Luận án Quyền giáo dục tại Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. 8

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. 8

1.2. Nhận xét tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và

những vấn đề đặt ra cần giải quyết trong luận án . 19

1.3. Giả thuyết nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu . 23

Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN GIÁO DỤC. 26

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, nội dung quyền giáo dục. 26

2.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền giáo dục. 45

2.3. Các yếu tố tác động đến quyền giáo dục . 52

Chương 3. THỰC TRẠNG QUYỀN GIÁO DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 63

3.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến quyền giáo dục ở Việt

Nam hiện nay. 63

3.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền giáo dục ở Việt

Nam hiện nay. 70

3.3. Kết quả, hạn chế trong thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục

của các thiết chế . 81

3.4. Đánh giá khái quát về thực hiện quyền giáo dục ở Việt Nam hiện

nay. 95

Chương 4. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUYỀN GIÁO

DỤC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.110

4.1. Quan điểm thực hiện quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay. 110

4.2. Giải pháp thực hiện quyền quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay. 114

KẾT LUẬN .147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NGHIÊN CỨU SINH ĐÃ

CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .151

PHỤ LỤC: Có văn bản riêng kèm theo

pdf169 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quyền giáo dục tại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
số 29-NQ/TW và Nghị quyết số 88/2014/QH13; bổ sung loại trường tư thục không vì lợi nhuận và việc chuyển đổi loại hình trường trường tư thục sang trường tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên; chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí và chi phí sinh hoạt đối với học sinh, sinh viên sư phạm; chính sách về học phí đối với học sinh diện phổ cập và quy định về đầu tư và tài chính cho GD. Đồng thời, các văn bản pháp luật đã chú trọng quy định về trách nhiệm của các thiết chế có trách nhiệm trao QGD, bao gồm: Cấp ủy các cấp, các cơ quan nhà nước đặc biệt là trách nhiệm của Bộ GD&ĐT - Cơ quan quản lý nhà nước về GDĐT, các bộ ngành có liên quan; chính quyền địa phương và trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội; các tổ chức kinh tế tư nhân đầu tư cho GDĐT (mở hệ thống các trường tư thục); gia đình và nhà trường trong bảo đảm thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. Thứ hai, quyền giáo dục trong văn bản dưới luật Để các quy định về QGD được thực hiện có hiệu quả, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các văn bản luật về QGD (xem thêm phụ lục 3.2, tr.14 - 18). Ngoài ra, các bộ, ban, ngành, địa phương nhất là Bộ GD&ĐT đã ban hành các văn bản để tổ chức thực hiện Hiến pháp, pháp luật về QGD trong thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Chỉ tính từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018, Quốc hội và Chính phủ đã thực hiện nhiệm vụ chỉ đạo rà soát, sửa đổi, bổ sung ban hành hệ thống chính sách, pháp 76 luật tạo cơ sở bảo đảm QGD, bao gồm: Ban hành 186 văn bản, trong đó: Quốc hội ban hành 01; Chính phủ ban hành 17, Thủ tướng ban hành 06; Bộ GD&ĐT ban hành 162 văn bản [19]. Nếu tính trong 15 năm (từ đầu năm 2005 đến tháng 6/2019) Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã trình cấp trên ban hành, ban hành theo thẩm quyền hoặc chủ trì phối hợp ban hành theo thẩm quyền tổng số 907 VBQPPL về GD, bao gồm: 05 luật, 02 nghị quyết của Quốc hội; 46 nghị định, nghị quyết của Chính phủ; 121 quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; 643 VBQPPL thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng (quyết định, chỉ thị, thông tư); 90 văn bản liên tịch [21, tr.4]. Cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật, Nhà nước đã ban hành nhiều chiến lược và chương trình quốc gia về bảo đảm QGD và tổ chức thực hiện (xem thêm phụ lục 3.3, tr.34). Để bảo đảm nguồn lực tài chính (điều kiện về kinh tế) cho thực hiện QGD, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2009/QH12 ngày 09/6/2009 về đổi mới một số cơ chế tài chính trong GDĐT, Nghị quyết đặt ra mục tiêu của việc đổi mới cơ chế tài chính để nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và bảo đảm công bằng trong GDĐT để mọi người ai cũng được học hành với nền GD có chất lượng ngày càng cao. Bên cạnh đó, công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật về QGD cũng được chú trọng: Từ năm 2005 đến hết tháng 6 năm 2019 Bộ GD&ĐT đã tiến hành rà soát 4.421 lượt văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực GD. Đồng thời, Bộ cũng chú trọng công tác tự kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật: Từ năm 2005 đến hết tháng 6 năm 2019, Bộ GD&ĐT đã tiến hành tự kiểm tra 752 văn bản quy phạm pháp luật do Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành và liên tịch ban hành [21, tr.5], (xem thêm phụ lục 8, tr.67,83,84). Quyết tâm chính trị của Nhà nước ta trong xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện QGD của mọi người ở Việt Nam được thể hiện: Một là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm tăng cường hoạt động của các thiết chế bảo đảm chung: Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với phát triển GDĐT: Gồm 08 văn bản; Hai là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản bảo đảm thực hiện QGD cho mọi người theo độ tuổi và các cấp độ đào tạo (Giáo dục mầm non gồm giáo dục nhà trẻ và giáo dục mẫu giáo; Giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học, giáo dục trung học cơ sở và giáo dục trung học phổ thông; Giáo dục 77 nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng và các chương trình đào tạo nghề nghiệp khác; Giáo dục đại học đào tạo trình độ đại học, trình độ thạc sĩ và trình độ tiến sĩ): Gồm 27 văn bản; Ba là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả GDĐT, bảo đảm trung thực, khách quan, tạo cơ hội bình đẳng cho người học: Gồm 35 văn bản; Bốn là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm hoàn thiện hệ thống GD quốc dân theo hướng hệ thống GD mở, học tập suốt đời (mọi lứa tuổi) và xây dựng xã hội học tập: Gồm 26 văn bản; Năm là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm đổi mới căn bản công tác quản lý GDĐT, coi trọng quản lý chất lượng để thúc đẩy QGD: Gồm 27 văn bản; Sáu là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý - chủ thể trao QGD cho mọi người: Gồm 33 văn bản; Bảy là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển GDĐT - tạo điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện QGD: Gồm 15 văn bản; Tám là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, tạo cơ sở khoa học cho việc thực hiện QGD: Gồm 06 văn bản; Chín là, xây dựng, hoàn thiện pháp luật bảo đảm chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GDĐT nhằm học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ các nguồn lực bảo đảm thực hiện QGD, quyền được học tập ở nước ngoài của công dân Việt Nam và quyền được học tập ở Việt Nam của người nước ngoài: Gồm 09 văn bản (xem thêm phụ lục 3.2, tr.14-33) [19, tr.80-90]. 3.2.2. Hạn chế về ghi nhận quyền giáo dục trong pháp luật Việt Nam hiện nay Thứ nhất, pháp luật chưa nội luật hóa kịp thời, đồng bộ các chuẩn mực quốc tế về quyền giáo dục, chưa thể chế hóa kịp thời quan điểm, đường lối chính sách của Đảng về quyền giáo dục Một là, chưa thể chế hóa kịp thời, đồng bộ các chuẩn mực quốc tế về QGD; quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới cơ chế tài chính, đẩy mạnh xã hội hóa công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng công dân học tập, đơn vị học tập và tỉnh, thành phố học tập; bảo đảm thực hiện QGD của các nhóm dễ bị tổn thương; nâng cao chất lượng GD ở các cấp độ đào tạo cho chủ thể hưởng thụ quyền theo cấp độ tuổi; năng lực hội nhập quốc tế của hệ thống GD để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. 78 Hai là, chưa làm tốt nhiệm vụ rà soát, bổ sung cơ chế, chính sách về xây dựng xã hội học tập; tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích, tôn vinh các tập thể, cá nhân đóng góp các nguồn lực cho GDĐT, cho công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Chưa có chế tài để bắt buộc các địa phương quan tâm hỗ trợ kinh phí để củng cố, phát triển bền vững các trung tâm học tập cộng đồng cấp xã; tạo thuận lợi cho các trung tâm học tập cộng đồng tham gia hoạt động khuyến học, khuyến tài, đào tạo nghề, xây dựng xã hội học tập thật sự hiệu quả Chưa hoàn thiện được thể chế để đánh giá đúng chất lượng của nhà giáo; chưa có chế tài đủ mạnh để xử lý hành vi vi phạm đạo đức nghề nghiệp và các tiêu cực trong GD, dẫn đến gây bức xúc, lo lắng trong nhân dân (xem thêm phụ lục 7, tr. 60-62 và phụ lục 8, tr.86). Thứ hai, pháp luật về quyền giáo dục chậm đổi mới, còn có sự lúng túng trong triển khai thể chế hóa chủ trương cải cách giáo dục Tiến độ soạn thảo văn bản còn tình trạng chậm, muộn, phải xin kéo dài thời hạn trình. Một số văn bản hướng dẫn Luật GD đại học còn chậm, chưa bảo đảm đúng tiến độ đề ra, chưa kịp thời ban hành đúng thời điểm luật có hiệu lực, chẳng hạn Luật GD ban hành năm 2012 nhưng đến gần cuối năm 2015 Chính phủ mới ban hành theo thẩm quyền Nghị định của Chính phủ quy định phương thức và tiêu chí phân bổ nguồn ngân sách nhà nước cho các cơ sở GD đại học; Thông tư ban hành chuẩn quốc gia đối với cơ sở GD đại học;... Việc lấy ý kiến góp ý thông qua hình thức đăng mạng, ý kiến của đối tượng chịu sự tác động của văn bản chưa thực sự có hiệu quả. Ngân sách phục công tác soạn thảo, ban hành văn bản chưa tương xứng làm hạn chế khả năng nghiên cứu, phân tích chính sách và khả năng mở rộng dân chủ, thu hút sự tham gia rộng rãi của các chuyên gia, nhà khoa học, các tổ chức và đối tượng thi hành văn bản vào quá trình soạn thảo văn bản trước khi trình ban hành [21, tr.25]. Thứ ba, khuôn khổ pháp luật Việt Nam về quyền giáo dục mặc dù đang từng bước được hoàn thiện, nhưng vẫn chưa đảm bảo tính thống nhất, tính đồng bộ Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về QGD ở Việt Nam khá đồ sộ nhưng chưa thực sự thống nhất, đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Các quy định về tiêu chí, điều kiện và quy trình thành lập trường trong các văn bản của Nhà nước chưa cụ thể. Nhiều vấn đề mới, quan hệ mới xuất hiện và tồn tại có tính phổ biến 79 nhưng chưa được ghi nhận và điều chỉnh bằng pháp luật (chẳng hạn QGD trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư); quy định để kiểm soát quá trình xã hội hóa GD, nhất là việc các cá nhân, tổ chức nước ngoài mở các trung tâm thực hiện chức năng GD, tào tạo. Đặc biệt là các quy định về kiểm tra, đánh giá chất lượng đào tạo; phát triển GDĐT, chưa thật sự đáp ứng tiêu chí GDĐT là quốc sách hàng đầu; chậm sửa đổi, bổ sung các quy định về cơ sở GD, đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo; trong đó rõ nhất là thiếu các quy định cụ thể, rõ ràng về ưu tiên về chất lượng, số lượng và điều kiện thực hiện QGD; thiếu các quy định cho người dạy và người học có một môi trường quản trị GD hợp lý để lao động, sáng tạo; thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chế độ trọng dụng nhân tài; các quy định để triển khai chủ trương xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia còn chậm; chính sách, luật pháp về đào tạo, dạy nghề chưa đảm bảo gắn sản xuất với thị trường lao động và nhu cầu việc làm của người lao động. Quy định về hệ thống GD quốc dân chưa thể hiện được sự gắn kết chặt chẽ giữa các cấp học và trình độ đào tạo; quy định về mục tiêu, yêu cầu, nội dung, chương trình GD, phương pháp GD phổ thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học; quy định về đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, tuyển dụng, sử dụng nhà giáo chưa đảm bảo yêu cầu xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GD đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT. Chính sách đối với việc phát triển đội ngũ cán bộ chưa phù hợp, chưa thu hút được người tài giỏi vào các trường đại học để tạo nguồn nhân lực giảng dạy (chủ thể trao quyền giáo dục) Đa số các trường ngoài công lập chưa có chính sách, chế độ thỏa đáng khuyến khích giảng viên theo học cao học, nghiên cứu sinh, dẫn đến hạn chế cơ hội tiếp cận và hưởng thụ QGD của chính chủ thể có trách nhiệm trao quyền đặc biệt này... Quy định về quản lý nhân sự ở cơ sở GD đại học không theo kịp với quá trình đổi mới GD đại học, cũng như những thay đổi của khoa học quản lý và thực tiễn quản lý nói chung (xem thêm phụ lục 7, tr. 60-64 và phụ lục 8, tr.86-87). Thứ tư, quy định về bảo đảm cơ hội bình đẳng trong tiếp cận và hưởng thụ quyền giáo dục của các nhóm dễ bị tổn thương, đặc biệt là người dân tộc thiểu số còn nhiều bất cập Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT-BTC-BGDĐT ngày 29 tháng 5 năm 2009 về hướng dẫn một số chế độ tài chính đối với học sinh các trường phổ thông 80 dân tộc nội trú và các trường dự bị đại học dân tộc quy định mức học bổng chính sách bằng 80% mức lương tối thiểu của Nhà nước/12 tháng/năm (tương đương với 840.000đ/tháng; bình quân 28.000đ/học sinh/ngày và 9.300đ/bữa ăn/học sinh). Với mức trợ cấp như vậy, sẽ không đủ đảm bảo sức khỏe cho việc học tập của học sinh. Quy định về mức hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú theo Quyết định 85/2010/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ bằng 40% mức lương tối thiểu chung tương đương 420.000đ/tháng, bình quân bằng 14.000đ/ngày/học sinh là quá thấp không phù hợp với thực tiễn. Việc quy định về đối tượng, phạm vi áp dụng quy định về mức hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú cũng khá hạn hẹp, đối tượng thụ hưởng chính sách này chưa phủ hết vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn, những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo Quyết định số 30/2007/QĐ-TTg vẫn chưa được áp dụng. Quy định về cơ cấu ngành nghề đào tạo cử tuyển chưa phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; ngành nghề cử tuyển hàng năm tập trung chủ yếu vào một số ngành nông, lâm nghiệp, văn hóa, thể thao. Quy định về công tác bố trí việc làm cho học sinh diện cử tuyển sau khi tốt nghiệp ra trường đang chồng chéo giữa hai Nghị định của Chính phủ: Nghị định số 134/2006/NĐ-CP quy định Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức tiếp nhận và phân công công tác cho người học được cử đi học theo chế độ cử tuyển sau khi tốt nghiệp; Nghị định số 24/2010/NĐ-CP và Nghị định 116/2003/NĐ-CP quy định việc tuyển dụng công chức, viên chức phải thông qua hình thức thi tuyển hoặc xét tuyển. Sinh viên cử tuyển ra trường vẫn phải thi tuyển công chức như các đối tượng khác. Quy định về kinh phí đào tạo khó khả thi: Nghị định 134/2006/NĐ-CP quy định kinh phí đào tạo do địa phương chi trả bao gồm học phí, phụ cấp sinh hoạt, phụ cấp chính sách và các chi phí khác. Nhưng các địa phương vùng dân tộc thiểu số đều là tỉnh nghèo nên việc yêu cầu chi trả kinh phí thực hiện chính sách cử tuyển gặp khó khăn, do đó các địa phương cũng chưa thực hiện hết chỉ tiêu được giao. Quy định về bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục, đào tạo còn bất cập do ảnh hưởng của quy định chênh lệch về tuổi nghỉ hưu của phụ nữ so với nam giới (ít hơn 05 năm) do đó tạo rào cản cho phụ nữ tiếp cận và hưởng thụ QGD vì ít cơ hội tham gia các hệ lớp đào tạo, tạo bức tường kính cho sự thăng tiến trong chức nghiệp cũng như cơ hội được học tập ở các bậc đào tạo đại học, sau đại học của phụ nữ. Bên cạnh đó, 81 quy định chỉ tiêu tuyển sinh nữ vào các cơ sở đào tạo của Quân đội, Công an rất thấp dẫn đến tiêu chí về điểm thi trúng tuyển nữ sinh cao hơn nam sinh với lý giải đây là hai lĩnh vực nghề nghiệp chỉ phù hợp với nam giới ; vô tình tạo ra bất bình đẳng giới, hạn chế cơ hội tiếp cận hưởng thụ QGD tại các cơ sở đào tạo của Quân đội, Công an, của nữ sinh; tạo rào cản cho việc thực hiện mơ ước được phục vụ trong quân đội và Công an của nữ sinh. Bên cạnh đó, chưa có chính sách ưu tiên riêng trong GD đối với các trường cử tuyển đối với trẻ em gái và phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nghèo ở nông thôn, dân tộc thiểu số. Chẳng hạn, Điều 65, Luật Dạy nghề về chính sách đối với người học nghề theo hướng: chưa quy định về đối tượng phụ nữ ở nông thôn được hỗ trợ chi phí học nghề; chưa có chính sách ưu đãi vay vốn đi học cho phụ nữ nông thôn; chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ sở dạy nghề trong việc hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người học nghề, đặc biệt người học nghề là lao động nữ ở nông thôn. Thứ năm, quy định về chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về quyền giáo dục còn thiếu và chưa đồng bộ Thiếu các chế tài đủ mạnh để xử lý vi phạm QGD, chẳng hạn vi phạm quy định về cấm “Dạy thêm, học thêm, lạm thu đầu năm học, bạo lực học đường, sử dụng lãng phí sách giáo khoa”; chế tài xử lý đối với các trường không thực hiện đúng cam kết về các điều kiện mở ngành và tuyển sinh; chế tài xử lý đủ mạnh với hành vi gian lận thi cử; chưa có quy định cụ thể về yêu cầu các trường phải xây dựng chuẩn năng lực người tốt nghiệp nên chưa có cơ sở đánh giá đúng chất lượng đào tạo(xem thêm phụ lục 7, tr. 60-64 và phụ lục 8, tr.86-87). Những hạn chế này là rào cản cho quá trình thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. 3.3. Kết quả, hạn chế trong thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của các thiết chế 3.3.1.Kết quả thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của các thiết chế 3.3.1.1. Khái quát về các thiết chế có trách nhiệm trao quyền giáo dục ở Việt Nam hiện nay Trong chương 2, tại phần: Nội dung điều chỉnh của pháp luật về QGD, luận án đã đề cập: Các thiết chế bảo đảm thực hiện QGD (thiết chế có trách nhiệm trao QGD) tại Việt Nam khá đa dạng với nhiều cấp độ khác nhau. Thứ nhất, thực hiện QGD tại Việt Nam chịu tác động của các thiết chế do cộng đồng quốc tế xây dựng mang tính toàn cầu và khu vực với mục tiêu hoạt động 82 nhằm bảo đảm thực hiện QGD ở nhiều cấp độ như: UNESCO, Chương trình Đánh giá học sinh quốc tế (PISA), Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF), UNDP, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); Học bổng ASEAN, Mạng lưới đại học ASEAN (AUN), Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC), Tổ chức Bộ trưởng GD các nước Đông Nam Á (SEAMEO), Tổ chức Đại học Pháp ngữ (AUF) và các quỹ hỗ trợ của nhiều trường đại học, viện nghiên cứu quốc tế khác. Hoạt động bảo đảm thực hiện QGD của các tổ chức này tại Việt Nam thường diễn ra dưới hình thức hỗ trợ các dự án phát triển, cung cấp chuyên gia và các khoản hỗ trợ tài chính; trao các suất học bổng cho học sinh, sinh viên, học viên các cấp học; tham gia vào quá trình đánh giá khách quan về mức độ đáp ứng các tiêu chuẩn GD quốc tế của những cơ sở GD tại Việt Nam. Thứ hai, hệ thống thiết chế có chức năng bảo đảm chung về trao QGD tại Việt Nam gồm có: i) Đảng Cộng sản Việt Nam; ii) Nhà nước: Quốc hội (cơ quan lập pháp); Chủ tịch nước; Chính phủ (cơ quan hành pháp); Các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện Kiểm sát, các cơ quan có chức năng bổ trợ tư pháp); Chính quyền địa phương. Thứ ba, các thiết chế khác (thiết chế xã hội) Hệ thống thiết chế xã hội có chức năng trao QGD tại Việt Nam gồm có: i) Các tổ chức chính trị - xã hội: MTTQVN, Công đoàn Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nông dân Việt Nam; ii) Các tổ chức hội có tính chất đặc thù (28 Hội theo Quyết định số: 68/2010/QĐ-TTg ngày 01/11/2010 của Chính phủ về quyết định quy định Hội có tính chất đặc thù) tiêu biểu như: Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam; Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam; Hội Nhà báo Việt Nam; Hội Luật gia Việt Nam; Liên minh hợp tác xã Việt Nam; Hội Sinh viên Việt Nam; Hội Người cao tuổi Việt Nam; Hội Người mù Việt Nam; Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam; Hội Khuyến học Việt Nam; iii) Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp: Tiêu biểu như Liên đoàn Luật sư Việt Nam; iv) Thiết chế truyền thông, báo chí. Bên cạnh đó, còn có các tổ chức tư nhân tham gia đào tạo trong các trường tư thục. Sự vận hành của các thiết chế này có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả thực hiện QGD ở Việt Nam hiện nay. 3.3.1.2. Thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của các thiết chế ở Việt Nam hiện nay - Thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của các thiết chế có chức năng bảo đảm chung 83 Thứ nhất, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với thực hiện quyền giáo dục Một là, với vị trí của một Đảng cầm quyền, trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn khẳng định chính sách nhất quán tôn trọng, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm thực hiện QGD được thực hiện trong thực tế; coi đó là động lực quan trọng thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Điều này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng về GDĐT; trong sự chỉ đạo, lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện trách nhiệm trao QGD cho mọi người; bồi dưỡng và giới thiệu những Đảng viên ưu tú tham gia lãnh đạo, quản lý các cơ quan, tổ chức có chức năng, nhiệm vụ trao QGD; kiểm tra, giám sát việc thực hiện trách nhiệm trao QGD của tổ chức đảng và đảng viên tại nhiều cấp, ngành, địa phương (xem thêm phụ lục 2, tr.13). Hai là, nhận thức và tư duy của Đảng ta về giáo dục, đào tạo có những đổi mới quan trọng, phù hợp với xu thế hiện nay trên thế giới. Hệ thống quan điểm, tư tưởng của Đảng ta về phát triển GD được bổ sung, phát triển, đáp ứng yêu cầu vận động đồng bộ với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Thể hiện trong việc đổi mới tư duy GD là đổi mới căn bản, toàn diện GD Việt Nam theo hướng chuyển từ cách tiếp cận từng phần sang cách tiếp cận tổng thể, toàn hệ thống (đổi mới tư duy theo tiếp cận hệ thống) trong phát triển GD với trọng tâm nâng cao chất lượng, hiệu quả và công bằng xã hội trong GD; tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận và hưởng thụ QGD. Ba là, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về mục tiêu GD là tạo cơ hội để mọi người chủ động tiếp cận và hưởng thụ QGD, hoàn thiện nhân cách bản thân; quan tâm đến vấn đề thị trường giáo dục, xã hội hóa GD để tăng cơ hội tiếp cận QGD của mọi người, định hướng phát triển GDĐT gắn với phát triển con người Việt Nam. Thứ hai, thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của thiết chế Nhà nước Một là, thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của Quốc hội Quốc hội là cơ quan quan lập pháp có trách nhiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về QGD. Quốc hội vừa là chủ thể trao quyền, vừa là chủ thể chỉ đạo, giám sát quá trình thực hiện trách nhiệm trao QGD của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nhằm bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc bình đẳng trong tiếp cận và thụ hưởng QGD cho mọi chủ thể. Thể hiện trên những phương diện sau đây. 84 Quốc hội xây dựng Hiến pháp và làm pháp luật tạo cơ sở pháp lý trao quyền giáo dục ở Việt Nam Quốc hội đã ban hành các bản Hiến pháp, tạo tiền đề cho việc triển khai, xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật về QGD ở Việt Nam. Quốc hội đã thông qua các văn bản luật liên quan đến QGD, trong đó có 14 Bộ luật, luật liên quan trực tiếp đến QGD (xem thêm phụ lục 3.1, tr.14); quan tâm đổi mới quy trình xây dựng, ban hành luật đảm bảo sự tham gia nhiều hơn của nhân dân trong quá trình soạn thảo và thông qua các văn bản luật có liên quan đến QGD. Đồng thời, Quốc hội ban hành các Nghị quyết chuyên đề về GD đào tạo (xem thêm phụ lục 3.2, tr.14). Quốc hội giám sát việc ban hành và thực hiện chính sách, pháp luật về quyền giáo dục: giám sát tối cao việc ban hành văn bản chính sách, pháp luật và thực hiện chính sách, pháp luật của Chính phủ các bộ ngành thuộc Chính phủ về QGD; giám sát hoạt động của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc thực hiện chính sách về GDĐT; thực hiện giám sát thông qua thẩm tra, xem xét các báo cáo công tác hàng năm của các cơ quan về tình hình thực hiện chính sách pháp luật về QGD của Chính phủ (trực tiếp là Bộ GD&ĐT). Tại mỗi kỳ họp, Quốc hội yêu cầu Chính phủ (trực tiếp là Bộ GD&ĐT) báo cáo giải trình về những vấn đề liên quan đến QGD đang được cử tri cả nước quan tâm như: giải trình về việc thực hiện chính sách, pháp luật trong tuyển dụng, sử dụng đội ngũ giáo viên và tổ chức kỳ thi trung học phổ thông quốc gia sau vụ việc vi phạm nghiêm trọng pháp luật về GDĐT (nâng điểm thi) của các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Hà Giang [101]; tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã giám sát báo cáo giải trình của Bộ GD&ĐT (Báo cáo do Bộ trưởng ký gửi các địa biểu Quốc hội ngày 22/1//2020) về các vấn đề liên quan đến sách giáo khoa lớp 1 - nằm trong bộ Cánh Diều đang gây bức xúc trong dư luận Bên cạnh đó, Quốc hội cũng thành lập nhiều đoàn giám sát trực tiếp hoạt động của các cơ quan ở Trung ương và địa phương trong cả nước, qua đó đảm bảo cho các quy định của Hiến pháp và pháp luật về QGD được thực hiện một cách đầy đủ và kịp thời; quan tâm nâng cao chất lượng công tác tiếp xúc cử tri; tiếp nhận, xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo liên quan đến QGD... Hai là, thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của Chủ tịch nước: Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, 85 thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại; có những quyền hạn và có trách nhiệm tham gia vào hầu hết những vấn đề quan trọng của đất nước đều có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến QCN, quyền công dân trong đó có QGD. Ba là, thực hiện trách nhiệm trao quyền giáo dục của Chính phủ Chính phủ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, chính sách về quyền giáo dục Trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật do Quốc hội ban hành Chính phủ xây dựng các cơ chế, chính sách, biện pháp, chương trình có tính đến các điều kiện đặc thù của các vùng, miền để hiện thực hóa QGD cho mọi người. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng xây dựng và chỉ đạo thực hiện các Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tạo tiền đề kinh tế quan trọng để trao QGD cho mọi người. Có thể thấy với thẩm quyền lập quy của mình Chính phủ có vai trò hoàn thiện các quy định pháp lý về QGD. Theo số liệu báo cáo của Bộ GD&ĐT: chỉ tính từ năm 2014 đến tháng 6 năm 2018, Chính phủ đã ban hành 17 văn bản quy phạm pháp luật, Thủ tướng Chính phủ ban hành 06 văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến QGD [20, tr.81]. Chính phủ tổ chức thực hiện chính sách pháp luật về quyền giáo dục: i) Chính phủ thực hiện trách nhiệm bả

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_quyen_giao_duc_tai_viet_nam_hien_nay.pdf
Tài liệu liên quan