MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài .1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.5
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết khoa học.7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.8
7. Đóng góp mới của luận án .9
8. Cấu trúc của luận án .9
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .10
1.1. Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
giảng viên.10
1.2. Những công trình quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên
trong các cơ sở đào tạo nghệ thuật.21
1.3. Nhận xét chung.27
1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu .28
Kết luận chương 1 .31
Chương 2: CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN TRONG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO.32
2.1. Những khái niệm cơ bản.32
2.1.1. Nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực .32
2.1.2. Nghệ thuật .36
2.1.3. Giảng viên và giảng viên nghệ thuật.37
2.1.4. Cơ sở đào tạo và cơ sở đào tạo nghệ thuật .39
2.1.5. Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật.43
2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước trong quá trình phát triển nguồn
nhân lực giảng viên .47
2.2.1. Yếu tố khách quan.47
2.2.2. Yếu tố chủ quan .492.3. Nội dung, chủ thể, đối tượng, phương thức quản lý nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực giảng viên.53
2.3.1. Nội dung quản lý nhà nước .53
2.3.2. Chủ thể và đối tượng quản lý nhà nước.63
2.3.3. Phương thức quản lý nhà nước.64
2.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên và
bài học rút ra cho vùng Bắc Trung bộ.67
2.4.1. Kinh nghiệm một số địa phương trong nước .67
2.4.2. Bài học rút ra cho vùng Bắc Trung bộ .72
Kết luận chương 2 .74
Chương 3: THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIẢNG VIÊN NGHỆ THUẬT
TRONG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO VÙNG BẮC TRUNG BỘ .75
3.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu vùng Bắc Trung bộ .75
3.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên
nghệ thuật ở nước ta hiện nay.81
3.3. Thực trạng nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật trong các cơ sở đào tạo vùng
Bắc Trung bộ .84
3.4. Thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên nghệ
thuật vùng Bắc Trung bộ .95
3.5. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên
nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ.112
Kết luận chương 3 .119
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
GIẢNG VIÊN NGHỆ THUẬT TRONG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO
VÙNG BẮC TRUNG BỘ .121
4.1. Dự báo xu hướng phát triển các cơ sở đào tạo nghệ thuật và nguồn nhân lực
giảng viên nghệ thuật .121
4.2. Phương hướng phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực giảng viên.126
4.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
giảng viên nghệ thuật trong các cơ sở đào tạo vùng Bắc Trung bộ .1324.3.1. Xây dựng kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển giảng viên
nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ trong tình hình mới.132
4.3.2. Bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, thực
hiện chế độ chính sách thu hút, tuyển chọn, sử dụng, quản lý
nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật của vùng.135
4.3.3. Tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực giảng viên nghệ thuật và tăng cường đầu tư các nguồn
lực cho cơ sở đào tạo nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ .136
4.3.4. Mở rộng hợp tác quốc tế phát triển nguồn nhân lực giảng viên
nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ.138
4.3.5. Bổ sung, hoàn thiện chương trình, nội dung và phương thức đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật của vùng .139
4.3.6. Nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng đào
tạo trong các cơ sở đào tạo nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ.140
4.4. Khuyến nghị.142
4.4.1. Khuyến nghị đối với các cơ quan Trung ương.142
4.4.2. Khuyến nghị đối với Ủy ban nhân dân các tỉnh vùng Bắc Trung bộ.144
4.4.3. Khuyến nghị đối với các cơ sở đào tạo nghệ thuật .145
Kết luận chương 4.147
KẾT LUẬN.149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ.152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .153
Phụ lục 1: CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO VĂN HÓA NGHỆ THUẬT TRONG TOÀN QUỐC.168
Phụ lục 2:CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO NGHỆ THUẬT VÙNG BẮC TRUNG BỘ .172
Phụ lục 3:PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho giảng viên nghệ thuật) .174
Phụ lục 4:PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN (Dành cho cán bộ quản lý).176
Phụ lục 5: BẢNG THỐNG KÊ SỐ LƯỢNG KHẢO SÁT VÙNG BẮC TRUNG BỘ.180
Phụ lục 6:KẾT QUẢ HỢP TÁC ĐÀO TẠO, TRAO ĐỔI GIẢNG VIÊN – SINH
VIÊN, TRIỂN LÃM, HỘI NGHỊ, HỘI THẢO GIỮA CÁC CƠ SỞ
ĐÀO TẠO NGHỆ THUẬT VÙNG BẮC TRUNG BỘ VỚI CÁC CƠ SỞ
ĐÀO TẠO NƯỚC NGOÀI.181
191 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật trong các cơ sở đào tạo vùng Bắc Trung Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
di sản thế giới: Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ
Bàng, quần thể di tích cố đô Huế, Nhã nhạc cung đình Huế. Đó là sản phẩm của quá
trình tự nhiên và lịch sử mà vùng đất Bắc Trung bộ đã được ban tặng. Bắc Trung bộ
là nơi sinh ra nhiều danh nhân văn hóa, chính trị, anh hùng hào kiệt của dân tộc Việt
Nam;nói như cách nói của một nhà thơ, bỏ qua Bắc Trung bộ không thể thành Miền
Trung, bởi “Không gian với nửa anh hùng, thế gian bớt mất một vùng thơ văn”.
Anh hùng và nghệ sỹ - hai phẩm chất đó của con người Việt Nam như kết tinh lại
trên mảnh đất Bắc Miền trung. Từ những anh hùng dân tộc như Bà Triệu, Mai Thúc
Loan, Lê Lợi, Phan Bội Châu, Nguyễn Ái Quốc... cho đến những danh nhân, danh
tướng như Phan Đình Phùng, Võ Nguyên Giáp..., và có cả những thi nhân làm rạng
rỡ một vùng văn hóa như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ...
Có thể nói, cộng đồng cư dân Bắc Trung bộ có những nét bản sắc văn hóa riêng,
mang tính vùng miền. Trong dòng chảy của thời đại, những giá trị cội nguồn sẽ mãi là
mạch sống, đưa đến những giá trị nhân văn cao đẹp, cân bằng mọi sự phát triển.
3.1.4. Về phát triển kinh tế
Xu thế phát triển lĩnh vực nghệ thuật của vùng Bắc Trung bộ gắn với phát
triển kinh tế vùng. Những năm gần đây, tiềm năng vùng Bắc Trung bộ đang được
đánh thức với sự phát triển mạnh mẽ của các khu kinh tế ven biển như: Khu kinh tế
Nghi Sơn (Thanh Hóa); Khu kinh tế Đông Nam (Nghệ An), Khu kinh tế Vũng Áng
(Hà Tĩnh); Khu kinh tế Hòn La (Quảng Bình); Khu kinh tế Chân Mây (Thừa Thiên
Huế) Trong chiến lược đầu tư phát triển vùng Bắc Trung bộ, đầu tư phát triển
theo quy hoạch và xây dựng thành phố Thanh Hóa trở thành một trung tâm phát
triển ở bắc miền Trung. Xây dựng và phát triển thành phố Vinh là Trung tâm kinh
tế, văn hóa của vùng Bắc Trung bộ theo Quyết định số 239/2005/QĐ-TTg, ngày
30/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Xây dựng và phát triển các thành phố, thị xã ven biển trên từng tỉnh trở thành
những trung tâm tiến ra biển của từng tỉnh như: xây dựng Sầm Sơn trở thành đô thị
du lịch biển hiện đại, tự cung, tự cấp đầu tiên ở Việt Nam, hình thành tam giác tăng
trưởng: Thành phố Thanh Hóa - Sầm Sơn - Khu kinh tế Nghi Sơn; thành phố Hà
80
Tĩnh, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh; thành phố Đồng Hới và khu kinh tế Hòn La của
Quảng Bình; Đông Hà gắn kết với không gian kinh tế cảng Cửa Việt của Quảng Trị;
thành phố Huế trở thành thành phố Festival, thành phố du lịch, trung tâm văn hóa,
kinh tế của vùng; trung tâm thương mại, dịch vụ và giao dịch quốc tế, trung tâm khoa
học, đào tạo và trung tâm y tế đa ngành chất lượng cao của vùng Bắc Trung bộ.
Từ vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Bắc Trung bộ đã
làm nổi bật nét văn hóa đặc trưng của cộng đồng dân cư ở đây là “văn hoá sông -
biển”; những điệu Hò sông nước được xem là sản phẩm tinh thần, biểu hiện sự cố
kết của cộng đồng người Việt như: Hò sông Mã (Thanh Hoá); Hò ví dặm Nghệ
Tĩnh; Hò khoan Quảng Bình; Hò mái nhì Quảng Trị. Hò mái nhì Trị Thiên và hò
Huế khúc “ra khơi vào lộng” chỉ riêng người Việt ở khu vực miền Trung mới có.
Các loại hình nghệ thuật đặc thù vùng Bắc Trung bộ ta có thể thấy như: Thanh Hóa:
Nghệ thuật tuồng, chèo, cải lương, kịch, múa; Nghệ An: Dân ca Nghệ An; Hà Tĩnh:
Dân ca Hà Tĩnh; Quảng Bình: Dân ca Bình Trị Thiên; Huế: Dân ca Huế, nhã nhạc
cung đình Huế. Vì vậy nó ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động nghệ thuật và nguồn
nhân lực nghệ thuật mang tính vùng miền đặc trưng.
Bảng 3.1. Dân số và nguồn nhân lực vùng Bắc Trung bộ
Dân số trung bình
(Nghìn người)
Diện tích
(km2)
Mật độ dân số
(Người/km2)
Bắc Trung bộ 10.620.0 51.510.8 215,3
Thanh Hóa 3.677.0 11.106.3 331
Nghệ An 3.042.0 16.487.4 185
Hà Tĩnh 1.300.9 6.055.6 315
Quảng Bình 842.2 8.051.8 105
Quảng Trị 621.7 4.745.7 131
Thừa Thiên - Huế 1.136.2 5.054.0 225
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2018
81
3.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
giảng viên nghệ thuật ở nước ta hiện nay
3.2.1. Những mặt tích cực
Hiện nay có 107 cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật trong cả nước, trong đó có
07 trường đại học ngành nghệ thuật trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,
36 trường do các tỉnh, thành trực tiếp quản lý (trong đó có 9 trường cao đẳng,
27 trường trung cấp). Ngoài ra còn 3 trường đại học văn hóa nghệ thuật do
Bộ GDĐT quản lý và 01 trường đại học văn hóa nghệ thuật do Bộ Quốc phòng
quản lý. Nhìn chung công tác đào tạo tại các cơ sở đào tạo nghệ thuật đã có những
bước phát triển vượt bậc về số lượng, quy mô đào tạo, ngành nghề, cơ cấu đào tạo
ngày càng tăng. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, giáo viên dần dần
được nâng cao, chuẩn hóa cả về số lượng và chất lượng.
Hoạt động quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực giảng viên nghệ
thuật ở nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng mà trước hết là bước chuyển
trong tư duy quản lý với những bước đi cụ thể và phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Hệ
thống văn bản pháp luật quy định về hoạt động nghệ thuật nói chung và GVNT nói
riêng từng bước được hoàn thiện. Quy định rõ mã số, tiêu chuẩn, chức danh nghề
nghiệp viên chức giảng dạy trong các cơ sở đào tạo công lập (Thông tư liên tịch số
36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV, ngày 28/11/2014 của Bộ GDĐT và Bộ Nội vụ); chế
độ làm việc của giảng viên (Thông tư số 47/2014/TT-BGDĐT, ngày 31/12/2014
của Bộ GDĐT, Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên); xử lý kỷ luật viên
chức (Nghị định số 27/2012/NĐ-CP, ngày 6/4/2012 của Chính phủ, Quy định về xử
lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức) đã làm rõ
cơ sở pháp lý để các cơ sở đào tạo có căn cứ cụ thể trong việc triển khai thực hiện
thống nhất chính sách của Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực GVNT nói riêng
và giảng viên đại học công lập trong cả nước.
Các cơ quan QLNN đã nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của GVNT
trong sự nghiệp phát triển giáo dục nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội đất nước
nói chung. Đã tích cực củng cố tư tưởng, giúp họ có lập trường tư tưởng chính trị ổn
định, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, an tâm công tác,
82
đoàn kết nội bộ và cống hiến hết mình vì sự nghiệp giáo dục. Luật Giáo dục đại học
hiện nay đã định hướng cho các cơ sở đào tạo tự quyết định các vấn đề và tự chịu
trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
liên quan đến cơ chế tự chủ đại học hiện nay đang tiếp tục được hoàn thiện theo
hướng chủ yếu tự chủ về tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học
- công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng đội ngũ giảng viên.
Các cơ sở đào tạo cũng đã làm tốt công tác xây dựng quy chế về đào tạo, bồi
dưỡng, có các chính sách cử, khuyến khích giảng viên đi học sau đại học nâng cao
trình độ (đề án 599, đề án 911 và nay là đề án 89), vấn đề này được sự ủng hộ rất
lớn từ phía giảng viên.
Công tác thanh tra, kiểm tra ngày càng được hoàn thiện thông qua việc ban
hành, sửa đổi, bổ sung nhiều văn bản mới (Nghị định số 42/2013/NĐ-CP ngày
09/5/2013 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động thanh tra giáo dục; Thông tư
số 51/2012/TT-BGDĐT ngày 18/12/2012 của Bộ trưởng Bộ GDĐT quy định về tổ
chức và hoạt động thanh tra trong cơ sở giáo dục đại học, trường trung cấp chuyên
nghiệp;), đảm bảo về mặt hành lang pháp lý cho hoạt động thanh tra, kiểm tra
được thực hiện có hiệu quả. Đề xuất được nhiều giải pháp phát triển nguồn nhân lực
GVNT trong thời gian tới.
3.2.2. Những mặt tồn tại
Về số lượng giảng viên ngành nghệ thuật so với đội ngũ giảng viên các
ngành khác trong cả nước còn thấp, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu bố trí và sử dụng
vào công tác giảng dạy chuyên môn theo cơ cấu từng ngành đào tạo. Đội ngũ nhà
giáo, chuyên gia đầu ngành đang ở trong tình trạng hẫng hụt, số giảng viên được
đào tạo nâng cao trình độ không kịp bù đắp số cán bộ đã đến tuổi nghỉ hưu. Đội ngũ
giảng viên, giáo viên kế cận chưa được chuẩn bị tốt để thay thế đội ngũ giảng viên
đầu ngành là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ có nhiều kinh nghiệm nhưng đã cao tuổi.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tỉ lệ số giảng viên được đào
tạo ở trình độ tiến sĩ so với tổng số các nhà giáo của nhóm ngành Âm nhạc chiếm
9,6%, nhóm ngành mỹ thuật là 1,77% và nhóm ngành sân khấu, điện ảnh là 2,6%,
nhóm ngành múa, xiếc chưa có tiến sĩ [125]. Thực trạng trên đặt ra những thách
83
thức không nhỏ cho đội ngũ giảng viên nghệ thuật trong quá trình hội nhập và giao
lưu quốc tế.
Về cơ cấu, tỉ lệ giảng viên trong các cơ sở đào tạo nghệ thuật có học vị, học
hàm còn thấp so với các cơ sở đào tạo thuộc các khối khác, giảng viên có trình độ
đại học, thạc sĩ trở lên chiếm 26,49% tổng số giáo viên giảng viên thống kê được,
trong đó tiến sĩ và tiến sĩ khoa học chiếm 4,6% [125]. Số lượng giảng viên trẻ và
giảng viên nữ quá thấp so với giảng viên cao tuổi và giảng viên nam.
Về phẩm chất, nhìn chung mọi giảng viên nghệ thuật đạt được các yêu cầu
quy định về đạo đức nhà giáo do Bộ GDĐT ban hành; tuy nhiên do đặc trưng về
nghề nghiệp, một số rất ít giảng viên nghệ thuật còn có các hạn chế về “tác phong,
lối sống nghệ thuật”.
Về năng lực, giảng viên nghệ thuật giảng dạy tại các cơ sở đào tạo đều có
năng khiếu, có con mắt thẩm mỹ; tuy nhiên vẫn có các hạn chế ở khâu truyền đạt
cho sinh viên những hiểu biết của mình. Do đội ngũ này được lựa chọn chủ yếu dựa
trên năng lực nghệ thuật, chưa chú trọng đến năng lực sư phạm; họ chỉ được bồi
dưỡng về nghiệp vụ sư phạm ở một số lớp, khoá bồi dưỡng ngắn hạn, vì vậy nhiều
giảng viên có khả năng biểu diễn, sáng tác nghệ thuật tốt song lại không có khả
năng truyền đạt kiến thức cho sinh viên. Hơn nữa nhiều giảng viên chỉ chú trọng
đến việc biểu diễn, sáng tác mà quên mất sứ mệnh của người thầy trong việc đào tạo
kiến thức, giáo dục nhân cách cho sinh viên.
Các giảng viên nghệ thuật đều là những người có năng lực nghệ thuật rất tốt
(hát hay, vẽ đẹp, biểu diễn, sáng tác tốt) nhưng khả năng tư duy, nghiên cứu khoa
học còn nhiều hạn chế. Với tỉ lệ số giảng viên nghệ thuật có học hàm học vị như
thống kê ở trên cho thấy, giảng viên đại học ngành nghệ thuật rất “lười” học tập,
nghiên cứu. GVNT giảng dạy chủ yếu qua thực tế chứ ít phải viết giáo trình, sách
chuyên khảo, sách tham khảo. Ở trình độ thạc sĩ, việc bảo vệ tốt nghiệp ngành âm
nhạc vẫn là biểu diễn ca khúc, ngành mỹ thuật là sáng tác tác phẩm, ngành sân khấu
là phân tích, kế hoạch đạo diễn tác phẩm..v.v.. chứ không phải là làm luận văn tốt
nghiệp. Điều này khiến cho các giảng viên, dù được đào tạo đến trình độ thạc sĩ vẫn
yếu về mặt lý luận, khả năng diễn đạt, tư duy và nghiên cứu mang tính khoa học kém.
84
Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn lúng túng về quy hoạch. Đào tạo chưa thật sự
gắn với quy hoạch, chưa gắn với đầu ra. Bên cạnh đó, do nguồn kinh phí còn hạn
hẹp nên việc cử GVNT đi học ở nước ngoài còn rất ít.
Về trình độ ngoại ngữ của giảng viên đại học ngành nghệ thuật chưa cao. Tỉ lệ
giảng viên sử dụng được ngoại ngữ vào việc nghiên cứu giảng dạy, học tập, cập
nhật kiến thức, trao đổi học thuật nói chung yếu hơn so với giảng viên các khối
ngành khác
Với các phân tích, đánh giá trên, nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật trong
cả nước nói chung chưa thể đáp ứng ở mức cao yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
Chính vì vậy, phải có các biện pháp quản lý nhà nước nhằm phát triển nguồn nhân
lực giảng viên nghệ thuật đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về trình độ
đào tạo và có phẩm chất và năng lực theo như các yêu cầu hội nhập.
3.3. Thực trạng nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật trong các cơ sở
đào tạo vùng Bắc Trung bộ
3.3.1. Hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật vùng
Bắc Trung bộ
3.3.1.1. Về quy mô
Mỗi tỉnh vùng Bắc Trung bộ đều có cơ sở đào tạo nghệ thuật và luôn lưu giữ,
bảo tồn và phát huy nghệ thuật dân gian của tỉnh và vùng; các cơ sở này hiện đang tổ
chức đào tạo nhiều loại hình nghệ thuật đặc trưng như: Nghệ thuật tuồng, chèo, cải
lương, kịch, múa (Thanh Hóa); Dân ca Nghệ An; Dân ca Hà Tĩnh; Dân ca Bình Trị
Thiên; Dân ca Huế; đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế đây là thể loại nhạc của cung
đình thời phong kiến, chủ yếu được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang,
băng hà, các lễ hội tôn nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của
Việt Nam. Nhã nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền
khẩu và phi vật thể nhân loại vào năm 2003. Theo đánh giá của UNESCO, “trong
các thể loại nhạc cổ truyền ở Việt Nam, chỉ có Nhã nhạc đạt tới tầm vóc quốc
gia”.“Nhã nhạc đã được phát triển từ thế kỷ 13 ở Việt Nam đến thời nhà Nguyễn thì
Nhã nhạc cung đình Huế đạt độ chín muồi và hoàn chỉnh nhất” [164].
85
Các cơ sở đào tạo nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ được trải dài qua các tỉnh,
hầu như mỗi tỉnh đều có 1 cơ sở đào tạo nghệ thuật, duy nhất tỉnh Thừa Thiên Huế
có đến 3 cơ sở đào tạo nghệ thuật, tuy nhiên chỉ có 2 cơ sở đào tạo là có số GVNT
tương đối nhiều đó là Trường đại học Nghệ thuật Huế và Học viện Âm nhạc Huế.
Đây là các cơ sở đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực về văn hóa và nghệ thuật nhằm cung
cấp nguồn nhân lực làm công tác văn hóa nghệ thuật ở địa phương và cho các cơ sở
đào tạo chuyên ngành nghệ thuật ở trung ương cũng như địa phương. Ngoài ra vùng
Bắc Trung bộ còn có một số cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật nhưng có số lượng
GVNT mỏng, không tập trung.
3.3.1.2. Về phân bố
Qua số liệu khảo sát (nội dung xem phụ lục 5) vùng Bắc Trung bộ việc đào
tạo nghệ thuật tập chung chủ yếu ở 7 cơ sở đào tạo nghệ thuật đó là: Học viện
Âm nhạc Huế, Trường đại học Nghệ thuật Huế, Trường cao đẳng Sư phạm Quảng Trị,
Trường đại học Quảng Bình, Trường cao đẳng Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Nguyễn Du, Trường cao đẳng Văn hóa nghệ thuật Nghệ An, Trường đại học
Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa. Chúng ta có bảng thống kê sau:
Bảng 3.2. Các cơ sở đào tạo nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ
TT Tên trường
Số lượng
GVNT
Địa chỉ của các trường
1. Trường đại học Nghệ thuật Huế 85
Số 10 Tô Ngọc Vân, Phường Thuận
Thành, Thành phố Huế
2. Học viện Âm nhạc Huế 110
Số 1 Đường Lê Lợi, Phường Vĩnh
Ninh, Thành phố Huế
3.
Trường Cao đẳng Sư phạm
Quảng Trị
12
Km 3, Quốc lộ 9, Thành phố Đông
Hà, tỉnh Quảng trị
4. Trường Đại học Quảng Bình 10
312 Lý Thường Kiệt, Phường Bắc Lý,
Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình
5.
Trường Cao đẳng Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Nguyễn Du
18
Số 12, Đường Hoàng Xuân Hãn, khối
phố 4, Phường Đại Nải, Thành phố
Hà Tĩnh
6.
Trường Cao đẳng Văn hóa nghệ
thuật Nghệ An
64
Số 35 Phùng Chí Kiên, Hưng Lộc,
Thành phố Vinh,tỉnh Nghệ An
7.
Trường Đại học Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
50 Số 561, Quang Trung 3, Đông Vệ,
Thành phố Thanh Hóa
Tổng cộng: 349
Nguồn: Tổng hợp từ các cơ sở đào tạo
86
Qua bảng thống kê chúng ta thấy, mỗi tỉnh vùng Bắc Trung bộ đều có cơ sở
đào tạo nghệ thuật. Vị trí các cơ sở đào tạo nằm ngay trung tâm của mỗi tỉnh, thuận
lợi trong công tác đào tạo và giao lưu phát triển. Tuy nhiên, số cơ sở đào tạo, quy
mô đào tạo, ngành nghề, cơ cấu đào tạo ngày càng tăng, đòi hỏi trình độ GVNT, cán
bộ quản lý cần được nâng cao, chuẩn hóa. Chương trình, giáo trình các môn nghệ
thuật đã dần được hoàn thiện, có tính liên thông qua từng cấp học đảm bảo điều
kiện giảng dạy. Công tác nghiên cứu khoa học đã được chú trọng, gắn liền với công
tác giảng dạy, hằng năm mỗi cơ sở đào tạo có từ 5 đề tài cấp cơ sở trở lên, từ 1-5 đề
tài cấp tỉnh và đề tài cấp Bộ thì năm có năm không. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
khoa học đã được ứng dụng để nâng cao chất lượng đào tạo. Cơ sở vật chất, nguồn
lực tài chính dành cho các trường đào tạo ngành nghệ thuật cũng được đầu tư.
Để phục vụ cho nhiệm vụ nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới giáo dục, hội nhập
quốc tế, các cơ sở đào tạo đã đầu tư hệ thống trang thiết bị giảng dạy học tập hiện
đại, cơ sở vật chất, giảng đường, nhà hát, sân khấu, phòng thực hành đáp ứng tiêu
chuẩn quốc gia, quốc tế. Bên cạnh đó, sự đầu tư của nhà nước, của tỉnh còn thể hiện
ở việc tăng ngân sách cho việc bồi dưỡng, đãi ngộ giảng viên, cán bộ quản lý trong
cơ sở đào tạo nghệ thuật.
3.3.2. Nguồn nhân lực giảng viên nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ
3.3.2.1. Về số lượng
Số lượng GVNT phản ánh quy mô giảng viên tương xứng với quy mô của
mỗi cơ sở đào tạo. Số lượng giảng viên phụ thuộc vào sự phân chia tổ chức, quy mô
phát triển, nhu cầu đào tạo và các yếu tố tác động khách quan khác, chẳng hạn như:
chỉ tiêu biên chế, các chế độ chính sách, nhu cầu đào tạo và quy mô phát triển của
các cơ sở đào tạo.
Qua số liệu khảo sát 305 phiếu (câu hỏi 2.1, phụ lục 5) tại 7 cơ sở đào tạo
nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ với câu hỏi: “Xin thầy (cô) cho biết ý kiến cá nhân
về số lượng giảng viên nghệ thuật của trường” có 86 phiếu trả lời đủ (chiếm
28,19%), có 133 phiếu trả lời thiếu (chiếm 43,60%), có 20 phiếu trả lời thừa (chiếm
6,55%), có 66 phiếu trả lời vừa thiếu vừa thừa (chiếm 21,63%). Chúng ta có thể
quan sát bảng số liệu dưới đây:
87
Bảng 3.3. Số lượng giảng viên nghệ thuật trong các cơ sở đào tạo
Đơn vị tính: người
TT Tên trường
Năm
2012
Năm
2013
Năm
2014
Năm
2015
Năm
2016
Năm
2017
1. Học viện Âm nhạc Huế 95 101 103 105 107 110
2. Trường đại học Nghệ thuật Huế 76 77 80 82 82 85
3.
Trường Cao đẳng Sư phạm
Quảng Trị
9 9 10 10 10 12
4. Trường Đại học Quảng Bình 8 8 8 9 9 10
5.
Trường Cao đẳng Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Nguyễn Du
15 15 16 16 16 18
6.
Trường Cao đẳng Văn hóa
nghệ thuật Nghệ An
52 55 56 58 61 64
7.
Trường Đại học Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
39 42 44 45 47 50
Tổng cộng: 294 307 317 325 332 349
Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các cơ sở đào tạo
Tổng số cán bộ, viên chức và giảng viên cơ hữu của Học viện Âm nhạc Huế
là 215 người, cán bộ giảng dạy thỉnh giảng thường xuyên là 100 người và hơn 2000
sinh viên học sinh đang được đào tạo. Học viện thường xuyên liên kết đào tạo,
nghiên cứu và giao lưu biểu diễn với 5 đối tác nước ngoài và 25 đối tác trong nước.
Tuy nhiên số lượng GVNT cơ hữu chỉ chiếm khoảng 50%. Trường cao đẳng
Văn hóa, Du lịch Nguyễn Du Hà Tĩnh tổng cộng có 65 người tuy nhiên GVNT chỉ
có 18 người chiếm 26,7%. Trường đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
tổng số cán bộ, giảng viên là 261 trong đó chỉ có 50 giảng viên giảng dạy nghệ thuật
chiếm 19,1%.
Nhìn bảng thống kê số lượng GVNT từ năm 2012 đến năm 2017 chúng ta
nhận thấy số lượng GVNT hàng năm có tăng nhưng rất thấp, nhìn chung là còn
thiếu, các cơ sở đã coi hình thức thỉnh giảng là biện pháp giải quyết cho việc thiếu
giảng viên. Hơn nữa, do đặc thù và nhu cầu đào tạo của từng cơ sở đào tạo khác
nhau nên số lượng GVNT các cơ sở đào tạo có sự chênh lệch nhau khá rõ. Các tỉnh
trong vùng do điều kiện về dân cư cũng như điều kiện về cơ sở vật chất, đầu tư cho
88
đào tạo nghệ thuật nên có sự chênh lệch về số lượng, cơ cấu cũng như chất lượng
các GVNT như tỉnh Thừa Thiên Huế, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An.
Thực tế hiện nay các cơ sở đào tạo nghệ thuật vùng Bắc Trung bộ đều tăng
cường tuyển bổ sung GVNT, do các giảng viên lớn tuổi đến tuổi về hưu, mở rộng
thêm ngành mới, xây dựng cơ sở... Ví dụ: Trường đại học Nghệ thuật Huế từ năm
2012 đến năm 2017 học viện đã tuyển bổ sung 9 GVNT mới tổng số 85 giảng viên
nghệ thuật. Nhìn bảng số liệu về số lượng GVNT các cơ sở đào tạo nghệ thuật vùng
Bắc Trung bộ giúp cho nhà quản lý thấy rõ số lượng GVNT phát triển trong các
năm và hiện tại để có kế hoạch bổ sung kịp thời nguồn lực này, đảm bảo cho hoạt
động đào tạo.
3.3.2.2. Về chất lượng
Với vị trí địa lý cũng như đặc thù vùng Bắc Trung bộ, nhất là đối với GVNT
đòi hỏi phải quan tâm đến chất lượng của từng giảng viên mang tính đặc thù. Việc
đào tạo nghệ thuật, thì nguồn nhân lực giảng viên là yếu tố quyết định vì ở đâu có
giảng viên giỏi, trình độ cao thì ở đó có sinh viên giỏi, chương trình đào tạo chất
lượng tốt, được xã hội đánh giá cao và công nhận. Đó chính là thước đo chất lượng
đào tạo, làm nên thương hiệu của các cơ sở đào tạo, thu hút người học, từ đó giải
quyết bài toán kinh tế hướng tới tự chủ cho các cơ sở đào tạo. Chất lượng của giảng
viên và GVNT nói chung được thể hiện ở các yếu tố: 1) Tư cách đạo đức; 2) Trình
độ chuyên môn; 3) Nghiệp vụ sư phạm; 4) Số lượng; 5) Cơ cấu đội ngũ giảng
viên.Bên cạnh đó, chất lượng của nguồn nhân lực giảng viên mang tính tập thể khác
với từng cá nhân đơn lẻ, đó là sự đoàn kết, đồng thuận, cùng nhau tham gia và hoàn
thành tốt nhiệm vụ của tập thể. Chất lượng nguồn nhân lực giảng viên hiện nay so
với chuẩn đầu ra, được thể hiện như sau:
Thứ nhất, về phẩm chất chính trị của GVNT đây là yếu tố quan trọng giúp họ
thể hiện bản lĩnh vững vàng trước những biến động của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác, có chuyên môn mà
không có chính trị thì chỉ là cái xác không hồn. Phải có chính trị rồi mới có chuyên
môn... Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có đức là
89
hỏng” [109]. Bên cạnh việc nỗ lực phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng
sư phạm, người giảng viên cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có niềm tin vào
tương lai tươi sáng của đất nước và có khả năng xử lý được những tình huống chính
trị nảy sinh trong hoạt động đào tạo. Đội ngũ GVNT ngoài dạy chuyên môn còn là
một trong những người trực tiếp xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển, thực
hiện mục tiêu và truyền đạt nhiệm vụ chính trị đến người học. Việc nâng cao nhận
thức chính trị cho GVNT là rất cần thiết, đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa
của giáo dục đại học Việt Nam, kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc và quốc tế, truyền
thống và hiện đại trong sự nghiệp giáo dục.
Thứ hai, về phẩm chất đạo đức của GVNT đây cũng là một trong những tiêu
chuẩn hàng đầu của nhà giáo nói chung và GVNT nói riêng. Cùng với năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức được coi là yếu tố không thể thiếu của nhà giáo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Người cách mạng không có đạo đức thì dù tài
giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Trong sự nghiệp“trồng người”
phẩm chất đạo đức luôn đóng vai trò chủ đạo có vị trí nền tảng. Nhà giáo phải có
phẩm chất đạo đức trong sáng, phải “chí công, vô tư, cần, kiệm, liêm, chính” để trở
thành tấm gương cho thế hệ trẻ noi theo, để giáo dục đạo đức và xây dựng nhân
cách cho thế hệ trẻ. Chính vì vậy, trong công tác tuyển dụng GVNT luôn đặt ra yêu
cầu đối với phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức của người dự tuyển cũng như
gia đình của người dự tuyển. Thực tế cũng đã chứng minh GVNT luôn gương mẫu
trong các công việc, có đạo đức tốt, sẵn sàng chia sẻ với những người gặp khó khăn,
tích cực tham gia các hoạt động tình nguyện...
Thứ ba, về năng lực của GVNT là hệ thống tri thức mà người giảng viên
được trang bị. Theo đó GVNT phải nắm vững hệ thống các kỹ năng và phương
pháp để tiến hành hoạt động sư phạm có hiệu quả. Kỹ năng được hiểu “là khả năng
vận dụng những kiến thức thu được vào hoạt động sư phạm và biến nó thành kỹ
xảo. Kỹ xảo là kỹ năng đạt tới mức thuần thục”. Giảng dạy và nghiên cứu khoa học
là hai hoạt động cơ bản, đặc trưng của người giảng viên. Vì vậy, nói đến năng lực
của giảng viên, cần phải xem xét trên hai góc độ chủ yếu là năng lực giảng dạy và
90
năng lực nghiên cứu khoa học: Năng lực giảng dạy là khả năng đáp ứng yêu cầu học
tập, nâng cao trình độ học vấn của đối tượng; là khả năng đáp ứng sự tăng quy mô
đào tạo; là khả năng truyền thụ tri thức mới cho sinh viên. Công tác nghiên cứu
khoa không chỉ tạo điều kiện để nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực giảng dạy,
chất lượng bài giảng và rèn luyện năng lực xử lý tình huống cho người giảng viên
trước những vấn đề bức xúc của thực tiễn mà còn làm tăng tiềm lực khoa học và
công nghệ quốc gia. Việc đánh giá chất lượng và năng lực nghiên cứu khoa học
không chỉ căn cứ vào số lượng các công trình khoa học mà chủ yếu căn cứ vào giá
trị và hiệu quả của các công trình đó đối với xã hội.
Thứ tư, Trình độ là khả năng trí tuệ của giảng viên trong hoạt động giảng dạy
và nghiên cứu khoa học. Trình độ của GVNT trước hết được thể hiện về chuyên
môn, nghiệp vụ, về khả năng tiếp cận và cập nhật thông tin thời đại công nghệ 4.0
với những thành tựu mới của thế giới, những tri thức khoa học hiện đại, những đổi
mới trong GDĐT để vận dụng trực tiếp vào hoạt động giảng dạy và nghiên cứu
khoa học của mình. Mặt khác, trình độ ngoại ngữ và tin học là những công cụ rất
quan trọng giúp người GVNT tiếp cận với tri thức khoa học tiên tiến của thế giới,
tăng cường hợp tác và giao lưu quốc tế để nâng cao trình độ, năng lực giảng dạy và
nghiên cứu khoa học. Vì vậy, trong công tác tuyển dụng GVNT,các cơ sở đào tạo
nghệ thuật không những đặt ra yêu cầu về bằng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_quan_ly_nha_nuoc_ve_phat_trien_nguon_nhan_luc_giang.pdf