Luận án Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của đảng cộng sản Việt Nam

MỞ ĐẦU 1

CHưƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU 6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 6

1.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án, giả thuyết nghiên cứu

và câu hỏi nghiên cứu 21

CHưƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG

CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NưỚC CẤP TRUNG ưƠNG THÔNG QUA

CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 26

2.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành

chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 26

2.2. Nội dung, phương thức hoạt động phòng, chống tham nhũng và mối quan hệ giữa

công tác kiểm tra của Đảng với các cơ quan chức năng liên quan trong phòng,

chống tham nhũng đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 47

2.3. Điều kiện bảo đảm công tác kiểm tra của Đảng trong phòng, chống tham nhũng

đối với các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương 67

2.4. Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của Trung Quốc và những giá trị tham

khảo ở Việt Nam 73

CHưƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG BỘ

MÁY NHÀ NưỚC VÀ CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NưỚC CẤP TRUNG

ưƠNG THÔNG QUA CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 81

3.1. Quá trình phát triển quan điểm của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong bộ

máy nhà nước, các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công

tác kiểm tra của Đảng 81

3.2. Ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng về phòng, chống tham nhũng

trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm

tra của Đảng từ Đại hội X của Đảng đến nay 95

CHưƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG TRONG

CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NưỚC CẤP TRUNG ưƠNG THÔNG QUA

CÔNG TÁC KIỂM TRA CỦA ĐẢNG 125

4.1. Quan điểm phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước

cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 125

4.2. Giải pháp phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp

trung ương thông qua công tác kiểm tra của Đảng 128

KẾT LUẬN 157

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 160

PHỤ LỤC 168

pdf182 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 14/03/2022 | Lượt xem: 389 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương thông qua công tác kiểm tra của đảng cộng sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i đại biểu toàn quốc lần thứ X về PCTN, lãng phí, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 Khóa X đã đưa ra mục tiêu: “Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định PCTN là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu trong đấu tranh PCTN. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI với nội dung “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định PCTN, lãng phí là một trong các giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Đặc biệt, Đại 82 hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII đã xác định “đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí, quan liêu” là một trong những phương hướng nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng trong suốt nhiệm kỳ. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Đẩy mạnh đấu tranh PCTN, lãng phí là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng, đồng thời là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài phải kiên quyết PCTN, lãng phí; chủ động phòng ngừa, không để xảy ra tham nhũng, lãng phí; xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi tham nhũng, lãng phí, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí” [27, tr.221]. Về công tác kiểm tra của Đảng đối với PCTN, Đại hội X của Đảng đã bổ sung chức năng giám sát cho các tổ chức đảng. Điều lệ Đảng đã quy định: "Kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng” [23, tr.23]. Tiếp đó Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí; nhiệm kỳ Đại hội XI của Đảng đã ra Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị Trung ương 5 (khóa XI, 2012) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí”; Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07-12-2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ...nhờ đó công tác PCTN đã được tiến hành khá mạnh mẽ, hầu hết các cấp ủy đã ban hành chương trình hành động thực hiện nghị quyết và chỉ thị của Đảng về PCTN, lãng phí. Điều lệ Đảng quy định mọi cán bộ, đảng viên ở mọi ngành, mọi lĩnh vực ở Trung ương hay địa phương đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng, bất kể người đó giữ chức vụ cao hay thấp, tuổi đảng nhiều hay ít. Như vậy, Đảng ta xác định đấu tranh PCTN là một bộ phận hợp thành của sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đấu tranh PCTN đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp; đấu tranh PCTN có hiệu quả là góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Đó cũng là cơ sở chính trị đặc biệt quan trọng để Nhà nước xây dựng, ban hành thể chế, 83 chính sách phục vụ công tác đấu tranh PCTN. Đây là thành tựu quan trọng về mặt lý luận, soi sáng cho thực tiễn đấu tranh PCTN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. 3.1.2. Thực trạng thể chế hóa đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng về phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nƣớc và cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng Thời gian qua, nhận thức rõ tác hại của tham nhũng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Khẳng định quyết tâm bài trừ, ngăn chặn tệ nạn tham nhũng, duy trì sự ổn định trật tự xã hội để phát triển đất nước trong thời kỳ hội nhập, Đảng và Nhà nước ta có nhiều chủ trương, giải pháp tích cực tích cực để xây dựng và hoàn thiện thể chế về PCTN tạo cơ sở pháp lý cho công tác PCTN. Nhiều quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước được ban hành nhằm tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và PCTN, vừa có tác dụng giáo dục, răn đe, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện và xử lý các sai phạm. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và PCTN; nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa có hiệu quả. Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành chức năng đã quan tâm rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN; khắc phục một bước những sơ hở, bất cập trong các quy định của pháp luật làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng. Có thể nói, đến nay các chủ trương của Đảng, các văn bản quy phạm pháp luật PCTN về cơ bản đã tương đối đủ và phù hợp sát thực tiễn và thông lệ quốc tế. Trong đó, nổi bật là cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với công cuộc PCTN được thể hiện qua các nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống thể chế. Quốc hội ban hành Luật PCTN năm 2005, sửa đổi bổ sung 2 lần vào năm 2007 và 2012. Việt Nam cũng đã phê chuẩn tham gia Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng năm 2009. Bên cạnh đó, Quốc hội cũng đã ban hành nhiều luật, bộ luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật đất đai, Luật xử lý vi phạm hành chính, Luật Hải quan, Luật về Thuế, Luật cán bộ, công chức,Cụ thể hóa các văn bản trên, Nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 08/8/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09/3/2007 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập là bước tiến lớn trong nhận thức của Chính phủ Việt Nam về công cụ PCTN. 84 Kết quả 10 tổng kết thực hiện Luật PCTN Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 30 nghị định, quyết định, chỉ thị để cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa X) và Luật PCTN, qua đó đã quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện hầu hết các quy định của Luật PCTN. Các bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành gần 42.170 văn bản mới; sửa đổi, bổ sung trên 55.416 văn bản để thực hiện Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tiếp sau đó thực hiện các giải pháp PCTN của Đại hội Đảng lần thứ XII về “tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để bảo đảm công tác PCTN có hiệu lực, hiệu quả... xây dựng và hoàn thiện thể chế quản lý kinh tế - xã hội, tổ chức - bộ máy nhà nước, hệ thống chính trị và thể chế về PCTN theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng”, công tác hoàn thiện thể chế PCTN và hoàn thiện chính sách kinh tế - xã hội để PCTN trong thời gian qua đạt một số kết quả tích cực. Đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số văn bản pháp luật quan trọng, đóng vai trò chủ đạo trong công tác PCTN, điển hình là việc sửa đổi các quy định của Bộ luật hình sự về các tội phạm tham nhũng, chức vụ và sửa đổi toàn diện Luật Phòng, chống tham nhũng để phù hợp với tình hình mới. Nội dung cốt lõi của Luật PCTN (sửa đổi) là lấy phòng ngừa tham nhũng là chính, cơ bản, lâu dài; phát hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách. Luật nêu rõ các hành vi tham nhũng, các hành vi bị nghiêm cấm. Về trách nhiệm của cơ quan báo chí, nhà báo, luật quy định: Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động PCTN và vụ việc tham nhũng. Cơ quan báo chí, nhà báo có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền cung cấp thông tin liên quan đến hành vi tham nhũng. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định của pháp luật về báo chí và quy định khác của pháp luật có liên quan. Cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm phản ánh khách quan, trung thực và chấp hành các quy định khác của pháp luật về báo chí, quy tắc đạo đức nghề nghiệp khi đưa tin về hoạt động PCTN và vụ việc tham nhũng. Việc sửa đổi nội dung của các văn bản này, một mặt nhằm đáp ứng giải quyết các yêu cầu của thực tiễn, mặt khác cũng hài hòa hóa các quy định của pháp luật Việt Nam với các chuẩn mực quốc tế về vấn đề này, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm tham nhũng và thu hồi tài 85 sản tham nhũng. Các quy định này đã và đang được triển khai áp dụng trên thực tế sẽ trở thành một hệ thống công cụ pháp lý đấu tranh có hiệu quả hơn đối với tham nhũng. Nội dung sửa đổi, bổ sung thể chế về PCTN đã đề cập đến những nội dung cơ bản, hết sức quan trọng góp phần vào hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng như vấn đề mở rộng đấu tranh phòng, chống tham nhũng ra khu vực ngoài Nhà nước (Bộ luật Hình sự quy định 04 tội phạm tham nhũng trong khu vực ngoài Nhà nước bao gồm tội tham ô, tội đưa hối lộ, nhận hối lộ và môi giới hối lộ; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2008 quy định các biện pháp phòng ngừa tham nhũng trong một số loại hình doanh nghiệp ngoài Nhà nước); vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng (Bộ luật hình sự năm 2015 quy định người bị kết án tử hình về tội tham ô, nhận hối lộ mà sau khi kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không thi hành hình phạt tử hình mà trong trường hợp này hình phạt tử hình sẽ được chuyển xuống thành tù chung thân; Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đưa ra các phương án xử lý tài sản, thu nhập kê khai không trung thực và không được giải trình một cách hợp lý...). Trong thời gian qua, các văn bản trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội được sửa đổi nhằm nâng cao tính công khai, minh bạch trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước, qua đó góp phần phòng ngừa tham nhũng như các quy định của Luật Tiếp cận thông tin, các quy định liên quan đến quản lý tài chính công, đấu thầu...Việc sửa đổi một cách tổng thể các quy định pháp luật trên nhiều lĩnh vực góp phần tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác đấu tranh PCTN. Có thể thấy rằng thời gian qua, việc hoàn thiện thể chế phòng, chống tham nhũng đã có những bước phát triển khá toàn diện, cơ bản, đặc biệt là việc sửa đổi toàn diện Luật PCTN để phù hợp với tình hình mới đã góp phần to lớn vào hiệu quả của công cuộc PCTN của Đảng và Nhà nước ta. Để thực hiện được các quy định của Luật PCTN, Chính phủ Việt Nam cũng luôn xác định nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế nhằm phòng ngừa tham nhũng là nhiệm vụ trọng tâm trong việc xây dựng: “Chính phủ kiến tạo, hành động và liêm chính”. Cốt lõi của nhiệm vụ này là kiên quyết loại trừ các quy định pháp luật không rõ ràng, không minh bạch, có biểu hiện lợi ích nhóm, gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân [61, tr.77-80]. 86 - Cùng với việc nỗ lực xây dựng thể chế và pháp luật, công tác chỉ đạo, điều hành đấu tranh PCTN của Chính phủ và các bộ, ngành (cơ quan hành pháp ở trung ương) cũng đạt được những kết quả quan trọng. Ngay sau khi Luật PCTN được Quốc hội thông qua năm 2005, Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành khẩn trương tổ chức thực hiện, xác định triển khai Luật PCTN là nhiệm vụ trọng tâm của năm 2006. Thủ tướng Chính phủ ký ban hành “Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Luật PCTN”, cụ thể hóa các nhiệm vụ, biện pháp PCTN được quy định trong Luật PCTN. Đồng thời Chính phủ đã kịp thời ban hành các chương trình hành động thực hiện các nghị quyết của Đảng về PCTN. Chính phủ đã chỉ đạo các cấp, các ngành quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Kết luận số 10-KL/TW ngày 26/12/2016 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN; chỉ đạo Thanh tra Chính phủ phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện công tác PCTN đến năm 2020 nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác PCTN. Ban hành Nghị quyết số 25/NQ-CP ngày 08/02/2017 của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyến hóa” trong nội bộ. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện nghiêm các quy định của Luật PCTN; đẩy mạnh nâng cao hiệu quả công tác PCTN, lãng phí, nhất là công tác phòng ngừa tham nhũng; phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các cá nhân, tổ chức có vi phạm theo quy định của pháp luật [61, tr.76-77]. - Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN đã tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ về PCTN, trong đó ba năm đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng năm 2016 đã chỉ đạo đánh giá kết quả hoạt động của Ban Chỉ đạo qua 05 năm thành lập; chỉ đạo việc tổng kết 10 năm thực hiện Luật PCTN và Nghị quyết Trung ương 3 (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí. Thành lập 31 đoàn để kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp được dư luận xã hội quan tâm tại 63 tỉnh thành và 20 bộ, ngành và các địa phương, đã kiến nghị chỉ đạo xử lý 452 vụ việc, vụ án tham nhũng, kinh tế... Sau hơn 10 năm, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay việc thực hiện nỗ lực triển khai thực hiện Luật PCTN và các chủ trương của Đảng, chính 87 sách, pháp luật của Nhà nước các cấp, các ngành trong bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương đã đề ra và thực hiện nhiều nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện có hiệu quả công tác PCTN trong cơ quan, đơn vị mình, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh PCTN trong bộ máy nhà nước nói chung và các cơ quan hành chính nhà nước cấp trung ương nói riêng. Tuy nhiên, nhìn trên bình diện chung có thể khẳng định thể chế, chính sách pháp luật về PCTN trên một số lĩnh vực, nội dung chưa đáp ứng yêu cầu, còn nhiều bất cập, tính khả thi không cao; chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực; công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm thực hiện, nên dễ dẫn đến việc lạm quyền để trục lợi; chế độ trách nhiệm, chế độ công vụ chưa rõ ràng, cụ thể. Nhiều quy định về các giải pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, khó khăn, vướng mắc, hiệu quả thấp trong tổ chức thực hiện chậm được sửa đổi, bổ sung; một số chủ trương, giải pháp về PCTN được quy định trong nghị quyết của Đảng chậm được thể chế hóa. Việc nghiên cứu, đề xuất các quy định nhằm nội luật hóa Công ước Liên hiệp quốc về Chống tham nhũng chưa được quan tâm đúng mức. Nhiều quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa được thực hiện đầy đủ; trách nhiệm giải trình thực hiện chưa nghiêm; vẫn còn tình trạng lạm dụng quy định về “mật” của nhà nước để không thực hiện công khai, minh bạch. Cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính hiệu quả chưa cao; tình trạng sách nhiễu của cán bộ, công chức trong một số cơ quan quản lý nhà nước chậm được khắc phục, vẫn đang là vấn đề bức xúc đối với người dân và doanh nghiệp; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tuy đã được nâng lên, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và đòi hỏi của xã hội. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do PCTN là lĩnh vực phức tạp, liên quan đến tất cả các cấp, các ngành và các lĩnh vực quản lý xã hội nên việc xây dựng các văn bản pháp luật đòi hỏi sự nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, dẫn đến nhiều văn bản hoàn thành chậm so yêu cầu, tiến độ đã đề ra hoặc nội dung chưa gắn với thực tiễn. Mặt khác, trách nhiệm quản lý nhà nước về một số nội dung của công tác PCTN đan xen giữa các cơ quan, nhất là giữa Thanh tra Chính phủ với các bộ quản lý ngành, lĩnh vực nên trong một số nhiệm vụ xây dựng thể chế, chính sách chưa có sự phối hợp tốt. Một số cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự tích cực trong việc theo dõi, đánh giá 88 việc thực hiện các văn bản đã ban hành, thiếu nỗ lực trong việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định có vướng mắc hoặc không phù hợp. 3.1.3. Ƣu điểm trong công tác phòng, chống tham nhũng trong bộ máy nhà nƣớc và các cơ quan hành chính nhà nƣớc cấp trung ƣơng 3.1.3.1. Ưu điểm trong công tác phòng ngừa tham nhũng đối với bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính cấp trung ương Một là, thực hiện có hiệu quả cải cách hành chính, công khai minh bạch trong hoạt động của cơ quan, đơn vị, đổi mới công nghệ quản lý. Trong đó, công tác cải cách hành chính có tiến bộ ở các cấp, các ngành và cơ quan, đơn vị. Hệ thống thể chế được bổ sung, hoàn thiện. Thể chế, pháp luật về hành chính công từng bước được đổi mới, hoàn thiện. Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các bộ, ngành cơ quan hành chính được điều chỉnh phù hợp. Công khai minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, đơn vị đã có nhiều chuyển biến, nhất là công khai, minh bạch về chính sách, pháp luật; hoạt động chất vấn, trách nhiệm giải trình... Hai là, xây dựng, thực hiện chế độ định mức, tiêu chuẩn bảo đảm minh bạch góp phần phòng ngừa tham nhũng, lãng phí. Trong 10 năm thực hiện Luật PCTN đến nay Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh việc rà soát cơ chế, chính sách; sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn trên tất cả các lĩnh vực, nhất là một số lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng như đất đai, tài chính, đầu tư xây dựng, quản lý, sử dụng tài sản công, chế độ hội họp, chi tiêu nội bộ, chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức viên chức [12]... Ba là, đạt được kết quả bước đầu trong thực hiện minh bạch tài sản thu nhập. Từ năm 2007 đến nay, các bộ, ngành đã tích cực triển khai thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập. Đến nay, tỷ lệ kê khai tài sản, thu nhập đúng thời hạn đã đạt 99,5%, công khai đạt tỷ lệ 98,3%. Qua 10 năm đã xác minh được 4.859 trường hợp, phát hiện, xử lý kỷ luật 17 người kê khai tài sản không trung thực. Trong năm 2017 thực hiện Quy định số 85-QĐ/TW ngày 23/5/2017, của Bộ Chính trị về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý. Bốn là, xây dựng, thực hiện quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp nhằm xây dựng tính liêm chính của cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Qua hơn 10 năm thực hiện Luật PCTN, các bộ, ngành, địa phương đã chủ động ban hành và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm 89 vụ, công vụ nhất là khi tiếp xúc, giải quyết các yêu cầu của người dân, doanh nghiệp; tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị để chấn chỉnh sai phạm. Riêng trong năm 2017 công tác kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử đã được tiến hành tại 5.667 cơ quan, tổ chức, đơn vị tại các bộ, ngành, tỉnh, thành phố, phát hiện và xử lý 192 cán bộ, công chức, viên chức vi phạm (tăng 61,3% so với năm 2016) [12]. Năm là, Chính phủ đã ban hành và tổ chức thực hiện các quy định về tặng quà và nộp lại quà tặng nhằm phòng ngừa hành vi hối lộ và nhận hối lộ - biểu hiện khá phổ biến về tình trạng tham nhũng trong bộ máy nhà nước. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương quán triệt và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 11-CT/TW ngày 20/12/2016 của Ban Bí thư Trung ương Đảng trong đó yêu cầu thực hiện chủ trương nghiêm cấm tặng quà cho cấp trên dưới mọi hình thức; tiếp tục quán triệt và chấp hành nghiêm Quyết định số 64/2007/QĐ-TTg ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về Quy chế tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng. Thực hiện chủ trương trên và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ một số địa phương đã trả lại, không tiếp nhận xe do doanh nghiệp biếu tặng: Cà Mau trả lại 02 xe, TP. Đà Nẵng trả lại 01 xe. Có 02 trường hợp ở Bình Thuận và 01 trường hợp ở Lâm Đồng trả lại quà tặng với số tiền 32 triệu đồng. Đã kiên quyết xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao thiếu gương mẫu trong việc nhận, sử dụng xe ô tô do doanh nghiệp biếu, tặng và sử dụng 02 nhà ở của doanh nghiệp (vụ Nguyễn Xuân Anh - Ủy viên Ban Chấp Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng). Sáu là, bước đầu đã đạt được một số kết quả thực hiện quy định về chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức nắm giữ các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao. Việc chuyển đổi vị trí công tác tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương thực hiện. Riêng năm 2017 đã tiến hành chuyển đổi vị trí công tác 29.261 cán bộ, công chức, viên chức [12]. Thực hiện việc chuyển đổi công tác là cần thiết nhằm phòng ngừa tham nhũng. Tuy nhiên việc thực hiện ở một số bộ, ngành, địa phương theo quy định của pháp luật còn chưa thường xuyên, hình thức, thiếu kiểm tra, thanh tra việc thực hiện. Bẩy là, quyết liệt xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng - biện pháp giáo dục trực quan làm gương cho kẻ khác để góp phần phòng ngừa tham nhũng. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng cho 90 thấy, cả nước có 918 người đứng đầu và cấp phó đã bị xử lý do thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng, trong đó xử lý hình sự 118 trường hợp; xử lý kỷ luật 800 trường hợp. Riêng năm 2017, có 39 trường hợp người đứng đầu thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng bị xử lý kỷ luật [12]. 3.1.3.2. Ưu điểm trong công tác phát hiện, xử lý tham nhũng trong bộ máy nhà nước và các cơ quan hành chính cấp trung ương Một là, kết quả phát hiện và xử lý qua hoạt động thanh tra. Qua 10 năm thực hiện Luật PCTN, công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, ngành Thanh tra đã triển khai 93.696 cuộc thanh tra hành chính, 834.640 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua thanh tra, kiểm tra phát hiện nhiều tổ chức, cá nhân vi phạm trên nhiều lĩnh vực; kiến nghị thu hồi 142.160 tỷ đồng, 993.978 USD và 51.515 ha đất; chuyển cơ quan điều tra 752 vụ, 1.143 đối tượng. Qua hoạt động thanh tra cũng đã phát hiện 670 vụ với 1.815 đối tượng có hành vi, biểu hiện tham nhũng với số tiền, tài sản liên quan là trên 1 nghìn tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra 274 vụ, 429 đối tượng có dấu hiệu tội phạm tham nhũng. Riêng năm 2017 đã triển khai 6.845 cuộc thanh tra hành chính (tăng 1,6%) và 259.449 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành (giảm 5,4%). Qua thanh tra đã kiến nghị xử lý hành chính trên 2.057 tập thể, cá nhân; ban hành 154.298 quyết định xử phạt vi phạm hành chính tổ chức, cá nhân với số tiền 5.403 tỷ đồng; chuyển cơ quan điều tra xử lý hình sự 105 vụ, 214 đối tượng (tăng 52,1% số vụ; 100% số đối tượng); chấn chỉnh quản lý, kiến nghị hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật trên nhiều lĩnh vực. Hai là, kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng qua hoạt động kiểm toán. Kiểm toán Nhà nước đã phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính hơn 187.530 tỷ đồng, chuyển hồ sơ sang cơ quan có thẩm quyền xử lý tổng số 477 vụ việc (trong đó chuyển cơ quan điều tra 73 vụ với 159 người có hành vi tham nhũng); đóng góp nhiều kiến nghị để hoàn thiện chính sách, pháp luật. Riêng năm 2017 Kiểm toán nhà nước đã ban hành 329 báo cáo kiểm toán (tăng 7,5%). Kiểm toán đã phát hiện và kiến nghị các bộ, ngành địa phương rà soát để hủy bỏ hoặc thay thế, sửa đổi, bổ sung 150 văn bản (tăng 45,6%) không phù hợp với quy định chung của Nhà nước hoặc chưa phù hợp với thực tiễn nhằm khắc phục những bất cập, sơ hở phát sinh tham nhũng [12]. Ba là, kết quả phát hiện và xử lý tham nhũng qua công tác điều tra, truy tố, xét xử các hành vi tham nhũng có nhiều tiến bộ. Qua 10 năm thực hiện Luật PCTN, công 91 tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý với số lượng lớn (đã khởi tố 2.530 vụ án tham nhũng với 5.447 bị can; truy tố 2.959 vụ, 6.935 bị can; xét xử 2.628 vụ, 5.870 bị cáo). Riêng năm 2017 cơ quan điều tra đã thụ lý điều tra 354 vụ án, 785 bị can phạm tội về tham nhũng, đã khởi tố 202 vụ, 438 bị can; Viện Kiểm sát các cấp thụ lý 255 vụ án, 571 bị can, đã giải quyết 222 vụ, 448 bị can, trong đó truy tố 219 vụ, 481 bị can; Tòa an nhân dân các cấp đã thụ lý thủ tục sơ thẩm 345 vụ, 799 bị can, đã xét sử sơ thẩm 205 vụ, 433 bị cáo về các tội tham nhũng [12]. Công tác thu hồi tài sản tham nhũng trong 10 năm thực hiện Luật PCTN thiệt hại do các vụ án tham nhũng đã gây ra được phát hiện là 59.750 tỷ đồng và trên 400 ha đất. Số tiền đã thu hồi cho Nhà nước là 4.676 tỷ đồng và trên 219 ha đất [12]. Đáng chú ý các năm từ nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay việc thu hồi tài sản các vụ án tham nhũng đượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phong_chong_tham_nhung_trong_cac_co_quan_hanh_chinh.pdf
Tài liệu liên quan