Luận án Thi hành bản án, quyết định của toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU. 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU . 8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về đề tài luận án. 8

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu. 21

1.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu trong luận án . 25

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT

ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH . 28

2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ

án hành chính. 28

2.2. Chủ thể, đối tượng, thủ tục thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án

hành chính. 39

2.3. Các yếu tố tác động đến thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính. 51

Chương 3: THỰC TRẠNG THI HÀNH BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN

VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 57

3.1. Pháp luật thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt

Nam hiện nay. 57

3.2. Hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt

Nam hiện nay. 81

3.3. Thực trạng các yếu tố tác động đến thi hành bản án, quyết định của Toà án về

vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay . 103

3.4. Đánh giá chung thực trạng thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án

hành chính ở Việt Nam hiện nay . 114

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ THI HÀNH BẢN

ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN VỀ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM . 120

4.1. Quan điểm bảo đảm thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành

chính ở Việt Nam. 120

4.2. Giải pháp bảo đảm hiệu quả thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án

hành chính ở Việt Nam. 125

KẾT LUẬN. 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ. 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 152

pdf170 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 307 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thi hành bản án, quyết định của toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thi hành án thuộc về Tòa án đã xét xử sơ thẩm và thẩm quyền theo dõi thi hành án của Cơ quan THADS cùng cấp. Một là, thẩm quyền ra quyết định buộc thi hành án thuộc về Toà án đã xét xử sơ thẩm vụ án. Quy định mới này ngoài việc chấm dứt những vướng mắc từ cơ chế đôn đốc THAHC còn góp phần nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp, đặc biệt là 75 Toà án trong quá trình xét xử VAHC và trong giai đoạn THAHC theo đúng tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49-NQ/TW đã nêu rõ: “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính tại Toà án, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Toà án”. Hai là, về chức năng theo dõi THAHC. Thẩm quyền này của cơ quan THADS vẫn đảm bảo chủ trương của Đảng trong cải cách tư pháp khi yêu cầu Bộ Tư pháp là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trong thi hành án nói chung và THAHC nói riêng. Theo dõi THAHC giúp Chính phủ có những đánh giá khách quan thực trạng ban hành QĐHC, HVHC của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước để từ đó có những giải pháp quản lý phù hợp. Ngoài ra, chức năng này góp phần cung cấp thông tin về thực trạng THAHC (số bản án, quyết định đã thi hành xong, số chưa thi hành hoặc chậm thi hành, những lý do, khó khăn hay vướng mắc cần phải tháo gỡ). Thứ ba, quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của thủ trưởng Cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải THAHC Luật TTHC năm 2010 có quy định về vai trò của cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án song quy định này khá “mờ nhạt”, do đó trường hợp nếu Cơ quan cấp trên trực tiếp không chỉ đạo hoặc có chỉ đạo mà cấp dưới vẫn không thi hành thì hướng giải quyết không được Luật TTHC năm 2010 xác định cụ thể. Ngoài ra, nếu bên phải thi hành án là Chủ tịch UBND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh nhưng không thi hành án thì trách nhiệm của Cơ quan cấp trên trực tiếp trường hợp này rất khó xác định. Hiện nay, Nghị định 71/2016/NĐ-CP xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu Cơ quan cấp trên trực tiếp trong việc kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án thuộc thẩm quyền quản lý của mình. Thứ tư, quy định thẩm quyền xét xử các khiếu kiện hành chính liên quan đến Chủ tịch UBND cấp huyện và UBND cấp huyện Luật TTHC năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 25/11/2015 với nhiều sửa đổi, bổ sung cơ bản trong đó có việc phân định rõ thẩm quyền giải quyết các VAHC giữa Toà án cấp huyện với Toà án cấp tỉnh. Đó là, đối với QĐHC, HVHC 76 của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc về Tòa án cấp tỉnh. Quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy dân chủ, công khai và minh bạch nền hành chính; tạo điều kiện để Thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử các khiếu kiện hành chính. Thứ năm, quy định cụ thể về hình thức xử lý kỷ luật đối với công chức, viên chức có hành vi vi phạm trong THAHC Luật TTHC năm 2010 chỉ quy định nếu cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành án cố ý không chấp hành bản án, quyết định của Tòa án thì tùy từng trường hợp mà bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xử lý vi phạm hành chính và trách nhiệm hình sự đã được Luật Xử lý vi phạm hành chính, các Nghị định có liên quan và Bộ luật Hình sự hiện hành điều chỉnh. Riêng hình thức xử lý kỷ luật không được xác định cụ thể trong Luật TTHC năm 2010 và cũng không được hướng dẫn cụ thể tại bất kỳ văn bản nào khác. Do đó, khi thực hiện hình thức xử lý này thực tế cơ quan có thẩm quyền tuân theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định 34/2011/NĐ-CP ngày 17/5/2011 của Chính phủ quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức (Nghị định 34/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, thực tế áp dụng thực hiện là rất khó khăn. Hiện nay, Nghị định 71/2016/NĐ-CP dành hẳn Mục 1, Chương III để quy định rõ những hình thức kỷ luật đối với công chức, viên chức có hành vi vi phạm pháp luật về THAHC tùy theo tính chất, mức độ vi phạm từ cảnh cáo cho đến hình thức kỷ luật buộc thôi việc. 3.1.2.2. Hạn chế Thứ nhất, vấn đề tự nguyện thi hành án gây khó khăn cho quá trình áp dụng trên thực tế Một là, thời hạn tự nguyện thi hành án được quy định 30 ngày là thời hạn người phải thi hành án phải thi hành xong hay là thời hạn người phải thi hành án tổ chức triển khai việc thi hành án? Điểm b khoản 2 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 quy định thời hạn tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án là 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, 77 quyết định của Toà án. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ vì trường hợp thi hành các bản án, quyết định của Tòa án tuyên hủy QĐHC, buộc người phải thi hành án ra QĐHC mới phù hợp với quy định của pháp luật. Ở đây, người phải thi hành án phải thực hiện một quy trình ban hành QĐHC mới phù hợp với quy định của pháp luật theo trình tự, thủ tục quản lý hành chính của ngành, lĩnh vực. Do đó, trong nhiều trường hợp khi hết thời hạn 30 ngày, người phải thi hành án vẫn chưa thể ban hành ngay QĐHC mới mà vẫn đang trong quá trình tổ chức thực hiện việc ban hành QĐHC. Khoản 3 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Quá thời hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều này (Điều 311) mà người phải thi hành án không thi hành thì người được thi hành án có quyền gởi đơn đến Toà án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Toà án”. Trong trường hợp nói trên, người phải thi hành có thi hành bản án, quyết định của Toà án tuy nhiên chưa thi hành xong. Khoản 3 Điều 311 ghi là “không thi hành” do đó khi có đơn yêu cầu của người được thi hành án, Toà án đã xét xử sơ thẩm rất khó thực hiện trong trường hợp này, gây bất lợi cho cả người được thi hành án và người phải thi hành án. Hai là, quyền ban hành Thông báo tự nguyện thi hành án của Cơ quan THADS cùng cấp với Toà án đã xét xử sơ thẩm VAHC Khoản 3 Điều 196 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà không có kháng cáo, kháng nghị, Toà án cấp, gửi bản án đã có hiệu lực pháp luật cho đương sự, Viện Kiểm sát cùng cấp, Cơ quan THADS cùng cấp, cơ quan cấp trên trực tiếp của người bị kiện”. Khoản 2 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 quy định thời hạn tự nguyện thi hành án của người phải thi hành án xác định như sau: (1) Thi hành ngay bản án, quyết định tại điểm e và điểm g khoản 1 Điều 311 kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án; (2) Thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong thời hạn 30 ngày tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 311 kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên tại khoản 2 Điều 14 Nghị định 71/2016/NĐ-CP quy định: Khi nhận được bản án, quyết định của Tòa án, Cơ quan THADS phân công Chấp hành viên thực hiện theo dõi việc THAHC. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án, Cơ quan THADS có trách nhiệm ra văn bản 78 thông báo về việc tự nguyện thi hành án gửi người phải thi hành án. Nội dung thông báo nêu rõ thời hạn tự nguyện, trách nhiệm tổ chức thi hành án, việc xử lý trách nhiệm nếu không chấp hành án. Có 02 trường hợp xảy ra như sau: Trường hợp 1, người phải thi hành án nhận được bản án, quyết định của Toà án trước khi Toà án chuyển giao bản án, quyết định cho Cơ quan THADS. Như vậy, khi nhận được Thông báo tự nguyện thi hành án thì có thể người phải thi hành đã thi hành án xong hoặc gần xong. Trường hợp 2, người phải thi hành án nhận được bản án, quyết định sau thời điểm Cơ quan THADS ra Thông báo tự nguyện thi hành án, không tổ chức việc thi hành án theo thông báo của Cơ quan THADS mà chờ Toà án chuyển giao bản án, quyết định vì theo quy định người phải thi hành án thi hành từ ngày nhận được bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền. Như vậy, cả hai trường hợp đều dẫn đến việc ban hành và thực hiện Thông báo tự nguyện thi hành án của Cơ quan THADS không có hiệu quả, mất đi ý nghĩa của việc thông báo tự nguyện thi hành án, gây khó khăn cho theo dõi và báo cáo kết quả THAHC. Ngoài ra, khi Toà án tiếp nhận Đơn yêu cầu thi hành án sẽ khó khăn trong việc xác định thời hạn tự nguyện thi hành án đã hết hay chưa. Thứ hai, vẫn còn tồn tại tâm lý e ngại, nể nang của Cơ quan THADS khi thực hiện chức năng theo dõi THAHC Khoản 3 Điều 14 Nghị định 71/2016/NĐ-CP quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định buộc THAHC, Chấp hành viên được phân công theo dõi việc thi hành án phải làm việc với người phải thi hành án để yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định của Tòa án. Nội dung làm việc phải được lập thành biên bản. Khoản 5 Điều 14 Nghị định này cũng quy định Cơ quan THADS có văn bản kiến nghị cơ quan, người có thẩm quyền xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án chậm thi hành án, không chấp hành, chấp hành không đúng hoặc không đầy đủ nội dung bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Luật TTHC và Nghị định này. Trong các VAHC người phải thi hành án nhiều trường hợp là Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Giám đốc các Sở ngành hoặc tương đương nên quá trình theo dõi THAHC có phần khó khăn cho các Cơ quan THADS trong việc thông báo, tống đạt Thông báo tự nguyện thi hành án và đặc biệt là việc lập biên bản về việc buộc THAHC 79 theo quy định tại khoản 3 Điều 14 Nghị định số 71/2016/NĐ-CP. Hầu hết các Chấp hành viên đều mang tâm lý e ngại trong việc lập biên bản về việc buộc THAHC đối với Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Giám đốc các Sở ngành hoặc đề nghị xử lý trách nhiệm về việc chậm thi hành án, không chấp hành án hoặc chấp hành không đúng nội dung bản án, quyết định vì theo quy định tại Điều 173, Điều 174 Luật THADS năm 2008, Chủ tịch UBND cấp tỉnh là Trưởng Ban Chỉ đạo THADS của tỉnh; Chủ tịch UBND tỉnh có ý kiến bằng văn bản về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Cục trưởng, Phó Cục trưởng Cục THADS; ngoài ra, định kỳ hàng quý, hàng năm, Cục THADS phải báo cáo kết quả thi hành án cho UBND cấp tỉnh. Thứ ba, quy định ban hành quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong nhiều trường hợp gây nhầm lẫn, làm trì hoãn quá trình thi hành án Một là, Điều 312 Luật TTHC năm 2015 quy định Tòa án đã xét xử sơ thẩm VAHC ra Quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nếu người phải thi hành án không tự nguyện thi hành và người được thi hành án gửi đơn yêu cầu. Như vậy, khi có đơn yêu cầu của người được thi hành án, Toà án có thẩm quyền sẽ ban hành Quyết định buộc thi hành án. Giả sử trường hợp bản án được tuyên bao gồm cả phần tài sản thì Quyết định buộc thi hành án của Tòa án là dành cho toàn bộ bản án đã có hiệu lực hay chỉ dành cho những phán quyết liên quan đến tính hợp pháp của QĐHC, HVHC bị khởi kiện trong bản án đó? Nhiều trường hợp trong thực tế Toà án đã xét xử sơ thẩm ban hành Quyết định buộc thi hành án cho toàn bộ nội dung ở phần quyết định của bản án, bao gồm phần tài sản. Cách áp dụng như vậy lại mâu thuẫn với quy định điểm h khoản 1 Điều 311 là: “Quyết định về phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự”. Hai là, trường hợp bản án, quyết định của Tòa án tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện QĐHC, HVHC, điểm b khoản 2 Điều 311 Luật TTHC năm 2015 quy định “Người phải thi hành án phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều này (Điều 311) trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án, quyết định của Tòa án....” 80 Tiếp đó, khoản 3 Điều 311 quy định: “Quá thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này (Điều 311) mà người phải thi hành án không thi hành thì người được thi hành án có quyền gửi đơn đến Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 312 của Luật này (Luật TTHC năm 2015)”. Theo các quy định nêu trên, hiện nay có quan điểm cho rằng trình tự, thủ tục thi hành bản án không chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện được thực hiện theo trình tự, thủ tục THAHC nói chung không? cụ thể: người đã khởi kiện có trách nhiệm tự nguyện thi hành QĐHC, HVHC mà mình đã khởi kiện trong thời hạn 30 ngày. Hết thời hạn này mà người đã khởi kiện không tự nguyện thi hành thì cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành QĐHC có trách nhiệm nộp đơn yêu cầu Tòa án đã xét xử sơ thẩm vụ việc ra quyết định buộc THAHC (theo khoản 3 Điều 311 Luật TTHC năm 2015) trước khi tự tổ chức cưỡng chế thi hành đối với QĐHC mà mình đã ban hành hay trong trường hợp này khi người phải thi hành án không thi hành thì cơ quan, tổ chức đã ban hành QĐHC, có HVHC sẽ tổ chức cưỡng chế ngay. Thứ tư, chưa có biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với người phải thi hành án là cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước khi thi hành phần QĐHC của bản án, quyết định của Toà án Hiện nay, theo Luật TTHC năm 2015 và Nghị định 71/2016/NĐ-CP thì cơ chế THAHC chủ yếu được thực hiện theo cơ chế tự thi hành mà không có cơ chế cưỡng chế THAHC. Pháp luật về THADS được áp dụng trong trường hợp thi hành phần tài sản trong bản án, quyết định của Toà án. Theo quy định, hết thời hạn 10 ngày kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án, người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế [74]. Như vậy, trường hợp thi hành phần tài sản, có cơ chế cưỡng chế thi hành đối với người phải thi hành án. Trường hợp bản án, quyết định của Toà án bác yêu cầu khởi kiện, người đã khởi kiện là người phải thi hành án có trách nhiệm tự nguyện thi hành QĐHC, HVHC mà mình đã khởi kiện trong thời hạn 30 ngày. Hết thời hạn này mà người đã khởi kiện không tự nguyện thi hành thì cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành QĐHC thực 81 hiện nhiệm vụ, công vụ của mình bằng cách tổ chức cưỡng chế thi hành đối với QĐHC mà mình đã ban hành. Như vậy, đối với người phải thi hành án là người khởi kiện, việc cưỡng chế thi hành án được thực hiện theo quy định của pháp luật về tổ chức thi hành QĐHC, HVHC. Tuy nhiên, trường hợp bản án, quyết định của Toà án tuyên chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, người bị kiện là người phải thi hành án nếu không tự nguyện thi hành trong thời hạn 30 ngày và khi có Quyết định buộc thi hành án của Toà án đã xét xử sơ thẩm cũng không thực hiện thì hiện pháp luật không quy định việc cưỡng chế thi hành trong trường hợp này. Những hình thức xử lý vi phạm từ xử lý kỷ luật đến truy cứu trách nhiệm hình sự qua thực tế áp dụng cho thấy chưa đủ sức răn đe. Thứ năm, khoản 3 Điều 23 Quyết định 810/QĐ-VKSTC quy định nội dung kiểm sát THAHC của VKSND trong đó có nêu: “Kiểm sát việc Tòa án ra quyết định buộc thi hành bản án, quyết định của Tòa án về VAHC; quyết định đôn đốc THAHC của Cơ quan THADS và trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc của Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án theo quy định tại Điều 312 Luật TTHC năm 2015.” Tuy nhiên, hiện theo quy định của Luật TTHC năm 2015, Nghị định 71/2016/NĐ-CP và Quyết định 1130/QĐ-TCTHADS thì cơ quan THADS không còn chức năng đôn đốc THAHC, khi thực hiện chức năng theo dõi THAHC cơ quan THADS cũng không ban hành quyết định đôn đốc THAHC. 3.2. Hoạt động thi hành bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính ở Việt Nam hiện nay 3.2.1. Kết quả thụ lý; giải quyết, xét xử vụ án hành chính và thi hành án hành chính Để có sự đánh giá khách quan giữa thực trạng giải quyết các VAHC và THAHC tại Việt Nam hiện nay, trong giới hạn nghiên cứu của mình tác giả tổng hợp số liệu và đánh giá về vấn đề này khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2018, tức là trước, sau khi Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành (01/7/2011) và giai đoạn hiện nay khi Luật TTHC năm 2015 (01/7/2016) đang được triển khai áp dụng. 82 3.2.1.1. Kết quả giải quyết VAHC của Toà án các cấp Về kết quả thụ lý; giải quyết, xét xử các VAHC của TAND các cấp từ năm 2010 đến năm 2018 [132] Bảng 3.1. Số lượng các VAHC đã thụ lý; giải quyết, xét xử từ năm 2010 đến năm 2018 của TAND các cấp Năm Tổng số VAHC đã thụ lý Tổng số VAHC đã giải quyết, xét xử Trong đó đã giải quyết, xét xử theo các thủ tục Sơ thẩm Phúc thẩm Giám đốc thẩm, tái thẩm 2010 1.651 1.398 976 402 20 2011 - 1.790 1.236 535 19 2012 6.177 4.742 3.834 878 30 2013 7.738 6.430 4.671 1.751 8 2014 7.317 6.244 4.455 1.738 54 2015 6.259 5.553 4.174 1.336 43 2016 6.708 5.358 4.011 1.296 51 2017 7.922 5.155 3.796 1.323 36 2018 10.506 6.575 4.853 1.635 87 Nguồn: Toà án nhân dân tối cao Kết quả thống kê trên cho thấy số lượng các VAHC được thụ lý và đưa ra giải quyết, xét xử tại TAND các cấp có xu hướng gia tăng qua từng năm, trong đó, các năm 2012, năm 2013, năm 2017 và năm 2018 có số lượng án hành chính tăng một cách đột biến. Điều này cho thấy cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tin tưởng hơn khi lựa chọn hình thức khởi kiện tại Toà án để yêu cầu giải quyết các tranh chấp hành chính. Đồng thời khẳng định chủ trương mở rộng thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện hành chính tại TAND các cấp của Đảng và Nhà nước ta theo yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là hoàn toàn đúng đắn. So sánh với tình hình giải quyết khiếu nại hành chính Quyền khởi kiện VAHC và quyền khiếu nại hành chính có điểm chung khi đều là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu giải quyết những tranh chấp hành chính liên quan đến QĐHC, HVHC do cơ quan hành chính ban hành hoặc thực hiện. Xét về tính khách quan trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, khởi kiện là hình thức nổi trội hơn vì TAND là chủ thể thứ ba trong giải quyết tranh chấp. Đây cũng là xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới đối với một nền tư pháp hoàn toàn độc lập khi xây dựng Nhà nước pháp quyền. Tuy 83 nhiên, theo báo cáo của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong 03 năm từ năm 2015 đến năm 2017, tổng số QĐHC, HVHC bị khởi kiện (của Chủ tịch UBND và UBND các cấp) là 11.180 trường hợp trong khi bị khiếu nại là 188.502 trường hợp (tổng số trường hợp bị khởi kiện là gần 6% so với hơn 94% tổng số trường bị khiếu nại). Như vậy, số vụ việc công dân khởi kiện QĐHC, HVHC tại Toà án vẫn chiếm tỷ lệ rất nhỏ so với khiếu nại hành chính. Cơ chế khởi kiện tại Toà án đã được người dân tin tưởng sử dụng đặc biệt là khi Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành nhưng thực tế khiếu nại vẫn là hình thức chủ yếu, cụ thể như sau [37]: Bảng 3.2. So sánh tình hình khởi kiện QĐHC, HVHC của Chủ tịch UBND và UBND các cấp tại Toà án với tình hình khiếu nại tại cơ quan hành chính nhà nước Năm Tổng số trường hợp khiếu nại Tỷ lệ so sánh Tổng số trường hợp khởi kiện Tỷ lệ so sánh 2015 77.178 95.3% 3.632 4.7% 2016 63.492 95% 3.178 5% 2017 47.832 90.87% 4.370 9.13% Tổng 188.502 94.06% 11.180 5.94% Nguồn: Bộ Tư pháp Đặc điểm của QĐHC, HVHC bị khiếu kiện QĐHC, HVHC bị khiếu kiện chủ yếu thuộc lĩnh vực đất đai, nhà ở (như thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ tái định cư) số còn lại tập trung ở lĩnh vực thuế, xử phạt vi phạm hành chính, văn hoá... Các địa phương có số QĐHC, HVHC bị khởi kiện lớn hơn so với cả nước gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Kiên Giang, Long An, Đồng Nai, Đồng Tháp, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng, Đắk Lắk, Quảng Nam, Bình Dương, Hải Dương. Đặc điểm này cũng tương đồng với thực trạng khiếu nại, tố cáo hành chính. Năm 2015, nội dung khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài chính ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản... chiếm 87.4%; năm 2016 tỷ lệ này là 66.2%; năm 2017 là 62.3% và tập trung chủ yếu ở một số địa bàn kể trên [37]. Điểm tương đồng này phản ánh thực trạng người dân khi khiếu nại tới cơ quan hành chính nhà nước đã ban hành QĐHC, có HVHC, nhận quyết định giải quyết khiếu nại, không đồng ý kết quả giải quyết khiếu nại này mới thực hiện quyền khởi kiện. Nếu chấp nhận kết quả giải quyết khiếu nại thì không thực hiện khởi kiện vì tâm lý chung còn ngại tiếp xúc hoặc còn chưa quen việc đề nghị giải quyết các tranh chấp 84 bởi cơ quan tố tụng. Do đó, án hành chính có tăng, song số vụ việc phải giải quyết khiếu nại vẫn là chủ yếu. Đồng thời, thực trạng này làm cho việc xác định người bị kiện trong các VAHC đôi khi rất phức tạp. Thực trạng chất lượng xét xử các VAHC Chất lượng xét xử các vụ án nói chung của TAND các cấp được đánh giá thông qua số lượng án có kháng cáo, kháng nghị; án bị sửa, bị huỷ. Riêng án hành chính, từ năm 2011 đến năm 2017, tại TAND cấp tỉnh, tỷ lệ án có kháng cáo, kháng nghị là 60.7% (1.427 vụ/2.349 vụ); tỷ lệ Toà án cấp cao sửa án là 9,74% (139 vụ/1.427 vụ); tỷ lệ án bị huỷ là 14.4% (206 vụ/1.427 vụ) [84]. Như vậy, tỷ lệ án hành chính mà TAND cấp tỉnh xét xử theo thủ tục sơ thẩm bị huỷ bình quân hàng năm còn khá cao. Hiện nay, Luật TTHC năm 2015 quy định thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm khiếu kiện QĐHC, HVHC của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện thuộc về TAND cấp tỉnh. Như vậy, thời gian tới số lượng án hành chính tại Toà án cấp tỉnh sẽ tăng mạnh vì các tranh chấp hành chính bị khởi kiện chủ yếu trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài chính ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, mà thẩm quyền quyết định những vấn đề này thuộc về Chủ tịch UBND và UBND các cấp. Án hành chính vốn vẫn được đánh giá là án khó. Thực trạng này sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng xét xử các VAHC mà đặc biệt tại TAND cấp tỉnh. 3.2.1.2. Kết quả thi hành án hành chính Kết quả THAHC sẽ được đánh giá dựa trên số lượng bản án, quyết định có hiệu lực của TAND các cấp được thi hành xong so với số lượng bản án, quyết định có hiệu lực của TAND các cấp được đưa ra thi hành. Phần thi hành ở đây là phần hành chính trong bản án, quyết định của Toà án về VAHC; phần tài sản (án phí, tiền hoặc tài sản) được thi hành theo quy định của pháp luật về THADS, được tổ chức bởi Cơ quan THADS, nội dung này hiện Cơ quan THADS không báo cáo số liệu cùng với số liệu thống kê về kết quả THAHC. Phần hành chính là phán quyết của Toà án có thẩm quyền về tính hợp pháp của QĐHC, HVHC, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và danh sách cử tri bị khởi kiện. Luật TTHC năm 2015 tiếp tục quy định Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác THAHC, trong phạm vi cả nước. Cơ quan quản 85 lý THADS (Tổng cục THADS) và Cơ quan THADS thuộc Bộ Tư pháp giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện chức năng này. Đồng thời quy định, bản án, quyết định của TAND các cấp khi có hiệu lực phải gửi cho VKSND và Cơ quan THADS có thẩm quyền. Luật TTHC năm 2010 quy định Cơ quan THADS thực hiện chức năng đôn đốc THAHC khi người được thi hành án gửi đơn yêu cầu. Luật TTHC năm 2015 quy định Cơ quan THADS thực hiện chức năng theo dõi THAHC từ khi tiếp nhận bản án, quyết định do Toà án cùng cấp đã xét xử sơ thẩm gửi. Quy định của Luật TTHC năm 2015 giúp giải quyết những hạn chế trong việc chuyển giao bản án, quyết định của Toà án cho Cơ quan THADS. Tuy nhiên, thực tế sự phối hợp này ở một số địa phương vẫn chưa tốt, kể cả giai đoạn Luật TTHC năm 2010 và giai đoạn hiện nay. Do đó, số liệu báo cáo, thống kê có nhiều mâu thuẫn giữa các chủ thể THAHC. Căn cứ vào quá trình phát triển của Luật TTHC, việc đánh giá kết quả THAHC được Luận án thực hiện theo 02 giai đoạn: (1) Giai đoạn từ năm 2012 đến năm 2016 (giai đoạn Luật TTHC năm 2010 có hiệu lực thi hành); (2) Giai đoạn hai năm 2017 và năm 2018 (giai đoạn Luật TTHC năm 2015 có hiệu lực thi hành). Bảng 3.3. Kết quả THAHC từ năm 2012 đến năm 2016 Năm Tổng số vụ án đã giải quyết, xét xử Tổng số việc đã thụ lý đôn đốc Kết quả sau đôn đốc thi hành án 2012 4.742 32 - 2013 6.430 352 Đôn đốc 350 việc, chưa đôn đốc 02 việc; trong số vụ việc đã có văn bản đôn đốc, tổ chức thi hành xong 313 việc, chưa xong 37 việc 2014 6.244 452 Đôn đốc 449 việc, chưa đôn đốc: 03 việc; trong số các vụ việc đã có văn bản đôn đốc đã tổ chức thi hành xong 388 việc, chưa xong 61 việc 2015 5.553 267 Đôn đốc 267 việc, chưa đôn đốc 06 việc; trong số các vụ việc đã có văn bản đôn đốc đã tổ chức thi hành xong 193 việc, chưa xong 74 việc 2016 5.358 278 Đôn đốc 272 việc, chưa đôn đốc 06 việc; trong số các vụ việc đã có văn bản đôn đốc đã tổ chức thi hành xong 182 việc, chưa xong 90 việc Nguồn: Bộ Tư pháp 86 Số liệu THAHC ở trên được tổng hợp từ các Báo cáo của Bộ Tư pháp – Cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về THAHC. Tuy nhiên, nhận thấy Bộ Tư pháp chỉ thống kê được số vụ việc có yêu cầu đôn đốc thi hành án trong giai đoạn này, tức là khi người được thi hành án đã gửi văn bản yêu cầu người phải thi hành án thi hành song chủ thể này không thi hành. Vì vậy, rất khó để xác định đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_thi_hanh_ban_an_quyet_dinh_cua_toa_an_ve_vu_an_hanh.pdf
Tài liệu liên quan