Luận án Quyền năng kinh tế của phụ nữ nông thôn trong mô hình hợp tác xã kiểu mới tại Việt Nam

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨULIÊN QUAN

ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. 15

1.1. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ VÀ HỢP

TÁC XÃ KIỂU MỚI . 15

1.1.1. Các nghiên cứu quốc tế. 15

1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam. 16

1.2. CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LAO ĐỘNG NỮ NÔNG THÔN VÀ

QUYỀN NĂNG KINH TẾ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG MÔ HÌNH

HỢP TÁC XÃ. 19

1.2.1. Các nghiên cứu quốc tế. 19

1.2.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam. 23

1.3. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ TÁC ĐỘNG CỦA NÂNG CAO QUYỀN NĂNG KINH

TẾ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI. 28

1.3.1. Tác động của nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ nông

thôn đến quá trình phát triển về kinh tế . 28

1.3.2. Tác động của nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ nông

thôn đến quá trình phát triển về xã hội . 29

1.4. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HưỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN. 30

1.4.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu. 30

1.4.2. Hướng nghiên cứu của luận án . 31

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUYỀN NĂNG

KINH TẾ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG MÔ HÌNH HỢP

TÁC XÃ KIỂU MỚI. 34

2.1. KHÁI NIỆM VỀ MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI VÀ QUYỀN NĂNG

KINH TẾ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ

KIỂU MỚI . 34

pdf199 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 322 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Quyền năng kinh tế của phụ nữ nông thôn trong mô hình hợp tác xã kiểu mới tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp tác xã, sản xuất theo chuỗi giá trị để thu được lợi nhuận cao hơn. Theo nghiên cứu của UNDP năm 2013 về tiếp cận đất đai của phụ nữ trong xã hội Việt Nam, tỷ lệ hộ gia đình ở đô thị thực hiện việc đưa tên cả hai vợ chồng vào giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cao hơn hẳn so với tại các địa bàn nông thôn. Tỷ lệ phụ nữ đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đứng tên cùng chồng có xu hướng cao hơn nếu như mảnh đất họ sinh sống là do chính cha mẹ đẻ để lại, mảnh đất được cấp cho vợ hoặc chồng và những mảnh đất họ cùng mua sau khi kết hôn [21]. Vì vậy, việc tuyên truyền để phụ nữ nông thôn hiểu đúng về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành là rất quan trong và cần thiết. Về tiếp cận vốn, phụ nữ nông thôn thường ít được vay vốn và số vốn được vay thường ít hơn nam giới. Điều tra dân số nông thôn 2006, với việc thu thập số liệu về các khoản vay dành cho mục đích sản xuất và kinh doanh, cho thấy trên quy mô cả nước chỉ có 31% hộ gia đình nông thôn được vay vốn dành cho mục đích sản xuất và kinh doanh, xét theo tỷ trọng tương ứng thì có ít hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ được tiếp cận vốn: 24% so với 33% hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ. Trong khi có rất nhiều nguồn vốn vay ưu đãi cho phụ nữ nông thôn, một đánh giá mới đây của các chính sách an sinh xã hội cho thấy các chương trình này có xu hướng bị phân đoạn, được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau tại địa phương, và ít phối hợp với các chương trình đào tạo và khuyến nông [82]. Mặc dù chưa có nghiên cứu tổng thể về việc tham gia HTX có tạo điều kiện cho thành viên, trong đó có phụ nữ tiếp cận nguồn lực sản xuất, nhưng kết quả nghiên cứu 150 phụ nữ nông thôn (tại Thái Nguyên, Quảng Bình, Cần Thơ) cho thấy, đối với các phụ nữ tham gia HTX được phỏng vấn, tỷ lệ được vay vốn tăng và khả năng trả nợ đúng hạn tăng. Cụ thể, so sánh trước thời điểm tham gia HTX, chỉ có 39% được vay vốn sản xuất, sau khi tham gia HTX, đã có 52,4% 81 chị được vay vốn; về khả năng trả nợ đúng hạn, trước khi tham gia HTX có 4% không thể trả nợ đúng hạn, sau khi tham gia HTX tỷ lệ này là 0%. 39 52.4 61 47.8 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% Trước khi tham gia HTX Sau khi tham gia HTX Không được vay vốn Có dược vay vốn Hình 3.2: Phân loại nhóm phụ nữ nông thôn tham gia hợp tác xã theo tỷ lệ tiếp cận vốn thời điểm trƣớc và sau tham gia hợp tác xã Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS năm 2019 Nếu so sánh giữa phụ nữ nông thôn tham gia HTX và không tham gia HTX, cho thấy tỷ lệ được vay vốn của nhóm phụ nữ nông thôn tham gia các loại hình kinh tế khác cao hơn so với nhóm tham gia HTX (75% so với 53%). Tuy nhiên nếu so sánh về các hình thức hỗ trợ của HTX cho phụ nữ với nhóm phụ nữ không tham gia HTX cho thấy ở nhóm phụ nữ nông thôn tham gia HTX tỷ lệ các chị được nhận hỗ trợ vật chất và hỗ trợ kỹ thuật lớn hơn nhiều so với nhóm không tham gia HTX: 36,2% được đào tạo về quản lý kinh doanh (tỷ lệ này ở nhóm không tham gia HTX là 26%); 75,4% được đào tạo về chuyên môn kỹ thuật là (tỷ lệ này ở nhóm không tham gia HTX là 38%); 27,5% được hỗ trợ máy móc, trang thiết bị sản xuất (tỷ lệ này ở nhóm không tham gia HTX là 20%); 14% được hỗ trợ xây dựng thương hiệu (tỷ lệ này ở nhóm không tham gia HTX là 7%). 82 0,54 0,66 0,74 0,81 0,66 0,74 0,58 0,50 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% Tư vấn ĐT về quản lý kinh doanh ĐT về chuyên môn kỹ thuật cho các thành viên Hỗ trợ kết nối thương mại thị trường Hỗ trợ máy móc trang thiết bị Xây dựng thương hiệu Hỗ trợ xây dựng nhà xưởng Hỗ trợ nguyên vật liệu/cây con giống Có tham gia HTX Không tham gia HTX Hình 3.3: Phân loại nhóm phụ nữ nông thôn tham gia và không tham gia hợp tác xã theo các hình thức hỗ trợ thành viên Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS năm 2019 Như vậy, trong phạm vi nhóm phụ nữ nông thôn tham gia HTX được phỏng vấn, nếu so sánh thời điểm trước và sau khi tham gia HTX thì khi tham gia HTX, phụ nữ nông thôn được vay vốn nhiều hơn. Nếu so sánh giữa nhóm phụ nữ nông thôn tham gia HTX và nhóm phụ nữ nông thôn không tham gia HTX, tuy tỷ lệ được vay vốn của nhóm tham gia HTX thấp hơn nhưng tỷ lệ được hỗ trợ các nguồn lực khác lại lớn hơn. Đây cũng là điều kiện cơ bản hỗ trợ phụ nữ nâng cao quyền năng kinh tế. Phỏng vấn nhóm PN tham gia HTX cho thấy sau khi tham gia HTX, 52% người được phỏng vấn cho biết khả năng tiếp cận nguồn tài chính tăng lên nhiều hoặc rất nhiều. 83 Ngoài ra, việc tham gia HTX đã hỗ trợ các nguồn lực khác cho sự phát triển kinh tế của phụ nữ nông thôn. 100% phụ nữ nông thôn tham gia HTX được cung ứng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất cho thành viên, trong đó 60,9% được HTX cung ứng sản phẩm dịch vụ đầu vào cho sản xuất kinh doanh của thành viên; 62,5% được cung cấp các hoạt động đào tạo, chuyển giao khoa học kỹ thuật; 81,9% được hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm dịch vụ đầu ra; 61,2% được tạo việc làm; 21% được hỗ trợ tín dụng; 22,6% được hỗ trợ kiểm tra, giám sát quá trình sản xuất kinh doanh. Hộp 3.1. Sự thay đổi về tiếp cận nguồn lực sản xuất của phụ nữ nông thôn trong mô hình hợp tác xã kiểu mới “Trước khi tham gia HTX tôi không được vay vốn do gia đình thuộc hộ cận nghèo, không có tài sản thế chấp. Từ tháng 6/2016, sau khi tham gia HTX Khoai deo, tôi đã được HTX tạo điều kiện để vay vốn của Ngân hàng theo hình thức tín chấp với số vốn 50 triệu/năm vay trong 3 năm để mua vật tư hàng hoá đầu vào cho sản xuất. Với sự hỗ trợ của HTX trong tư vấn, đào tạo về kỹ thuật sản xuất, kết nối bán sản phẩm, đến nay tôi không còn khoản nợ quá hạn nào và việc làm, thu nhập được ổn định, cải thiện hơn nhiều”. (Ý kiến của chị Nguyễn Thị Liên, thành viên HTX Khoai Deo, xã Hải Ninh, huyện Quảng Ninh, t nh Quảng Bình) 84 0.195 0.2 0.2625 0.1975 0.0675 0.0725 Cung ứng sản phẩm, DV đầu vào ĐT, chuyển giao KHKT, nghề nghiệp Tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra của thành viên Tạo việc làm cho thành viên HTX Tiín dụng cho thành viên Kiếm tra, giám sát quá trình SXKD Hình 3.4: Phân loại nhóm phụ nữ nông thôn tham gia hợp tác xã theo các hình thức hỗ trợ của hợp tác xã với thành viên Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS năm 2019 Trong nhóm phụ nữ nông thôn tham gia HTX, với thời gian tham gia trung bình 3-4 năm, khi đánh giá về mức độ hài lòng đối với dịch vụ do HTX cung cấp, 33,33% thể hiện mức hài lòng cao nhất (mức 5, trong thang đánh giá từ 1-5), 65,8% thể hiện mức hài lòng từ 3-4. Tuy đây chỉ là kênh tham khảo nhưng có thể khẳng định, đối với nhóm phụ nữ tham gia HTX được phỏng vấn, về cơ bản HTX đáp ứng được yêu cầu về dịch vụ cung ứng đối với thành viên so với thời điểm trước khi tham gia HTX. 3.2.2. Sự thay đổi về năng lực tiếp thu, sử dụng các kiến thức, kỹ năng trong phát triển sản xuất Theo số liệu Tổng điều tra dân số năm 2019, tỷ lệ lao động nữ đã qua đào tạo trong tổng số lao động nữ theo trình độ chuyên môn kỹ thuật có sự tăng lên nếu so sánh năm 2013 và 2019, tuy nhiên còn ở mức thấp, chưa đáp ứng yêu cầu, còn đến 79,5% lao động nữ chưa qua đào tạo [77]. Các loại hình đào tạo nghề dành cho phụ nữ thường là ngắn hạn và được tập trung vào các 85 kỹ năng “truyền thống”. Điều này hạn chế việc tiếp cận với đào tạo kỹ thuật nông nghiệp, dẫn đến bất bình đẳng giới trong việc tiếp cận và áp dụng công nghệ mới và các phương pháp giúp tăng năng suất cao hơn. Bảng 3.5. Tỷ lệ lao động nữ khu vực nông thôn và lao động nữ có trình độ chuyên môn Đơn vị: % Stt Nội dung 2013* 2019** [65] 1 Tỷ lệ % lao động nữ trong tổng số lao động khu vực nông thôn 48,7 47,4 2 Tỷ lệ % lao động nữ đã qua đào tạo trong tổng số lao động nữ theo trình độ chuyên môn, kỹ thuật 15,4 20,5 Nguồn: * Tổng cục Thống kê (2014), áo cáo điều tra Lao động, việc làm năm 2013; ** Tổng cục Thống kê (2019), Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0h ngày 01/4/2019, Hà Nội. Qua phỏng vấn 150 phụ nữ nông thôn trong mô hình HTX kiểu mới (tại Thái Nguyên, Quảng Bình, Cần Thơ), nghiên cứu mức độ tiếp cận các hình thức đào tạo nâng cao năng lực khi tham gia HTX so sánh với thời điểm trước khi tham gia HTX có thể cho thấy HTX đã tạo điều kiện cho phụ nữ nông thôn trong mẫu khảo sát tham gia nhiều hơn vào các hoạt động nâng cao năng lực. Trước khi tham gia HTX chỉ có 38% được tham gia các hoạt động tập huấn nâng cao năng lực, sau khi tham gia HTX, con số này tăng đáng kể, lên đến 94,4%. Điều này cho thấy HTX tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phụ nữ nâng cao năng lực. Lý do trước khi tham gia HTX không được tập huấn nâng cao năng lực là không có ai mời tham gia (58,4%). Những phụ nữ nông thôn tham gia HTX được tập huấn về các kiến thức liên quan đến lập kế hoạch kinh doanh, quản lý HTX (68%), kỹ thuật chăn nuôi, trồng trọt (32%). Các lớp tập huấn chủ yếu do Liên minh HTX và Hội LHPN các cấp tổ chức. 86 38 62 Có tham gia tập huấn Không tham gia tập huấn Hình 3.5: Phân loại nhóm phụ nữ nông thôn tham gia hợp tác xã theo tỷ lệ tham gia hoạt động nâng cao năng lực trƣớc khi tham gia hợp tác xã Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS năm 2019 94.4 5.6 Có tham gia tập huấn Không tham gia tập huấn Hình 3.6: Phân loại nhóm phụ nữ nông thôn tham gia hợp tác xã theo tỷ lệ tham gia hoạt động nâng cao năng lực sau khi tham gia hợp tác xã Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS năm 2019 So sánh giữa nhóm phụ nữ nông thôn có tham gia HTX và nhóm không tham gia HTX cho thấy, sau khi tham gia HTX hoặc loại hình kinh tế hiện tại, nhóm không tham gia HTX có tỷ lệ được tập huấn nâng cao năng lực chỉ chiếm 75,6%, trong khi tỷ lệ này ở nhóm tham gia HTX là 94,4%. Như vậy HTX vẫn là nơi tạo điều kiện tốt cho phụ nữ nông thôn trong nâng cao năng lực từ đó nâng cao quyền năng kinh tế của bản thân. 87 Về mức độ năng lực của phụ nữ nông thôn được nâng lên sau khi tham gia các hoạt động tập huấn của HTX, với thời gian tham gia HTX từ 3-4 năm, số lần tham gia tập huấn bình quân 2 đợt/năm, mỗi đợt bình quân 2-4 ngày, 100% phụ nữ nông thôn tham gia HTX cho biết sau khi tham gia HTX kiến thức, kỹ năng được nâng lên, trong đó 19,4% cho rằng được nâng lên rất nhiều và 59% cho rằng năng lực được nâng lên nhiều. 3.2.3. Sự thay đổi về năng lực thu thập, phân tích, quản lý, ứng dụng thông tin trong phát triển sản xuất Phụ nữ nông thôn có một số hạn chế chung là việc tiếp cận các thông tin đặc biệt là thông tin liên quan đến lao động, sản xuất, thị trường do vậy tính cơ động, sự thích ứng của lao động nữ nông thôn không cao, khó cạnh tranh trong điều kiện thị trường lao động nhiều biến động. Mặt khác, do gắn liền với thiên chức mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ, chăm sóc người già, người ốm, nội trợ gia đình nên không còn thời gian vật chất để tiếp cận các thông tin cần thiết cho cuộc sống và cho sản xuất. Xét về việc tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau trong đó có khuyến nông, thông tin đại chúng và các nguồn khác (ví dụ như họ hàng, bạn bè, dịch vụ, hàng xóm, hội họp), Theo Tổng cục thống kê, 43% hộ gia đình Hộp 3.2. Sự thay đổi về năng lực của phụ nữ nông thôn trong mô hình hợp tác xã kiểu mới “Trước khi tham gia HTX, tôi không được tham gia một lớp tập huấn nào do không có nơi nào mời tham gia. Từ tháng 8/2018, tôi đã đươc tập huấn kỹ thuật trồng vú sữa theo quy trinh Việt Gap thời gian 30 ngày. Qua tập huấn tôi thấy năng lực được nâng lên nhiều, áp dụng hiệu quả trong trồng cây vú sữa nên năng suất cao hơn, thu nhập ổn định hơn”. (Ý kiến của chị Trần Thị Tuyết Trang, thành viên HTX vườn cây ăn trái Trường Khương A, xã Trường Long, huyện Phong Điền, Tp Cần Thơ) 88 do nam giới làm chủ hộ được nhận thông tin từ các cán bộ khuyến nông 12 tháng trước điều tra so với 35% gia đình do phụ nữ làm chủ hộ. Hơn nữa, các hộ gia đình do nam giới làm chủ hộ có tiếp cận thông tin đại chúng tốt hơn với 51% hộ nhận được thông tin thông qua thông tin đại chúng so với 45% hộ gia đình do phụ nữ làm chủ hộ [74]. Đối với 150 phụ nữ nông thôn tham gia HTX ở 3 tỉnh Thái Nguyên, Quảng Bình, Cần Thơ, qua phỏng vấn cho thấy: Đối với hoạt động cung cấp thông tin, nâng cao nhận thức, trong nhóm các chị tham gia HTX, trước khi tham gia HTX, chỉ có 49% phụ nữ được nghe các thông tin liên quan đến công việc sản xuất kinh doanh của mình và sau khi tham gia HTX, 100% phụ nữ được cung cấp các thông tin, trong đó 46% là thông tin liên quan đến thị trường sản phẩm, 20,4% là thông tin liên quan đến kỹ thuật, công nghệ sản xuất, 21,2% là thông tin liên quan đến đầu vào cho sản xuất và 11,5% là thông tin liên quan đến loại hình kinh tế mà mình tham gia. Trước khi tham gia HTX, trong số các chị được nghe thông tin liên quan đến phát triển kinh tế thì có đến 55,3% từ phương tiện thông tin đại chúng, và số còn lại từ hội thảo/tập huấn/truyền thông. Sau khi đã tham gia HTX, nguồn thông tin cung cấp cho các chị ngoài tỷ lệ 34,6% từ hội thảo/tập huấn/truyền thông, có đến 30,2% từ doanh nghiệp/HTX cung cấp. Đánh giá tổng thể, sau khi tham gia HTX, 100% các chị cho biết được cung cấp thông tin nhiều và rất nhiều so với trước khi tham gia HTX. 89 46 20.4 21.2 11.5 0.9 TT về thị trường sản phẩm TT về kỹ thuật công nghệ sản xuất TT về nguồn vật tư, đầu vào cho sản xuất TT về loại hình kinh tế mà mình tham gia Khác Hình 3.7: Phân loại nhóm phụ nữ nông thôn tham gia hợp tác xã theo tỷ lệ các loại thông tin đƣợc hợp tác xã cung cấp cho thành viên Nguồn: Kết quả khảo sát của NCS năm 2019 Trong phạm vi mẫu khảo sát, so sánh giữa nhóm phụ nữ nông thôn có tham gia HTX và nhóm không tham gia HTX cho thấy, ở nhóm không tham HTX mà tham gia loại hình kinh tế khác, vẫn có đến 15% phụ nữ không được tiếp cận các thông tin liên quan đến ngành nghề sản xuất của mình, trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ nông thôn tham gia HTX là 0%. Đối với việc ứng dụng thông tin trong ra quyết định sản xuất, đối với nhóm phụ nữ nông thôn tham Hộp 3.3. Sự thay đổi về tiếp cận thông tin của phụ nữ nông thôn trong mô hình hợp tác xã kiểu mới “Tôi tham gia HTX từ tháng 7/2017. Trước khi tham gia HTX, tôi không được tiếp cận các thông tin liên quan đến sản xuất vì gia đình chỉ làm bánh gio bán qua ngày. Sau khi tham gia HTX, tôi đã được HTX cung cấp nhiều thông tin về HTX, về kỹ thuật sản xuất an toàn, được tư vấn trong sản xuất, hỗ trợ nguồn nguyên vật liệu đầu vào”. (Ý kiến của chị Đàm Thị Huệ, thành viên HTX chăn nuôi, sản xuất nông sản sạch Kim Phượng, huyện Định Hoá, t nh Thái Nguyên) 90 gia HTX, 100% các chị cho biết khi được tiếp cận thông tin sẽ giúp ra quyết định tốt hơn trong sản xuất kinh doanh, tỷ lệ này ở nhóm không tham gia HTX là 95,7%. 3.2.4. Sự thay đổi về năng lực tham gia, ra quyết định và thụ hƣởng thành quả trong mô hình hợp tác xã kiểu mới Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, đến quý 2 năm 2018, trong tổng lực lượng lao động cả nước có gần 743,8 nghìn lao động thiếu việc làm và gần 1,1 triệu lao động thất nghiệp, tình trạng thất nghiệp ở nữ cao hơn nam, chiếm tới 53,3% trong tổng số lao động thất nghiệp cả nước. Tình trạng thiếu việc làm luôn là vấn đề phổ biến ở khu vực nông thôn, hiện có gần 84,4% lao động thiếu việc làm sinh sống ở khu vực này. Khác biệt giới về thị phần lao động thiếu việc là không đáng kể khoảng 5,7% (trong đó, nam thiếu việc làm chiếm 52,8% và nữ thiếu việc làm là 47,2% trong tổng số lao động thiếu việc làm cả nước) [76]. Tác động của cuộc CMCN 4.0 đã và đang mở ra nhiều cơ hội cho phụ nữ để họ có thể phát huy năng lực, nắm bắt xu hướng phát triển của khoa học công nghệ cũng như giúp họ vượt qua được những thách thức, chuyển biến của nền kinh tế. Tuy vậy, cuộc Cách mạng này cũng đưa lại những tác động khó lường đến tính chất của việc làm truyền thống, gây ra nguy cơ phá vỡ thị trường lao động, lao động bị dư thừa do máy móc thay thế con người và gia tăng áp lực do sự chuyển dịch của nguồn lực lao động. Kể cả có được việc làm thì người lao động tại các nhà máy trong kỷ nguyên này sẽ phải đáp ứng các yêu cầu cao hơn và làm việc trong một môi trường hay cách tổ chức không còn giống như hiện nay. Đặc biệt, thách thức này lại càng lớn đối với các nước đang phát triển và trong những ngành nghề sử dụng nhiều lao động thủ công, lao động không đòi hỏi kỹ năng cao, trong đó phụ nữ chiếm một tỷ lệ đông đảo [87]. 91 Tương tự như nhiều nơi trên thế giới, ở Việt Nam, chịu áp lực nặng nề nhất là những ngành thâm dụng lao động như may mặc, da giày, nơi thu hút phần lớn lao động nữ nông thôn. Cuộc CMCN 4.0 được dự đoán là sẽ khiến cho lao động trong các ngành này phải đối mặt với nguy cơ mất việc rất cao. Trong bức tranh chung này, lao động nữ của Việt Nam sẽ là đối tượng phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức nhiều nhất do thường tập trung trong các lĩnh vực đòi hỏi trình độ chuyên môn thấp hoặc những công việc có tính bền vững và ổn định không cao. Lao động nữ nông thôn có một số hạn chế chung là tính cơ động, sự thích ứng của lao động nữ nông thôn không cao, do đó khó cạnh tranh trong điều kiện thị trường lao động nhiều biến động; do gắn liền với thiên chức mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ, chăm sóc người già, người ốm, nội trợ gia đình nên thường gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm việc làm; trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn kỹ thuật, nghề nghiệp, hiểu biết xã hội hạn chế; tính quyết đoán, tự chủ, nhanh nhạy, nắm bắt thời cơ, mạo hiểm, của lao động nữ nông thôn thường kém..., do đó tính cạnh trạnh khi tham gia thị trường lao động không cao. Phụ nữ nông thôn so với phụ nữ thành thị thường tự ti, mặc cảm, không hòa nhập được với sự biến đổi mạnh mẽ của đời sống kinh tế - xã hội, chất lượng lao động kém không đáp ứng được nhu cầu về việc làm của CNH, HĐH; không có điều kiện, khả năng tham gia thị trường lao động ở các đô thị, các khu công nghiệp và thị trường lao động quốc tế. Theo báo cáo nghiên cứu về kinh tế hợp tác do Oxfam và Viện RCD qua khảo sát đối tượng nông dân, trong đó có phụ nữ cho thấy có rất nhiều thay đổi tích cực về kinh tế của hộ gia đình khi tham gia các mô hình liên kết, cụ thể là HTX. Ở khía cạnh kinh tế, 80,9% cho biết liên kết làm tăng doanh thu cho hộ, 77,8% khẳng định tăng lợi nhuận. Về hiệu quả xã hội: 85,6% người dân được hỏi khẳng định các mô hình hợp tác liên kết giúp nâng cao tính tương trợ, gắn kết trong cộng đồng, giảm bớt những nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh như tự hạ giá, phá giá lẫn nhau, giúp tăng năng lực đàm phán. 92 Các thay đổi tích cực còn được thể hiện ở tỷ lệ cao theo đánh giá về mức độ áp dụng khoa học kỹ thuật, tiếp cận thông tin về sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp, và cải thiện sức khỏe cho nông dân [84]. Qua khảo sát 150 phụ nữ nông thôn tham gia HTX ở các tỉnh Thái Nguyên, Quảng Bình, Cần Thơ về sự tham gia, ra quyết định trong mô hình HTX cho thấy, 92,3% phụ nữ tham gia HTX được bàn bạc, bày tỏ ý kiến trong các hoạt động của HTX, 90,1% được quyết định các vấn đề của HTX và tham gia các quy trình bỏ phiếu bầu ban lãnh đạo, 80,1% được chia sẻ kinh nghiệm, cung cấp thông tin, 73,9% được đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp. Khi tham gia ý kiến tại các cuộc họp, 92,5% phụ nữ được ghi nhận ý kiến và 100% ý kiến đóng góp có mang lại lợi ích cho HTX. Xét về lợi ích kinh tế đối với phụ nữ nông thôn, về tác động của HTX đến việc làm và thu nhập của phụ nữ nông thôn đối với nhóm phụ nữ được phỏng vấn cho thấy, có 15,3% cho thấy khi tham gia HTX công việc ổn định hơn rất nhiều, có đến 56,25% các chị cho biết công việc ổn định hơn nhiều, tương ứng với đó, 11,8% cho biết thu nhập được tăng lên nhiều, 58,33% cho biết thu nhập tăng nhiều so với trước khi vào HTX. Hộp 3.4. Sự thay đổi về năng lực tham gia và thụ hƣởng của phụ nữ nông thôn trong mô hình hợp tác xã kiểu mới “Gia đình tôi thuộc hộ cận nghèo, trước khi tham gia HTX, tôi trồng chè với thu nhập khoảng 2 triệu/tháng. Từ tháng 12/2018, sau khi tham gia HTX được 1 năm, thu nhập của gia đình đã cải thiện, bình quân 4 triệu/tháng vì HTX giới thiệu kỹ thuật trồng cây an toàn, hỗ trợ vay vốn. Tôi cũng được tham gia bàn bạc các hoạt động của HTX. Hy vọng thời gian tới thu nhập của gia đình sẽ tăng hơn”. (Ý kiến của chị Đặng Thị Bích, thành viên HTX nông sản an toàn xã Liên Minh, huyện Võ Nhai, t nh Thái Nguyên) 93 3.3. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CÁC YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUYỀN NĂNG KINH TẾ CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN TRONG MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI Ở VIỆT NAM 3.3.1. Các yếu tố vĩ mô 3.3.1.1. Chính sách thúc đẩy phụ nữ nông thôn tham gia mô hình HTX kiểu mới Thời gian qua các chính sách nhằm nâng cao quyền năng của phụ nữ nông thôn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ngày càng hoàn thiện, Việt Nam đã có các chính sách thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ nông thôn nói riêng tham gia các hoạt động kinh tế, trong đó có mô hình HTX. Nổi bật là Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới; Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững đã được Thủ tướng phê duyệt tại Quyết định số 622/QĐ-TTg ngày 10/5/2017 Phụ nữ nông thôn ngày càng được tiếp cận và hưởng lợi từ các chính sách, chương trình này. Mục tiêu trong Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020 (Quyết định số 2531/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ) [52] để ra mục tiêu giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế, lao động, việc làm; tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn, phụ nữ người dân tộc thiểu số đối với các nguồn lực kinh tế, thị trường lao động; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ, từng bước bảo đảm sự tham gia bình đẳng giữa nam và nữ trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025” yêu cầu Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có trách nhiệm chủ trì, phối hợp hỗ trợ thành lập 1.200 tổ hợp tác/hợp tác xã do phụ nữ quản lý [53]. Tuy nhiên, một số văn bản chưa 94 giúp giải quyết các vấn đề giới nảy sinh trên thực tế, việc thực thi các quy định của pháp luật vẫn là vấn đề cần phải quan tâm nhiều hơn để mang lại lợi ích cho phụ nữ. 3.3.1.2. Chính sách và việc thực thi các chính sách hỗ trợ phụ nữ nông thôn tiếp cận nguồn lực sản xuất Mặc dù pháp luật Việt Nam thừa nhận cả nam giới và phụ nữ đều có quyền bình đẳng trong quyền sử dụng đất; nhưng trên thực tế, ít phụ nữ được đứng tên giấy tờ sử dụng đất, dẫn đến sự hiểu lầm về quyền sử dụng đất chỉ có ở nam giới. Từ năm 1988 ruộng đất đã được nhà nước cấp cho các hộ gia đình nông thôn theo nhân khẩu, nên quyền sử dung đất thuộc về tất cả các hộ thành viên trong gia đình. Nhưng Còn đa số giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu sử dụng ruộng đất đều do nam giới đứng tên, điều đó không có nghĩa là người nam giới trong gia đình có toàn quyền quyết định. Luật Đất đai năm 2003 2013 đã quy định tất cả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới phải bao gồm tên của cả hai vợ chồng, các con và các thành viên trong gia đình nếu có quyền sử dụng khi được giao quyền sử dụng đất. Phụ nữ nông thôn vẫn bị phân biệt đối xử, bất bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực, các ngân hàng coi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản thế chấp, trong khi phụ nữ khó tiếp cận quyền đất đai, nên cũng khó tiếp cận tín dụng, khiến họ phải tiếp cận “tín dụng đen”. Ở Việt Nam, chỉ có 9% số chủ trang trại là phụ nữ và phụ nữ làm nông nghiệp quy mô nhỏ có khả năng tiếp cận đất đai thấp hơn hẳn so với nam giới [64]. Sự hiểu lầm, đáng tiếc này phải được các ngân hàng xem xét lại các quy định cho vay tiền bằng thế chấp phải có chữ ký cả vợ lẫn chồng Mặt khác, HTX và các tổ chức khác cầnđẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật; nhất là, Luật Đất đai cho phụ nữ nông thôn. 95 Ngoài khả năng tiếp cận giới hạn với quyền sở hữu đất đai, phụ nữ nông thôn còn đối diện với các rào cản khi tiếp cận tín dụng. Thủ tục vay vốn cũng là yếu tố ảnh hưởng vì phụ nữ nông thôn thường không có tài sản thế chấp và trình độ học vấn không cao nên nếu thủ tục quá phức tạp họ không có khả năng tiếp cận vốn vay. Việc các ngân hàng có địa điểm thuận tiện cho khu vực nông thôn là yếu tố quan trọng để người phụ nữ nông thôn có thể tiếp cận vay vốn vì đa phần phụ nữ nông thôn sẽ đến những tổ chức tín dụng, ngân hàng ngay gần khu vực sinh sống. Ngân hàng Chính sách xã hội được thành lập năm 2003 là đơn vị cung cấp tín dụng chủ yếu cho các hộ gia đình có thu nhập thấp và khu vực nông thôn, tuy nhiên do phần lớn khách hàng ở khu vực xã xôi, khó khăn (rào cản về địa lý), do đó không đáp ứng được nhu cầu tài chính của

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_quyen_nang_kinh_te_cua_phu_nu_nong_thon_trong_mo_hin.pdf
Tài liệu liên quan