Luận án Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU . 1

1. Tính cấp thiết của luận án . 1

2. Mục đích của luận án . 3

3. Nhiệm vụ của luận án. 4

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án . 4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án . 4

6. Đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận án. 5

7. Kết cấu của luận án . 5

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI. 6

1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về mối quan hệ giữa

đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam. 6

1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới

kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.19

1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả giải

quyết hơn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam

hiện nay . 27

1.4. Những vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết. 30

Kết luận chương 1. 32

Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA

ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM. 34

2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - cơ sở lý luận cho việc giải quyết

mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. 34

2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới

kinh tế và đổi mới chính trị . 54

Kết luận chương 2. 81

pdf174 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 397 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hội. Để định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần thì “chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế”. Chính vì vậy, để đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, vai trò chính trị mà trước hết là vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước là không thể thiếu được. Trong điều kiện phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, kinh tế chuyển từ nền sản xuất kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của các thành phần kinh tế tư bản nhà nước và tư bản tư nhân có xu hướng tự phát đi lên tư bản chủ nghĩa, đây là xu hướng phát triển khách quan. Tuy nhiên không phải vì muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội mà ta xóa bỏ hoặc ngăn cấm sự phát triển của các thành phần kinh tế đó, nếu làm như vậy, đất nước ta sẽ lặp lại những sai lầm cũ và tình trạng khủng hoảng, khó khăn là không thể tránh khỏi và đó có thể là nguy cơ dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, làm thế nào để sử dụng một cách có hiệu quả các thành phần kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế tư bản tư nhân đều hoạt động bình đẳng với các thành phần kinh tế khác để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 78 Điều đó chỉ có thể được thực hiện thông qua đường lối, chính sách, chủ trương, pháp luật và các công cụ điều tiết vĩ mô của Đảng và Nhà nước như kế hoạch tài chính, ngân hàng, giá cảNhờ vào những công cụ và phương tiện đó, Đảng và Nhà nước có thể kiểm kê, kiểm soát, điều tiết đối với sản xuất và phân công hàng hóa, đối với sự vận động của các thành phần kinh tế và định hướng cho các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Đảng chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước phát huy vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng, là công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Như vậy, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vai trò chính trị là định hướng, tổ chức và quản lý nền kinh tế thị trường vận động theo quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Muốn làm được điều đó, Đảng và Nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn để phát triển kinh tế nhà nước, làm cho thực lực kinh tế nhà nước phát triển mạnh mẽ, đủ sức để có thể giữ được vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.. Nền kinh tế thị trường là sự kết hợp quản lý nhà nước bằng kế hoạch, điều tiết thị trường bằng hệ thống đòn bẩy kinh tế, thực hiện chế độ phân phối bằng nhiều hình thức, ưu tiên hiệu quả và năng suất lao động, chú trọng công bằng. Để thực hiện vai trò của Nhà nước đối với quá trình đổi mới kinh tế, một mặt, Nhà nước cần đảm bảo thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, hoạt động vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, của đông đảo quần chúng nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; mặt khác, Nhà nước cần tác động vào sự phát triển của nền kinh tế dựa trên cơ sở nhận thức và sự vận dụng đúng các yếu tố kinh tế, các quy luật kinh tế, đề ra được chính sách hợp lý, từng bước thúc đẩy nền kinh tế phát triển đúng hướng, đảm bảo để Nhà nước 79 thực sự là nhân tố chủ yếu định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay. Ngoài ra, với tư cách là “nhân vật trung tâm” trong cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường, Nhà nước là người tạo ra, duy trì môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội cho các chủ thể của nền kinh tế hoạt động một cách bình đẳng; Nhà nước là người định hướng và hướng dẫn sự phát triển của nền kinh tế hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh; Nhà nước là người tổ chức nền kinh tế đi theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước là người giữ vai trò điều tiết, điều chỉnh các nguồn lực, các xu hướng phát triển của nền kinh tế để phục vụ các mục tiêu kinh tế - xã hội khác nhau trong từng giai đoạn; Nhà nước là người thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát nền kinh tế nhằm đảm bảo cho các yếu tố của nền kinh tế thị trường hoạt động một cách bình thường, đúng pháp luật. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không thể nào định hướng phát triển lên chủ nghĩa xã hội nếu không đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng - một nhân tố quyết định để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đổi mới kinh tế. “Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Để tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, để các chủ trương, chính sách của Đảng đúng đắn và được thực hiện có hiệu quả, đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, năng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” [29, tr.51]. Vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới kinh tế thể hiện ở việc bảo đảm hiệu quả quản lý của Nhà nước trong đổi mới kinh tế, ở việc giáo dục và thuyết phục nhân dân nhận thức tính đúng đắn, phù hợp của quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; thấy được tính đúng đắn của việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong đổi mới kinh tế; bảo đảm tính thống nhất của các chính sách kinh tế cũng như sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Giữ vai trò 80 lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới của đất nước thông qua việc hoạch định đường lối chính trị nói chung và đường lối kinh tế nói riêng. Đảng lấy lợi ích chính đáng, hợp pháp của tất cả các chủ thể sản xuất - kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế cũng như lợi ích của tất cả những người lao động làm điểm xuất phát. Nghệ thuật lãnh đạo chính trị của Đảng trong quá trình phát triển kinh tế là kết hợp hài hòa các lợi ích chính đáng vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển mạnh mẽ, năng động của kinh tế thị trường đòi hỏi hệ thống chính trị phải thường xuyên đổi mới, hoàn thiện, xem đổi mới là quá trình thường xuyên, liên tục đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, để đảm bảo hệ thống chính trị không những luôn luôn phù hợp với các bước phát triển của kinh tế mà phải luôn ở thế chủ động trong các quan hệ kinh tế, thực sự có năng lực hướng dẫn được kinh tế theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng, năng lực điều hành của Nhà nước trong nền kinh tế, là điều kiện tiên quyết để hệ thống chính trị đóng vai trò là nhân tố tác động tích cực đến kinh tế. Như vậy, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, chính trị có một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế và sự phát triển xã hội. Trong một chừng mực nhất định, chính trị có một ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của kinh tế, ổn định xã hội. Vì vậy, Đảng ta thực hiện đổi mới kinh tế gắn liền với đổi mới chính trị, cùng với đổi mới kinh tế phải từng bước đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị, thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo, tổ chức thực hiện, tổng kết thực tiễn, đổi mới quản lý, điều tiết nền kinh tế nhằm đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa cho sự phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Trong quá trình đổi mới Đảng ta chủ trương đẩy nhanh đổi mới kinh tế để tạo cốt lõi vật chất cho việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát 81 triển khoa học và công nghệ, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; khơi dậy mọi tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế, cá nhân, tập thể lao độngMặt khác, đổi mới kinh tế là cơ sở để giải quyết các vấn đề xã hội, chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển tư duy chính trị năng động; cho việc hoàn thiện một thiết chế nhà nước gần dân, sát cuộc sống; cho việc tăng cường và củng cố dân chủ trong tố chức, hoạt động và phong cách lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội. Vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể Việt Nam, sự kết hợp đồng thời giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị sẽ tạo nên sự thống nhất biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong quá trình đổi mới đất nước hiện nay. Đây là một chủ trương đúng đắn của Đảng, vừa bảo đảm không gây nên những đảo lộn làm mất cân bằng đời sống xã hội, vừa giữ vững sự ổn định về chính trị - tiền đề quan trọng cho sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội. Kết luận chương 2 Toàn bộ nội dung chương 2 được tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận chung nhất của đề tài: kinh tế và chính trị, mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị; đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, yêu cầu tất yếu và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay. Thứ nhất, sau khi làm sáng tỏ nội hàm khái niệm “kinh tế và “chính trị”, luận án đã phân tích hai luận điểm cơ bản nói lên mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị như những lĩnh vực cơ bản của xã hội có giai cấp: chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế; chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. Từ mối quan hệ biện chứng giữa hai luận điểm trên, luận án đã góp phần khắc phục sai lầm của chủ nghĩa duy vật kinh tế tầm thường khi 82 tuyệt đối hóa vai trò của kinh tế; và chủ nghĩa duy tâm chủ quan tuyệt đối hóa vai trò của chính trị đối với kinh tế. Thứ hai, sau khi làm sáng tỏ nội hàm khái niệm “đổi mới kinh tế” và “đổi mới chính trị”, luận án cho rằng yêu cầu tất yếu của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là phải kết hợp ngay từ đầu và trong từng bước đi. Vì quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là quan hệ cơ bản, có ý nghĩa quyết định chi phối các mối quan hệ xã hội. Trong đổi mới kinh tế, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển kinh tế và hoạt động chuyển đổi nền kinh tế từ mô hình kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đổi mới chính trị đó là đổi mới tư duy, nhận thức và lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đổi mới quan điểm, chủ trương, chính sách và phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, luận án tập trung làm rõ đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống chính trị; đồng thời đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm đáp ứng yêu cầu của đổi mới kinh tế. Khi giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, thì không thể tách rời đổi mới kinh tế ra khỏi đổi mới chính trị, hoặc ngược lại, mà phải tiến hành đổi mới chính trị đồng thời với đổi mới kinh tế, nhưng trong đó, đổi mới kinh tế phải là trọng tâm. Sự thay đổi của nền tảng kinh tế tất yếu đòi hỏi sự thay đổi tương ứng của chính trị. Bởi vì, những yếu kém trên lĩnh vực chính trị sẽ dẫn đến tình trạng chậm tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và tạo điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế phát triển. Đổi mới trên lĩnh vực chính trị nhằm khắc phục những lực cản đối với kinh tế đã trở thành đòi hỏi cấp thiết ở nước ta hiện nay. Trong đổi mới, kinh tế luôn đi trước một bước so với chính trị, đổi mới chính trị luôn xuất phát từ đòi hỏi của đổi mới kinh tế. 83 Chương 3 THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN TRONG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 3.1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay 3.1.1. Những thành tựu đạt được Sau hơn 30 năm đổi mới, sự kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đã đem lại bước chuyển biến tích cực trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, với những thành tựu nổi bật: Thứ nhất, về mặt kinh tế - xã hội, nhờ thực hiện chủ trương “lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, tập trung giải quyết những vấn đề cấp thiết của nhân dân về sản xuất và đời sống, giải phóng sức sản xuất, hình thành và phát huy vai trò của hệ thống động lực, nước ta đã ra khỏi tình trạng trì trệ và khủng hoảng về kinh tế - xã hội kéo dài; hơn thế, còn tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng khá cao, ổn định và liên tục: thời kỳ 2006 - 2010 tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,32%; thời kỳ 2011 - 2015 bình quân đạt 5,91%. Mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều quốc gia và tổ chức kinh tế thế giới, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế: Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 185 nước và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với hơn 15 nước chủ chốt trên thế giới; mở rộng quan hệ kinh tế thương mại với 220 quốc gia và vùng lãnh thổ; Việt Nam cùng 9 nước thành viên khác trong Asean đã ký văn kiện lịch sử tuyên bố hình thành cộng đồng Asean 2015; tham gia hơn 500 hiệp định song phương và đa phương trên nhiều lĩnh vực, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại. Vị thế của 84 Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, các hình thức phân phối, trong đó lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, cũng như mô hình quản lý theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác lập và bước đầu vận hành thông suốt. Tăng trưởng kinh tế từng bước gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, trong đó phát triển kinh tế được coi là điều kiện vật chất để thực hiện các chính sách xã hội và thực hiện tốt chính sách xã hội lại trở thành động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế, hạn chế những khuyết tật phát sinh từ cơ chế thị trường. Quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm thay đổi cơ bản các cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội của tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Trong đổi mới kinh tế, Đảng ta tập trung và chú trọng đến việc xây dựng và từng bước hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trên các phương diện: nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Tư duy lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực tiễn khẳng định là đúng đắn và từng bước đi vào cuộc sống. Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển một nền kinh tế mang tính dân chủ cho mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Nó đặt ra yêu cầu và tạo tiền đề vật chất, thực hiện dân chủ hóa các lĩnh vực khác của xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị. Chính kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò động lực to lớn cho sự phát triển một tư duy chính trị năng động; cho việc hoàn thiện một 85 thiết chế nhà nước gần dân, thân dân, sát cuộc sống; cho vệc tăng cường và củng cố dân chủ trong tổ chức, hoạt động và phong cách lãnh đạo của Đảng, tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân. Bên cạnh đó, đổi mới chính trị về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã tạo được sự ổn định chính trị để thúc đẩy phát triển kinh tế. Đổi mới trong lĩnh vực chính trị đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa xã hội, nảy sinh ra những nhân tố mới, động lực mới, thúc đẩy công cuộc đổi mới giành được những thành quả. Với những kết quả đổi mới kinh tế và những đòi hỏi của đổi mới kinh tế, chúng ta từng bước đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời, chức năng và phương thức quản lý của Nhà nước đã đổi mới phù hợp với cơ chế thị trường. Chúng ta tách chức năng quản lý của Nhà nước khỏi chức năng quản lý của doanh nghiệp; xây dựng Nhà nước pháp quyền, dần hình thành một hệ thống pháp luật đồng bộ bao trùm mọi lĩnh vực của nền kinh tế và thích ứng với các cam kết quốc tế. Nhà nước giảm sử dụng các biện pháp điều tiết trực tiếp, tăng sử dụng các biện pháp gián tiếp, tức là sử dụng các đòn bẩy kinh tế để tác động đến hoạt động kinh tế. Cho đến nay, đã có những đổi mới căn bản về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong việc giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Đã khắc phục một bước lớn những quan niệm và cách làm từng tồn tại trong hàng thập niên trước đây, như nhấn mạnh quá mức vai trò của chính trị đối với kinh tế; xem chính trị là yếu tố quyết định kinh tế và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; nhận thức một cách đơn giản về tác động của chính trị đối với kinh tế; chính trị can thiệp quá sâu vào các quá trình kinh tế; chính trị tác động đến kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính, chủ quan của cơ quan lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung quan liêu với phương thức quản lý kinh tế hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa các lĩnh vực của đời 86 sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhờ chủ trương đúng đắn đó, đất nước đã giữ vững được sự ổn định chính trị, tạo nền tảng triển khai sâu rộng và vững chắc công cuộc đổi mới trên lĩnh vực kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Những thành tựu của hơn 30 năm đổi mới kinh tế là điều kiện vật chất để đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Nhờ vậy, “Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triểnDân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh” [33, tr.65 - 66]. Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị, việc đổi mới về thể chế, tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động được thực hiện đồng bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể khác thuộc hệ thống chính trị theo hướng dân chủ hóa; khắc phục và loại bỏ cơ chế tập trung quan liêu, hành chính mệnh lệnh, xơ cứng, giáo điều, tách rời và cản trở sự phát triển của kinh tế. Khi đổi mới cơ chế kinh tế theo hướng thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chúng ta tiến hành đồng thời đổi mới về chính trị, chính sự phù hợp về chính trị đã mở đường cho kinh tế phát triển; và kinh tế phát triển đã chứng tỏ chính trị đã góp phần tác động quan trọng đồng thời góp phần củng cố chính trị ổn định và bền vững. Hệ thống chính trị từng bước được đổi mới để phù hợp với tình hình và bối cảnh phát triển của đất nước, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Cơ chế hoạt động chính trị của chúng ta luôn được củng cố giữ vững đó là: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, đổi mới sự quản lý của Nhà nước để phù hợp với cơ chế kinh tế mới và tình hình mới của 87 đất nước; đổi mới cơ chế làm chủ của nhân dân để có dân chủ xã hội chủ nghĩa hơn, đưa đất nước tiến những bước nhanh hơn, mạnh hơn bền vững lên chủ nghĩa xã hội. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác đã tạo ra một bước đột phá quan trọng trong tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế của Đảng. Quyết định này đã tháo gỡ được phần nào cách thức quản lý nền kinh tế của Nhà nước từ tập trung, kế hoạch hóa, mệnh lệnh sang quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. Tính dân chủ và công khai, minh bạch trong phát triển kinh tế - xã hội ngày càng được nâng cao, sự tham gia của người dân, của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp vào quá trình hoạch định và thực thi các chính sách phát triển ngày càng được khuyến khích. Định hướng chính trị ngày càng rõ ràng cho sự phát triển kinh tế; chính sách chuyển đổi cơ chế và cơ cấu kinh tế ngày càng phù hợp với yêu cầu khách quan của thực tiễn. Bằng các chủ trương, chính sách vừa có tính định hướng, vừa cụ thể, thiết thực, đường lối đổi mới của Đảng đã đi vào cuộc sống, tạo tiền đề để giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo ra tăng trưởng kinh tế, phát huy tinh thần sáng tạo, tính tích cực chính trị của nhân dân. Nhân dân chủ động tham gia vào đời sống chính trị để xây dựng, phát triển kinh tế, bảo vệ chế độ đã và đang đem lại lợi ích cho họ. Những đổi mới về tư duy lý luận và chủ trương đổi mới của Đảng đã được thể chế hóa thành Hiến pháp, pháp luật, cơ chế, chính sách, thay thế cho hệ thống pháp luật cũ, tạo hành lang pháp lý mới cho kinh tế thị trường phát triển. “Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đã đi vào cuộc sống, doanh nghiệp và doanh nhân được tự chủ kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh để phát triển. Quản lý nhà nước về kinh tế được đổi mới từ can thiệp bằng mệnh lệnh hành chính sang quản lý bằng pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch” [95, tr.215]. 88 Trong quá trình đổi mới chính trị, trọng tâm của việc đổi mới tổ chức và hoạt động quản lý của Nhà nước đối với kinh tế là thúc đẩy quá trình dân chủ hóa kinh tế nhằm tạo sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô; đổi mới chế độ sở hữu theo hướng đa dạng hóa hơn nữa các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước đủ sức giữ vai trò chủ đạo nhằm ổn định và định hướng thị trường, chủ động tổ chức các loại thị trường. Tính định hướng chính trị của sự tăng trưởng kinh tế là hoàn toàn rõ ràng. Nó không mang tính tự phát mà được tổ chức thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Cải cách hành chính được đẩy mạnh; hệ thống pháp luật được đổi mới, sửa đổi, bổ sung và xây dựng ngày càng đầy đủ và phù hợp hơn, nhất là về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước từng bước được nâng lên. Nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn. Có được những thành tựu trên đó là nhờ sự nhận thức đúng đắn, đổi mới tư duy lý luận của Đảng về tính tất yếu của phát triển kinh tế thị trường; quyết định chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, kiên trì lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các quyết sách về kinh tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia. Sự quản lý, điều hành của Nhà nước đối với kinh tế thị trường sát thực và hiệu quả hơn. Mở rộng, phát huy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, thực hiện ngày càng tốt vai trò làm chủ về kinh tế của nhân dân. Như vậy, việc kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị, chúng ta vừa thúc đẩy được nền kinh tế của đất nước phát triển theo quy luật khách quan, vừa tạo nên sự năng động, tích cực trong tư duy, tư tưởng và đời sống tinh thần nói chung của xã hội, làm cho con người được thực sự tự do và có điều kiện phát huy tính chủ động, sáng tạo của mình. Hai 89 quá trình đó có quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên sức mạnh giúp chúng ta có cơ sở thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. 3.1.2. Những hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc kết hợp và giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta vẫn còn những hạn chế và vướng mắc nhất định: Thứ nhất, thực tiễn cho thấy, đến nay chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý thuyết vững chắc về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của cơ chế kinh tế, nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán các nguyên t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_quan_he_giua_doi_moi_kinh_te_va_doi_moi_chinh_tri_o.pdf
Tài liệu liên quan