẩm như: tên sản phẩm, xuất xứ hàng hoá, tên địa
chỉ nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, tác dụng của sản phẩm, các cảnh báo khi sử
dụng sản phẩm (nếu có), hướng dẫn sử dụng, hướng dẫn bảo quản (đối với
các sản phẩm có cách sử dụng, cách bảo quản đặc biệt).
Thẩm quyền thẩm định và cấp giấy xác nhận nội dung quảng cáo thuộc
về Bộ Y tế, Bộ Công Thương và Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn
theo loại thực phẩm được phân công quản lý.
b) Quy định về ghi nhãn thực phẩm
Việc ghi nhãn thực phẩm được thực hiện theo quy định của Luật ATTP
năm 2010, Nghị định số 38/2002/NĐ-CP ngày 25/04/2012 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật ATTP năm 2010, Nghị định số
43/2017/NĐ-CP ngày 14/04/2017 của Chính phủ về nhãn hàng hóa.
Theo đó, các tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa tại Việt Nam hoặc
nhập khẩu hàng hóa phải ghi nhãn cho hàng hóa, trừ một số hàng hóa như:
Hành lý của người xuất cảnh, nhập cảnh, tài sản di chuyển; Hàng hóa là thực
phẩm tươi, sống, thực phẩm chế biến không có bao bì và bán trực tiếp cho
người dùng; Hàng hóa đã qua sử dụng; Hàng hóa xuất khẩu không tiêu thụ
nội địa; Hàng hóa là nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu xây dựng, phế liệu
không có bao bì và bán trực tiếp cho người tiêu dùng
Trong đó, nhãn hàng hóa bắt buộc phải thể hiện các nội dung gồm: Tên
hàng hóa; Tên và địa chỉ của tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng hóa;
Xuất xứ hàng hóa và các nội dung khác theo tính chất của mỗi loại hàng hóa.
Cụ thể, với nhóm hàng hóa là thực phẩm, nhãn hàng hóa bắt buộc phải có
định lượng, ngày sản xuất, hạn sử dụng, thông tin cảnh báo (nếu có); với
rượu, phải có định lượng, hàm lượng etanol, hạn sử dụng (nếu có), hướng dẫn
bảo quản (đối với rượu vang), thông tin cảnh báo (nếu có), mã nhận diện lô
77
(nếu có); thông tin bắt buộc trên nhãn bao gồm định lượng, ngày sản xuất,
thông tin cảnh báo, hạn sử dụng và mã số, mã vạch
Với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam mà trên nhãn chưa thể hiện hoặc
thể hiện chưa đủ những nội dung bắt buộc bằng Tiếng Việt thì phải có nhãn
phụ thể hiện những nội dung bắt buộc bằng Tiếng Việt và giữ nguyên nhãn
gốc của hàng hóa. Nhãn phụ cũng được sử dụng với hàng hóa không xuất
khẩu được hoặc bị trả lại, đưa ra lưu thông trên thị trường, đồng thời, phải có
dòng chữ in đậm “Được sản xuất tại Việt Nam”.
Đối với các thực phẩm bao gói sẵn, ngoài tuân thủ các quy định về ghi
nhãn hàng hóa, nội dung bắt buộc khi ghi nhãn đó là: Thông tin trên nhãn
phải đúng bản chất sản phẩm, trung thực, chính xác, rõ ràng, không gây hiểu
lầm cho người sử dụng; Tên sản phẩm phải là cỡ chữ lớn nhất, rõ nhất và tối
thiểu gấp 3 lần cỡ chữ khác trên nhãn; Khi chuyển dịch nhãn phải bảo đảm
không sai lệch nội dung so với nhãn gốc.
Theo quy định của pháp luật, “Hạn sử dụng an toàn” bắt buộc phải ghi
“Hạn sử dụng”, hoặc “Sử dụng đến ngày” đối với thực phẩm chức năng, thực
phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng y học, thực
phẩm tăng cường vi chất và những thực phẩm dễ có khả năng bị hư hỏng do
vi sinh vật.
Hạn sử dụng an toàn đối với các thực phẩm khác có thể ghi “Sử dụng tốt
nhất trước ngày” phù hợp với loại sản phẩm thực phẩm. Đối với thực phẩm
ghi “Hạn sử dụng” hoặc “Sử dụng đến ngày” thì không được phép bán ra thị
trường khi đã quá thời hạn này. Đối với thực phẩm ghi “Sử dụng tốt nhất
trước ngày” thì sau thời điểm này thực phẩm vẫn được phép bán trên thị
trường nếu nhà sản xuất chứng minh được thực phẩm đó an toàn với cơ quan
nhà nước có thẩm quyền và phải ghi hạn sử dụng rõ ràng theo một trong hai
hình thức “Hạn sử dụng”, hoặc “Sử dụng đến ngày”.
78
Chỉ nhà sản xuất thực phẩm mới được kéo dài hạn sử dụng cho sản phẩm
thực phẩm của mình và hạn sử dụng kéo dài tối đa chỉ bằng hạn sử dụng đã
quy định lần đầu tiên.
Với việc quy định cụ thể và chặt chẽ về ghi nhãn hàng hóa đối với hàng
thực phẩm như trên pháp luật về ATTP trong hoạt động thương mại đã góp
phần bảo đảm quyền được cung cấp thông tin của người tiêu dùng.
3.1.4. Về trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm
Quản lý nhà nước (QLNN) về ATTP thuộc trách nhiệm của nhiều cơ
quan khác nhau trong bộ máy hành chính nhà nước ở Việt Nam. Luật ATTP
2010 đã chuyển hoạt động quản lý về ATTP sang cơ chế quản lý theo nhóm
sản phẩm. Đây là chính sách quan trọng của Luật ATTP, theo đó phân công
trách nhiệm quản lý nhà nước về ATTP được xác định theo hướng quản lý
theo nhóm sản phẩm thay vì quản lý theo phân khúc sản xuất, kinh doanh
thực phẩm với hi vọng khắc phục sự chồng chéo trong quản lý nhà nước về
ATTP của các Bộ, ngành trong lĩnh vực quản lý nhà nước về ATTP. Một
phần của nội dung chính sách này là tư tưởng giảm số Bộ tham gia QLNN về
ATTP từ 8 Bộ (theo Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003) xuống
còn 3 Bộ là Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Công
Thương. [52]
Theo quy định của Luật ATTP năm 2010 (tại Điều 62, 63, 64) trách
nhiệm quản lý ATTP được phân công cho Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn và Bộ Công thương. Theo đó, Bộ Y tế quản lý ATTP trong
suốt quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất khẩu,
nhập khẩu, kinh doanh đối với phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm, nước uống đóng chai, nước khoáng thiên nhiên, thực phẩm chức năng
và các thực phẩm khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với
dụng cụ, vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế
79
biến, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý; Thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về an toàn thực phẩm trong quá trình
sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh thực phẩm thuộc lĩnh vực được
phân công quản lý. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý ATTP
đối với sản xuất ban đầu nông, lâm, thủy sản, muối; Quản lý ATTP trong suốt
quá trình sản xuất, thu gom, giết mổ, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển,
xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với ngũ cốc, thịt và các sản phẩm từ
thịt, thủy sản và sản phẩm thủy sản, rau, củ, quả và sản phẩm rau, củ, quả,
trứng và các sản phẩm từ trứng, sữa tươi nguyên liệu, mật ong và các sản
phẩm từ mật ong, thực phẩm biến đổi gen, muối và các nông sản thực phẩm
khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu
bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh
thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý. Bộ Công Thương quản lý
ATTP trong suốt quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, xuất
khẩu, nhập khẩu, kinh doanh đối với các loại rượu, bia, nước giải khát, sữa
chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế biến bột và tinh bột và các thực phẩm
khác theo quy định của Chính phủ; Quản lý ATTP đối với dụng cụ, vật liệu
bao gói, chứa đựng thực phẩm trong quá trình sản xuất, chế biến, kinh doanh
thực phẩm thuộc lĩnh vực được phân công quản lý.
Với quy định về trách nhiệm quản lý ATTP như trên, pháp luật đã phân
định khá rõ trách nhiệm quản lý ATTP của từng Bộ đối với mỗi nhóm sản
phẩm thuộc quản lý chuyên ngành của mình.
3.1.5. Về trách nhiệm pháp lý đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm
pháp luật về an toàn thực phẩm
Một trong những nguyên tắc của quản lý ATTP là bảo đảm an toàn thực
phẩm là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực
phẩm (khoản 1, Điều 3, Luật ATTP năm 2010). Như vậy, các tổ chức, cá
80
nhân kinh doanh thực phẩm phải tự mình thực hiện những biện pháp, cách
thức cần thiết để bảo đảm thực phẩm đến với người tiêu dùng được bảo đảm.
Tuy nhiên với sự phát triển của kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, không ít các cơ sở kinh doanh thực phẩm vì chạy theo lợi nhuận mà
phớt lờ đạo đức kinh doanh đã không thực hiện những quy định pháp luật về
ATTP dẫn đến tình trạng sản phẩm thực phẩm họ cung cấp ra thị trường bị
mất an toàn, gây thiệt hạn cho người tiêu dùng và xã hội. Vì vậy, trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế thì việc bảo đảm ATTP là nhiệm vụ không chỉ
giới hạn trong phạm vi của một địa phương, một quốc gia hay một vùng lãnh
thổ mà còn mang tính toàn cầu. Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các
nước, bên cạnh việc quy định nghĩa vụ đối với người kinh doanh thực phẩm
bằng việc xây dựng các quy định về điều kiện bảo đảm ATTP trong kinh
doanh thì một trong những yếu tố để người kinh doanh tự giác thực hiện trách
nhiệm của mình đó chính là xây dựng hệ thống các chế tài xử lý đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_phap_luat_an_toan_thuc_pham_trong_hoat_dong_thuong_m.pdf