MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.1
CHưƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀTÀI.7
1.1. Nghiên cứu ngoài Mác-xít về nhân cách .8
1.2. Nghiên cứu Mác-xít về nhân cách .13
1.3. Nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam .18
1.3.1. Nghiên cứu dưới góc độ tâm lý học .18
1.3.2. Nghiên cứu dưới góc độ đạo đức học.21
1.3.3. Nghiên cứu từ góc độ văn học và văn hóa học .23
1.3.4. Nghiên cứu từ góc độ liên ngành khoa học xã hội.25
1.3.5. Nghiên cứu dưới góc độ triết học.29
1.3.6. Những nghiên cứu về ý nghĩa quan điểm Mác-xit về nhân cách đối với nghiên
cứu con người Việt Nam. .30
1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu .31
CHưƠNG 2. QUAN ĐIỂM MÁC – LÊNIN VỀ CON NGưỜI - NỀN TẢNG LÝ
LUẬN VÀ PHưƠNG PHÁP LUẬN CHO NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH .34
2.1. Quan điểm Mác - Lênin về con người – nền tảng lý luận cho nghiên cứu nhâncách .34
2.1.1. Nguồn gốc, bản chất của con người theo quan điểm Mác - Lênin.35
2.1.2. Quan điểm Mác - Lênin về giải phóng con người, phát huy tính chủ động của
con người, xây dựng con người phát triển hài hòa, toàn diện .43
2.2. Những định hướng phương pháp luận trong nghiên cứu nhân cách từ quan
điểm Mác - Lênin về con người.48
2.2.1. Nguyên tắc hoạt động theo quan điểm Mác - Lênin - cơ sở phương pháp luận
quan trọng đối với nghiên cứu nhân cách .48
2.2.2. Những định hướng phương pháp luận khác trong nghiên cứu nhân cách từ quan
điểm Mác - Lênin về con người .54
KẾT LUẬN CHưƠNG 2.61
CHưƠNG 3. MỘT SỐ NỘI DUNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÂN CÁCH
THEO QUAN ĐIỂM MÁC-XÍT.633.1. Khái niệm nhân cách .63
3.1.1. Phân biệt nhân cách với các khái niệm liên quan khác.63
3.1.2. Khái niệm nhân cách theo cách tiếp cận của triết học Mác-xít.67
3.2. Đặc trưng và cấu trúc của nhân cách .76
3.2.1. Đặc trưng của nhân cách .76
3.2.2. Cấu trúc của nhân cách.83
3.3. Những yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách .87
3.3.1. Yếu tố sinh học - điều kiện, tiền đề cho sự hình thành và phát triển nhân cách.88
3.3.2. Tính quyết định của yếu tố xã hội đối với sự hình thành và phát triển nhân cách.95
KẾT LUẬN CHưƠNG 3.102
CHưƠNG 4. Ý NGHĨA CỦA QUAN ĐIỂM MÁC-XÍT VỀ NHÂN CÁCH ĐỐI
VỚI NGHIÊN CỨU NHÂN CÁCH CON NGưỜI VIỆT NAM.104
4.1. Những yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với nghiên cứu nhân cách con người Việt
Nam hiện nay .104
4.1.1. Những yêu cầu đặt ra từ thực tiễn đời sống xã hội.104
4.1.2. Những yêu cầu đặt ra từ thực tế nghiên cứu nhân cách.107
4.2. Vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận Mác-xit về nhân cách trong
nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam .110
4.2.1. Nguyên tắc hoạt động trong nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam.110
4.2.2. Nguyên tắc hệ thống trong nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam .112
4.2.3. Nguyên tắc lịch sử trong nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam .114
4.3. Xác định nội dung nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam theo quan điểm
Mác-xit .119
4.3.1. Các nhân tố chủ yếu tác động đến nhân cách con người Việt Nam hiện nay theo
quan điểm Mác-xít.119
4.3.2. Những phẩm chất xã hội chủ yếu trong nhân cách con người Việt Nam hiện nay128
KẾT LUẬN CHưƠNG 4.138
KẾT LUẬN .140
DANH MUC̣ CÔNG TRÌNH KHOA HỌCCỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUÂṆ Á N.143
TÀI LIỆU THAM KHẢO .144
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quan điểm Mác-Xít về nhân cách và ý nghĩa của nó trong nghiên cứu nhân cách con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ƣ diện mạo bên ngoài của cá nhân), do đó, sau này, khái niệm nhân
cách đƣợc mở rộng hơn. Đến nay, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách.
Năm 1937, Allport đã thống kê 50 định nghĩa tiêu biểu. Hầu hết các định nghĩa hiện
nay đều mang những sắc thái hoàn toàn khác so với nghĩa gốc ban đầu.
Triết học trƣớc Mác, chủ nghĩa duy vật siêu hình coi nhân cách là sản phẩm
thụ động của môi trƣờng xã hội hoặc của môi trƣờng sinh vật, còn chủ nghĩa duy
tâm thì coi nhân cách là sản phẩm thuần túy của ý chí hoặc do lực lƣợng siêu nhiên
ban tặng. Các quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện nay ở các nƣớc phƣơng Tây
thì có xu hƣớng giải thích nhân cách thoát ly tính xã hội của con ngƣời, nhiều lý
thuyết đã căn cứ vào những nhân tố sinh học, bề ngoài của con ngƣời để giải thích
nhân cách.
Lý luận Mác-xít đối lập với các cách giải thích trừu tƣợng, siêu thời gian, phi
lịch sử về nhân cách; đối lập với những lý thuyết quy bản chất của nhân cách vào cơ
chế tâm - sinh lý của con ngƣời. Quan niệm của triết học Mác-xit về nhân cách gắn
liền với quan niệm coi con ngƣời nhƣ là sản phẩm của quan hệ xã hội. Luận cƣơng
thứ sáu về Phoiơbắc của Mác đƣợc xem nhƣ chìa khóa để hiểu con ngƣời nhƣ là sản
phẩm của quan hệ xã hội, từ đó hiểu nhân cách nhƣ là chỉnh thể gắn bó với thuộc
tính xã hội của mỗi cá nhân.
70
Lý luận Mác-xit về nhân cách là một hệ thống mở, không khép kín. Dựa trên
cơ sở triết học duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và những thành tựu của các
ngành khoa học cụ thể, các nhà lý luận Mác-xít đã và đang tiếp tục phát triển nó.
Tiếp thu những quan điểm lý luận về nhân cách của chủ nghĩa Mác, với việc phân
tích sâu sắc hơn về bản chất xã hội, bản chất hoạt động của con ngƣời và nhân cách,
L.X. Vƣgotxki, A.N. Leonchiep, X.L. Rubinstein,... trên cơ sở nền tảng lý luận đó
đã luận giải cụ thể, sâu sắc hơn cho vấn đề nhân cách.
Thống nhất trong cách hiểu về bản chất xã hội - lịch sử của nhân cách, A.N.
Leonchiep thì cho rằng: “Nhân cách là một cấu tạo tâm lý mới, đƣợc hình thành
trong các quan hệ sống của cá nhân, do hoạt động của ngƣời đó cải biến đi mà
thành” [58, tr. 197] hay “Nhân cách là sản phẩm tƣơng đối muộn của sự phát triển
xã hội - lịch sử và của sự tiến hoá cá thể của con ngƣời” [58, tr. 202]. X. L.
Rubinstein nhấn mạnh: “Nhân cách con ngƣời nói chung chỉ đƣợc hình thành qua
quan hệ của con ngƣời với những ngƣời khác. Chỉ trong chừng mực mà những quan
hệ có tính chất ngƣời đối với những ngƣời khác đã đƣợc xác lập với tôi thì tôi mới
tự hình thành nhƣ một con ngƣời” [38, tr. 57].
Theo các quan niệm này, nhân cách đƣợc hiểu là tất cả các mặt, các phẩm chất
mang tính xã hội của con ngƣời, đƣợc hình thành và phát triển nhờ những quan hệ
xã hội mà cá nhân đó sống, hoạt động. Nhân cách, một mặt, là quá trình xã hội hóa
cá nhân, quá trình cá nhân thƣờng xuyên điều chỉnh hành vi của mình, quá trình
phản tƣ, quá trình tự đánh giá, tự ý thức của cá nhân sao cho phù hợp với những
chuẩn mực và yêu cầu của xã hội. Nhân cách khi ấy phản ánh trình độ phát triển văn
hóa, tinh thần của xã hội đã đạt đƣợc trong giai đoạn đƣơng thời. Mặt khác, nhân
cách là quá trình cá nhân hóa xã hội, thể hiện qua dấu ấn của cá nhân, qua vai trò
chủ thể với những tính chất riêng, tự do và độc đáo của mỗi ngƣời. Nhân cách đƣợc
coi là một chuẩn mực để đánh giá thành tựu cũng nhƣ thiếu sót trong sự phát triển
văn hóa chung của cá nhân.
Nhƣ thế, quan điểm Mác-xít về nhân cách không hạn chế nhân cách ở mặt này
hay mặt khác mà xem nhân cách nhƣ là một chỉnh thể có tính lịch sử - cụ thể, tham
gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò là chủ thể nhận thức và cải tạo thế giới,
71
chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và mọi
chuẩn mực xã hội khác. Là một chỉnh thể nên trong sự hình thành và phát triển nhân
cách các yếu tố di truyền, sinh học bẩm sinh, các yếu tố tâm lý của cá nhân kết hợp
chặt chẽ với các yếu tố xã hội trong quá trình sống. Các yếu tố xã hội này đƣợc thể
hiện thành những phẩm chất xã hội đặc thù của cá nhân và chính những phẩm chất
này lại quy định nội dung cơ bản của tƣ tƣởng và tình cảm con ngƣời, chi phối hành
động xã hội và hoạt động thực tiễn của nó. Song nhân cách không chỉ là sản phẩm
của các quan hệ xã hội có tính lịch sử - cụ thể, không chỉ là sự kế thừa những di sản
văn hóa mà còn là chủ thể của các quan hệ xã hội.
Ở nƣớc ta, hiện cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về nhân cách. Từ cách tiếp
cận hoạt động - giá trị, tác giả Phạm Minh Hạc cho rằng: “nhân cách của con ngƣời
là hệ thống các thái độ của mỗi ngƣời thể hiện ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị
và thước đo giá trị của ngƣời ấy với thang giá trị và thƣớc đo giá trị của cộng đồng
và xã hội, độ phù hợp càng cao nhân cách càng lớn” [22, tr. 24]. Còn theo Lê Đức
Phúc, để xác định nội hàm khái niệm nhân cách, cần chú ý tới ba tiền đề cơ bản của
nhân cách là: tính độc đáo ít hay nhiều; tính tƣơng đẳng theo nghĩa dù thay đổi cũng
có thể nhận dạng đƣợc và tính đại diện cho những giá trị tốt hay xấu, còn có nghĩa
là nhân phẩm hay chân giá trị thông qua hoạt động thực tế. Từ đây, ông cho rằng:
“nhân cách là cấu tạo tâm lý phức hợp, bao gồm những thuộc tính tâm lý cá nhân,
đƣợc hình thành và phát triển trong cuộc sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và
quy định giá trị xã hội của mỗi ngƣời” [22, tr. 74-76]. Trong khi đó, Trần Trọng
Thủy cho rằng, cần xem xét nhân cách là một hệ thống các đặc điểm có ý nghĩa xã
hội, đặc trƣng cho cá thể nhƣ là một con ngƣời của một xã hội hay một cộng đồng
nhất định. Theo ông, “nhân cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất tâm lý quy
định giá trị xã hội và hành vi xã hội của cá nhân”. Nhân cách của con ngƣời phải
đƣợc phân tích và đƣợc đánh giá ở 3 mức độ khác nhau: mức độ bên trong cá nhân,
mức độ bên ngoài cá nhân, mức độ siêu cá nhân [Dẫn theo 91, tr. 147].
Đặc điểm chung của các định nghĩa này là có xu hƣớng đặt giá trị xã hội lên
làm một thành tố, một bộ phận quan trọng để đánh giá và xác định nhân cách. Mức
72
độ giá trị xã hội của nhân cách đƣợc đánh giá là quy định tính chất xã hội của nhân
cách ấy.
Dƣới góc độ của tâm lý học nhân cách, Nguyễn Ngọc Bích hiểu rằng: “nhân
cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên
trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại giữa cá nhân đó với cá nhân khác, với tập
thể, xã hội, với thế giới xung quanh và mối quan hệ của cá nhân với công việc trong
quá khứ, hiện tại và tƣơng lai” [4, tr. 233].
Nhƣ vậy, nhìn chung các nhà nghiên cứu đều thống nhất quan niệm coi nhân
cách không phải chỉ là toàn bộ các tính chất hoặc thuộc tính tâm lý của một cá nhân,
mà nhân cách thƣờng đƣợc hiểu là “phẩm giá con ngƣời”. Nói cách khác, khi vận
dụng cho cá nhân thì nhân cách là “giá trị xã hội của một con người có ý thức, bao
gồm cả những phẩm chất tâm lý xã hội của người ấy và cả những giá trị mà hoạt
động của người ấy tạo ra trong xã hội” [18, tr. 113].
Trên thực tế, nhân cách không phải là vấn đề “lý luận trừu tƣợng” mà là vấn đề
rất hiện thực và thực tiễn. Tính hiện thực của nó thể hiện ở chỗ, bản thân mỗi cá
nhân, mỗi con ngƣời theo một nghĩa nào đó đều đã là một nhân cách. Mỗi nhân
cách cụ thể đều là hiện thực và biểu hiện ra ở mỗi cá thể ngƣời. Hơn nữa,
nhân cách là nhân cách của từng ngƣời, trong tính cá thể sinh động của nó,
trong sự tự biểu hiện và tự khẳng định chất lượng phát triển người của nó
với tư cách một cá nhân, một chủ thể mang nhân cách. Đây là sự phát triển
đặc trƣng của cái riêng, của từng cái riêng một trong mối liên hệ mật thiết
về bản chất với cái chung. Mỗi cái riêng đó là một con ngƣời cá thể, cá
nhân mà nhân cách của nó phản ánh nhân cách xã hội, là sản phẩm của sự
phát triển xã hội trong những điều kiện lịch sử nhất định [3, tr. 29].
Vì thế, “nếu không xét đến cá thể, cá nhân chẳng qua chỉ là “cái chung hƣ ảo””
[131, tr. 3] mà thôi. Từ những chỉ dẫn trên đây, chúng tôi hiểu rằng:
Nhân cách là tổng hòa toàn bộ những phẩm chất xã hội của cá nhân, thể hiện
trình độ NGƯỜI của mỗi cá nhân trước hết về các mặt đạo đức, văn hóa, xã hội
Nhân cách biểu hiện gián tiếp hoặc trực tiếp trong và thông qua các mối quan hệ
73
xã hội của mỗi cá nhân. Nhân cách được hình thành và phát triển trong quá trình
hoạt động và giao tiếp của con người với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Nhân cách trước hết là khái niệm thuộc cá nhân. Nhưng vẫn có sự tồn tại hiện
thực của nhân cách cộng đồng (tầng lớp, giai cấp, dân tộc). Hoạt động sống, điều
kiện tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng quy định đặc trưng nhân cách của
cộng đồng đó.
Thông qua định nghĩa này bản chất và đặc trƣng tiêu biểu của nhân cách đã
đƣợc làm sáng tỏ. Định nghĩa không chỉ đề cập đến những biểu hiện của nhân cách
ở phƣơng diện cá nhân qua sự phát triển về các mặt đạo đức, văn hóa, xã hội mà
còn làm rõ tính chất chỉnh thể hệ thống của nhân cách, làm rõ cơ chế của mối quan
hệ giữa các cá nhân trong xã hội biểu hiện thông qua quá trình hoạt động và giao
tiếp của con ngƣời với những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Định nghĩa đã khẳng định nhân cách không chỉ là hệ thống những phẩm chất
xã hội của cá nhân mà còn biểu hiện thông qua những giá trị mang tính chất chung,
đại diện cho cả cộng đồng (tầng lớp, giai cấp, dân tộc). Trong đó, phƣơng thức
hoạt động sống, điều kiện tồn tại và phát triển của mỗi cộng đồng quy định đặc
trƣng nhân cách của cộng đồng đó.
Định nghĩa cũng trình bày đƣợc cơ chế hình thành và phát triển nhân cách.
Con ngƣời sinh ra chƣa phải là nhân cách mà “trở thành” nhân cách. Nhân cách
không thể tự hình thành nếu không thông qua quá trình hoạt động và giao tiếp.
Muốn phát triển nhân cách cá nhân phải phát triển những phẩm chất thuộc về xã hội
của cá nhân, những mối quan hệ của cá nhân với thế giới xung quanh, với xã hội và
với nhiệm vụ cá nhân. Năng lực chung và năng lực chuyên môn của cá nhân đƣợc
hình thành trên cơ sở những nhiệm vụ này. Nhân cách với tƣ cách là cái chuẩn đánh
giá của xã hội đối với con ngƣời song nó gắn chặt với con ngƣời cụ thể nhƣ là
những phẩm chất xã hội của cá nhân. Vì vậy, có sự phân biệt khái niệm nhân cách,
cá nhân, con ngƣời qua định nghĩa này, tránh đƣợc xu hƣớng sinh vật hóa, tâm lý
hóa, xã hội hóa nhân cách nhƣ nhiều định nghĩa đã làm.
Trên cơ sở định hình cơ bản về mặt khái niệm thì trong nghiên cứu nhân cách
chúng ta cũng phải xác định đƣợc ranh giới giữa các khoa học nghiên cứu về đối
74
tƣợng này. Bởi lẽ, nghiên cứu cơ thể ngƣời, những chức năng của não bộ, động thái
các quá trình và trạng thái tâm lý, những đặc trƣng cá nhân của các quá trình, trạng
thái này... dù có sâu sắc đến đâu, nhƣng để hiểu nền tảng và những yếu tố quyết
định các thuộc tính của nhân cách mà chỉ trên cơ sở đó thì không thể thành công
đƣợc. Vai trò của triết học và các khoa học xã hội và nhân văn trong nghiên cứu con
ngƣời, nhân cách là không thể phủ nhận đƣợc. Nhƣng các khoa học tự nhiên nhƣ
sinh lý học, di truyền học, giải phẫu học, y học... cũng không thể thiếu trong nghiên
cứu con ngƣời, sinh lý ngƣời - thực thể khách quan của sự tồn tại nhân cách.
Tuy nhiên, nghiên cứu nhân cách bằng các phƣơng pháp, công cụ của khoa
học tự nhiên và thực nghiệm theo chúng tôi, không thể đi đến tận cùng bản chất của
nhân cách. Vì những nghiên cứu nhƣ vậy cho dù có phong phú, toàn diện bao nhiêu
chăng nữa cũng mới chỉ vạch ra đƣợc các hiện tƣợng, các khía cạnh thuộc tiền đề
vật chất, tức là một số trong các tiền đề của việc hình thành tâm lý và nhân cách,
một số trong các điều kiện cần cho sự ra đời và tồn tại của con ngƣời và nhân cách
ngƣời, chứ không chỉ ra đƣợc toàn bộ những bí ẩn bản chất của nhân cách. Các mối
liên hệ sinh học cấu thành nên cơ thể sinh lý cho các cá thể dạng “homo sapiens”
chỉ tạo thành tiền đề (dù rất cần thiết), là điều kiện của con ngƣời, thể hiện tính loài
trong con ngƣời, chứ không thể tạo nên “bản chất” hay điều kiện bên trong của cá
nhân và nhân cách. Bản chất của nhân cách sẽ không thể nào đƣợc làm sáng tỏ nếu
chỉ xét về mặt chức năng cũng nhƣ mặt cấu trúc vật chất. Để tìm ra bản chất thì cần
phải đặt nó trong hệ thống quan hệ đa dạng. Nghĩa là, muốn tìm ra nền tảng khách
quan của nhân cách, thì việc cần phải đi sâu vào nghiên cứu ngoài phạm vi cá nhân,
coi cá nhân nhƣ là một thành viên của hệ thống là việc làm cần thiết. Hệ thống ở
đây chính là xã hội. Hệ thống xã hội này phải đƣợc hiểu nhƣ Mác hiểu, tức là xuất
hiện và phát triển trong lịch sử và tồn tại nhƣ một chỉnh thể hoàn chỉnh không phân
tách. Từ đó, qua việc nghiên cứu cuộc sống cá nhân trong xã hội mới có thể hiểu
đƣợc các thuộc tính nhân cách nhƣ là sự thể hiện các phẩm chất xã hội của cá nhân.
Cũng nhƣ chỉ nhờ việc phân tích mối quan hệ “cá nhân - xã hội” mới cho phép ta
làm sáng tỏ nền tảng các thuộc tính con ngƣời nhƣ là một nhân cách. Nhƣ tác giả
Spirkin đã khẳng định:
75
không thể giải quyết đƣợc vấn đề nhân cách một cách nghiêm túc nếu
không đặt ra vấn đề triết học về mối liên hệ qua lại giữa cá nhân và xã
hội Mối liên hệ này trƣớc hết lấy tập thể ban đầu làm trung gian, vì chỉ
thông qua tập thể, mỗi thành viên của nó mới gia nhập vào xã hội
Trong tập thể, cá nhân đƣợc hình thành về các mặt tinh thần và thể xác,
nắm vững ngôn ngữ, chiếm lĩnh những hình thức hoạt động - giao tiếp xã
hội, hấp thụ tri thức và kinh nghiệm truyền thống, làm hình thành diện
mạo của mỗi con ngƣời [108, tr. 33].
Nhƣ vậy, bí mật về bản chất nhân cách con ngƣời đƣợc hiểu không phải nhƣ là
“mối liên hệ” của các yếu tố sinh học do tự nhiên định sẵn mà phải là các mối quan
hệ giữa con ngƣời với con ngƣời phát sinh trong hệ thống xã hội. Hệ thống này
khiến cho nhân cách thể hiện ra nhƣ thân thể hữu cơ sinh lý của con ngƣời cộng với
những cơ quan nhân tạo mà con ngƣời tạo ra từ chất liệu tự nhiên bên ngoài, bằng
cách đó nối dài và gia tăng nhiều lần các cơ quan tự nhiên của thân thể mình và nhƣ
thế làm phức tạp và phong phú thêm các quan hệ qua lại của mình với các cá thể
khác, từ đó biểu hiện “bản chất” của mình. Nhƣ vậy, các phƣơng thức hoạt động
của con ngƣời không hẳn tồn tại ở thân thể của nó mà chủ yếu ở thân thể văn hóa,
thân thể vô cơ của con ngƣời. Chúng đƣợc di truyền theo cơ chế ngoài sinh học, cơ
chế xã hội hóa và văn hóa con ngƣời [Theo 51].
Nhờ cơ chế di truyền đặc biệt ấy mà một ngƣời có thể trở thành đại diện cho
cả nhân loại đã và đang sống. Từ đó, nhân cách không chỉ tồn tại, mà còn lần đầu
tiên đƣợc sinh ra nhƣ là “nút điểm” nối vào mạng lƣới các quan hệ lẫn nhau xuất
hiện giữa các cá thể trong quá trình hoạt động (lao động) tập thể về các sự vật tạo
nên và đƣợc tạo ra bởi lao động. Những thực thể đƣợc gọi là nhân cách này tồn tại
trong không gian hoàn toàn hiện thực - trong không gian mà ngoài môi trƣờng thiên
tự nhiên vốn có ra còn là môi trƣờng nhân tạo, môi trƣờng văn hóa mà ở đó con
ngƣời bằng lao động, bằng hoạt động thực tiễn của mình sống và cải tạo hiện thực.
“Nhân cách nhƣ vậy thể hiện mình không phải ở bên trong thân thể cá thể đơn nhất,
mà chính ra là ở ngoài thân thể đó, trong hệ thống các mối quan hệ lẫn nhau hiện thực
76
của thân thể đơn nhất đó với thân thể khác cũng nhƣ thế thông qua các sự vật nằm
trong không gian giữa họ và gắn kết họ “dƣờng nhƣ vào một thân thể”” [Xem 51].
3.2. Đặc trƣng và cấu trúc của nhân cách
3.2.1. Đặc trưng của nhân cách
3.2.1.1. Nhân cách có bản chất lịch sử - xã hội, phản ánh sự phát triển về mặt
xã hội, văn hóa của con ngƣời
Nhân cách là sản phẩm tƣơng đối muộn của sự phát triển lịch sử - xã hội và
của sự tiến hóa cá thể của con ngƣời. Nói một cách khác, nhân cách là kết quả của
quá trình chín muồi những đặc tính di truyền dƣới tác động của môi trƣờng xã hội.
Nhân cách con ngƣời đƣợc hình thành do các quan hệ xã hội mà cá nhân gia nhập
trong hoạt động thực tiễn của mình và theo đó những thuộc tính di truyền cũng có
thể biến đổi trong chừng mực nhất định, do cá nhân chi phối chúng một cách có ý
thức để trở thành một nhân cách.
Gắn liền với quan niệm duy vật về tính xã hội của con ngƣời, về tính giai cấp
của cá nhân, chủ nghĩa duy vật lịch sử quan niệm nhân cách không tách rời tính xã
hội của một cá nhân nhất định. Bản chất nhân cách chỉ có thể đạt đƣợc tính quy
định hợp lý của nó từ trong xã hội. Nhân cách cụ thể vừa do các điều kiện cụ thể
nhƣ điều kiện sản xuất, môi trƣờng xã hội, giáo dục văn hóa hun đúc nên, vừa nhƣ
sự lắng đọng trầm tích của văn hóa truyền thống và đặc trƣng bên trong, định hƣớng
giá trị của chủ thể đồng thời còn thông qua các hiện tƣợng nhƣ mô hình hành vi bên
ngoài, cảm tính biểu hiện ra. Đúng nhƣ L.X. Vugotxki đã khẳng định: “Văn hóa
sáng tạo ra các hình thái đặc biệt của hành vi, văn hóa thay đổi loại hình hoạt động
của các chức năng tâm lý, văn hóa kiến tạo nên các tầng mới trong hệ thống phát
triển của hành vi con ngƣời” [Dẫn theo 20, tr. 130]. “Phản ứng của nhân cách là
các hình thức văn hóa của hành vi. Nghiên cứu các phản ứng của nhân cách là
nghiên cứu các dạng thức văn hóa hành vi. Chúng ta không bàn đến các quá trình
riêng rẽ đƣợc lấy ra một cách trừu tƣợng, mà là nghiên cứu nhân cách một cách
chỉnh thể” [Dẫn theo 126, tr.14].
Kế thừa và tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về bản chất xã hội
của con ngƣời và nhân cách, X. L. Rubinstein cho rằng, quan hệ xã hội là quan hệ
77
trong đó không phải từng giác quan riêng lẻ hay từng quá trình tâm lý riêng lẻ tham
gia, mà là con ngƣời, là nhân cách. Ảnh hƣởng quyết định của các quan hệ xã hội,
của lao động đối với sự hình thành tâm lý chỉ có thể thực hiện thông qua trung gian
nhân cách. Ông cho rằng, nhân cách chỉ tồn tại khi có ý thức: quan hệ của cá nhân
với những ngƣời khác phải đƣợc cảm thấy nhƣ là thái độ; ý thức là một phẩm chất
của nhân cách con ngƣời mà không có phẩm chất đó thì nhân cách không thể nào
tồn tại nhƣ là nhân cách. Còn bản chất của nhân cách là tổng thể của các quan hệ xã
hội [38, tr.56].
Không dừng lại ở đó, ông còn cụ thể hóa đặc trƣng xã hội - lịch sử của nhân
cách qua các nhu cầu và năng lực bằng luận điểm rất đáng chú ý: “Bản chất tâm lý
của nhân cách đƣợc cụ thể hóa trong các nhu cầu và các năng lực. Bản chất tâm lý
đó về thực chất là cái đƣợc quyết định, là cái trung gian thông qua các điều kiện xã
hội - lịch sử cụ thể mà trong đó bản chất ấy đƣợc hình thành” [38, tr. 63].
Theo ông, khái niệm nhu cầu là một khái niệm cơ bản, trên cơ sở khái niệm
này, toàn bộ học thuyết về động cơ hành vi con ngƣời đã đƣợc đặt ra một cách hoàn
toàn khác với cách xem xét trên cơ sở của các thuyết về bản năng và xu hƣớng.
Ngƣợc lại với tất cả mọi quan niệm thuần túy, trong các nhu cầu ngƣời ta đã chú ý
đến những đòi hỏi tự nhiên của con ngƣời, của cá thể con ngƣời. Nhƣng trong mối
quan hệ đó, nhu cầu vốn gần gũi với bản năng và xu hƣớng lại khác biệt về nguyên
tắc với chúng. Đƣợc trung gian hóa bởi những quan hệ xã hội mà qua đó chúng đã
bị khúc xạ, những nhu cầu là sản phẩm của lịch sử khác với bản năng vốn chỉ là
những cấu hình sinh học. Khác với bản năng là sản phẩm tiến hóa mang tính loài,
nhu cầu về sau có một lịch sử tiến hóa cá thể.
Rõ ràng là không thể rút ra đặc trƣng của nhân cách con ngƣời với tƣ cách
chủ thể hoạt động từ bản chất “tự nhiên”, sinh học của nó, cũng không thể từ sự
phân tích mối liên hệ qua lại của con ngƣời với đặc tính “tự nhiên” nhƣ là yếu tố
khách quan tồn tại ngoài nó. Trên thực tế, con ngƣời không thể tồn tại ở môi trƣờng
tự nhiên chƣa đƣợc cải biến theo cách xã hội, bởi con ngƣời là sản phẩm của sự
phát triển xã hội, mà các nhu cầu của họ, kể cả những nhu cầu sinh vật ngay từ đầu
cũng đã bị quy định về mặt xã hội.
78
Về điều này, khi nhận xét rằng, ngƣời nguyên thuỷ khác động vật chỉ là “ở
chỗ trong con ngƣời, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con ngƣời là bản
năng đã đƣợc ý thức” [74, tr. 44], Mác đã hiểu đó là con ngƣời, tuy chƣa phát triển
nhƣng đã thành ngƣời bởi ý thức “ngay từ đầu, đã là một sản phẩm xã hội” [74,
tr. 43]. Tính đƣợc ý thức của bản năng đúng là đã minh chứng cho việc, bản năng
không đƣợc ý thức không thể đảm bảo sự tồn tại của con ngƣời trong tự nhiên, bởi
các khả năng thích nghi của họ không có sẵn bằng con đƣờng di truyền, mà đƣợc
hình thành trong cuộc sống, trong quá trình giao tiếp, tức là một cách xã hội. Bản
thân phƣơng thức tồn tại của con ngƣời trong tự nhiên, gồm cả hoạt động của họ
nhằm thoả mãn các nhu cầu sinh học cũng đã đƣợc định hình trong quá trình hình
thành con ngƣời nhƣ là thực thể lịch sử - văn hóa, xã hội. Điều này cũng đúng với
từng cá nhân riêng rẽ mà nhân cách của họ vốn không phải ngay từ khi sinh ra đã
có, mà đƣợc định hình trong quá trình phát triển của mỗi ngƣời nhƣ là kết quả họ
tham gia vào các quan hệ xã hội, tức là qua trao đổi hoạt động và giao tiếp với
những ngƣời khác.
Nhƣ thế, bản chất của nhân cách phải đƣợc giải thích bằng những đặc điểm
quy chuẩn lịch sử - xã hội, bằng những nguyên nhân xã hội, bằng những đặc điểm
của các mối quan hệ lẫn nhau mà trong hệ thống của chúng đã tạo ra nhân cách.
Bởi, nhân cách không chỉ tồn tại, mà còn phát triển và nâng cao tính tích cực của
mình thông qua việc mở rộng các mối quan hệ qua lại của mình với ngƣời khác và
những sự vật trung giới cho các quan hệ đó.
Đƣơng nhiên, nói nhân cách mang tính xã hội chúng ta cũng không quên nói
đến tính riêng của mỗi cá nhân, tính độc đáo của mỗi cá nhân. Song về tính riêng,
tính độc đáo của mỗi cá nhân, quan niệm Mác-xít có sự khác biệt với quan niệm của
các nhà tâm lý học phƣơng Tây. Trong khi chúng ta nhấn mạnh nhân cách của con
ngƣời trƣởng thành và phát triển nhƣng cũng không coi nhẹ đời sống của con ngƣời
khi còn nhỏ, thì các nhà tâm lý học phƣơng Tây lại nhấn mạnh một chiều tính quyết
định của sự hình thành nhân cách ở trẻ em.
Nhƣ vậy, để hiểu thế nào là nhân cách thì khác với các khoa học cụ thể nhƣ
sinh lý học, tâm lý học, xã hội học... triết học hƣớng đến nghiên cứu tổ chức của
79
toàn bộ các quan hệ ngƣời - ngƣời, tức là cộng đồng năng động giữa ngƣời với
ngƣời gắn kết với nhau bằng những mạng lƣới tác động qua lại mà trong bản thân
những quan hệ đó, những mạng lƣới đó đều đã mang tính chất lịch sử - xã hội.
Không gian tồn tại của nhân cách, nhƣ thế hoàn toàn mang tính hiện thực. Đó chính
là không gian ở đó tồn tại tất cả những sự vật mà theo đó và thông qua đó thân thể
con ngƣời gắn với thân thể ngƣời khác “nhƣ là vào một thân thể” (Xpinoda), vào
một “đại hội đồng” (C. Mác) hay chính là tổ chức văn hóa - lịch sử theo cách nói
hiện nay. Đây chính là “thân thể” không phải do thiên nhiên tạo ra mà do lao động
của con ngƣời cải biến thiên nhiên đó thành “thân thể vô cơ” riêng của mình. Nhân
cách đƣợc hiểu theo cách nhƣ vậy không ở bên trong cơ thể đơn nhất của một cá
nhân cụ thể mà ở bên ngoài thân thể đó, trong hệ thống các mối quan hệ hiện thực
lẫn nhau của cá nhân đó với cá nhân khác.
3.2.1.2. Nhân cách hình thành và biểu hiện thông qua hoạt động và giao tiếp
Nhân cách vừa là khách thể, vừa là chủ thể của các quan hệ xã hội, nhân
cách vừa hình thành và vừa biểu hiện ra bằng hoạt động và giao tiếp mà các quan hệ
xã hội đã quyện vào trong đó.
Giao tiếp đƣợc hiểu là hoạt động xác lập và vận hành các mối quan hệ giữa
ngƣời với ngƣời nhằm thỏa mãn những nhu cầu nhất định. Giao tiếp trƣớc hết là
điều kiện tồn tại của cá nhân và xã hội. Không có giao tiếp thì không có tồn tại xã
hội. Giao tiếp là nhu cầu trực tiếp nhất của con ngƣời trong quá trình tồn tại. Thông
qua giao tiếp con ngƣời gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội nền văn hóa
xã hội, đạo đức và chuẩn mực xã hội. Cùng với hoạt động, giao tiếp giúp con ngƣời
tiếp thu nền văn hóa, xã hội, lịch sử, biến những kinh nghiệm đó thành vốn sống, từ
đó góp phần vào sự phát triển nhân cách và góp phần vào sự phát triển xã hội.
Theo quan điểm Mác-xít, hoạt động của con ngƣời một mặt tùy thuộc vào
các thuộc tính sinh lý, tâm lý của ngƣời đó nhƣng mặt khác chủ yếu còn phụ thuộc
vào hoàn cảnh xã hội bên ngoài, đặc biệt là các quan hệ xã hội mà ngƣời đó tham
gia và trong một phƣơng thức sản xuất nhất định. Toàn bộ các quan hệ xã hội ứng
với hoạt động của một cá nhân thƣờng đƣợc cụ thể hóa trƣớc hết ở vai trò xã hội
của ngƣời ấy trong hoạt động và ở các công cụ vật chất và quy cách hoạt động.
80
Vai trò của con ngƣời thể hiện trong hoạt động thƣờng gọi bằng cƣơng vị,
chức vụ, chức năng, vị thế, vị trí... Mỗi vai trò cụ thể đều ứng với những yêu cầu,
nhiệm vụ, quyền hạn, chuẩn mực, quy cách làm việc nhất định mà xã hội đã định
sẵn cho nó. Một mặt, do đặc điểm tâm lý, do thái độ của cá nhân đối với vai trò và
các chuẩn mực này mà hoạt động mang sắc thái riêng của cá nhân; nhƣng mặt khác,
sự điều chỉnh của xã hội thông qua các quy định này và các phản ứng xã hội cũng
quyết định
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004810_8214_2002900.pdf