Luận án Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985

Chiến tranh kết thúc, văn học Việt Nam cũng nằm trong bối

cảnh chuyển đổi nhiều mặt của xã hội, nhằm đáp ứng nhu cầu chung của

con người và thời đại. Truyện ngắn là thể loại có sự vận động, biến đổi

tương đối nhanh và linh hoạt hơn các thể loại khác. Đó là sự vận động

mang tính tất yếu của nền văn học từ thời chiến sang thời bình. Những

thay đổi trong xã hội, với nhiều phức tạp trong cuộc sống thường nhật và

sự đa dạng trong tính cách con người là những nguyên nhân trực tiếp thúc

đẩy nhanh quá trình đổi mới của thể loại. Với khát vọng dân chủ hóa văn

học, nhà văn học tập, giao lưu với văn học thế giới, dẫn đến những biến

đổi quan trọng, sâu sắc trong quan điểm nghệ thuật về con người, góp

phần cách tân trên bình diện thi pháp. Truyện ngắn từng bước bứt phá

những quy phạm thể loại, hạn hẹp trong phạm vi hiện thực, đáp ứng kịp

thời và phản ánh sinh động những vấn đề của xã hội thời hậu chiến. Đây

là chặng khởi động của hành trình đổi mới, các sáng tác chưa hẳn đã đạt

đến chiều sâu của nhận thức cũng như sự kết tinh về nghệ thuật, nhưng là

bước tiền trạm trên những vùng đất mới, có tác động mạnh mẽ đến tư duy

sáng tạo của nhà văn và tâm lí tiếp nhận của bạn đọc.

pdf27 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 2031 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Phạm vi nghiên cứu: Đặc điểm thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 gồm: Quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian và không gian; thi 6 pháp tạo dựng cốt truyện, tình huống, kết cấu, giọng điệu, ngôn ngữ và trần thuật. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Ngoài những phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa học xã hội, luận án đi sâu khảo sát, phân tích, xác định truyện ngắn 1975 - 1985 trên một số phương diện thi pháp học, những trăn trở và chuyển mình của truyện ngắn sau chiến tranh 1975. Từ cơ sở đó rút ra một số kết luận về diện mạo, thi pháp và sự vận động của truyện ngắn 1975 - 1985 trong hành trình truyện ngắn Việt Nam đương đại . Luận án vận d ng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp chính: tiếp cận lý thuyết thi pháp học ở Việt Nam và thế giới, dùng thi pháp học để đánh giá văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng. Sau đó dùng phương pháp loại hình; so sánh; hệ thống và một số thao tác nghiên cứu như: phân loại, phân tích, diễn giải, tổng hợp 5. Đóng góp về khoa học của luận án Luận án là công trình đầu tiên đi sâu tìm hiểu, xác định diện mạo và thi pháp của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 với cái nhìn tập trung và hệ thống. Kết quả này có thể làm tài liệu tham khảo cho việc tìm hiểu, nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nói riêng, truyện ngắn Việt Nam nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án đi sâu tìm hiểu một số lý thuyết về thi pháp học, xác định vai trò của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trong quá trình hiện đại hoá nền văn học từ năm 1986 nói chung. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận án được triển khai thành 4 chương như sau: 7 Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985, bước chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 trên một số bình diện thi pháp thể hiện Chương 1 TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp và thi pháp truyện ngắn 1.1.1. Nghiên cứu lý thuyết về thi pháp Thi pháp học là một hướng nghiên cứu văn học có từ lâu, nhưng thật sự được nhiều nhà nghiên cứu chú ý vào thế kỉ XX. Ở Việt Nam cho đến những năm 80 thi pháp học bắt đầu được giới thiệu, tiếp nhận rộng rãi. Các công trình của Phan Ngọc, Nguyễn Phan Cảnh, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Xuân Kính, Đỗ Lai Thuý xuất hiện, được coi như là hiện tượng mới của nghiên cứu văn học. Thi pháp học tuy thoạt đầu có ngỡ ngàng, nhưng đã gây được ảnh hưởng trong xã hội, nhất là trong các trường đại học và tạo thành một khuynh hướng nổi bật trong nghiên cứu phê bình văn học từ những năm 80. Thi pháp học mang lại nhiều thuật ngữ và khái niệm mới trong nghiên cứu như: quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian, không gian và nhiều khái niệm hình thức văn học đã đi vào phê bình một cách phổ biến, có tác d ng làm mới bộ công c phê bình văn học. Nhưng quan trọng hơn đó là thi pháp học đã đem lại cách tiếp cận mới, phương pháp mới nghiêng về tính nội tại, song không tách rời hiện thực, lịch sử xã hội. 8 1.1.2. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn Truyện ngắn, một thể loại văn tự sự, nó thường là các câu chuyện kể bằng văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa. Thông thường nó có độ dài từ vài dòng đến vài ch c trang và chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Do đó, truyện ngắn thường hết sức hạn chế về nhân vật, thời gian và không gian. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống, chẳng hạn như Chí phèo của Nam Cao thời gian chỉ dăm ngày, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu chỉ xảy ra trong vài tiếng. Để có một cái nhìn thống nhất, qua khảo sát một số khái niệm, truyện ngắn là một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ và thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội, có sự giới hạn về dung lượng và thích hợp với người tiếp nhận là đọc nó liền một mạch không nghỉ. Từ đó, để nhận định truyện ngắn cần dựa vào hai tiêu chí chính là dung lượng và thi pháp. Các yếu tố như cốt truyện, tình huống, kết cấu, lối trần thuật, giọng điệu... cũng được coi là cơ bản khi tìm hiểu thể loại này. 1.2. Những nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 1.2.1. Nghiên cứu chung về đặc điểm thi pháp truyện ngắn Theo M.Bakhtin trong Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépxki do Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch: trước Đốtxtôiépxki và khác với nhà văn này, tiểu thuyết chủ yếu phát triển trong quan niệm độc thoại. Đó là loại tự sự trong đó chỉ có tác giả là người duy nhất có ý thức, biết suy nghĩ và đánh giá mọi sự việc, là vị chúa tể nắm hết mọi bí mật của cuộc đời. Còn nhân vật thì chỉ là đối tượng câm lặng cho sự phẩm bình, nhận xét ấy. Ngoài ra, phải kể đến Bùi Việt Thắng với Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn 9 thể loại của Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long với “Một số vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ sau 1975”, Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. Vũ Tuấn Anh với Văn học Việt Nam hiện đại - Nhận thức và thẩm định và Phạm Mạnh Hùng với Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XX Từ 1975 - 1985 là chặng đường chuyển tiếp từ văn học sử thi thời chiến tranh sang văn học thời hậu chiến. Tính chất chuyển tiếp này thể hiện rõ ở cả đề tài, cảm hứng, các phương tiện nghệ thuật và cả quy luật vận động của văn học. Những tác phẩm văn xuôi giai đoạn này đã giúp thu hẹp bớt khoảng cách khá xa giữa văn học với đời sống, tác phẩm và công chúng, đồng thời cũng là sự chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn học khi bước vào thời kỳ đổi mới. 1.2.2. Nghiên cứu về tác giả và tác phẩm truyện ngắn Những tác giả được nghiên cứu nhiều nhất giai đoạn này là: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Khải, Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Dương Thu Hương. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn của đất nước sau chiến tranh mà “sáng tác của họ đã đốt lên nhiệt tình tìm kiếm chân lý, báo trước khả năng tự đổi mới của nền văn học Việt Nam khi nó dám sòng phẳng với quá khứ bất chấp trở lực cản ngăn”. Ngoài ra, còn phải kể đến như: Thái Bá Lợi, Xuân Thiều, Trung Trung Đỉnh, Nhật Tuấn, Bùi Hiển, Lê Minh Khuê, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Kiên, Nguyễn Thành Long,... Các bài viết, ý kiến đánh giá về các tác giả này, đặc biệt chú ý là của các nhà phê bình, nhà nghiên cứu, các nhà văn như: Tôn Phương Lan, Phong Lê, Vân Thanh, Huỳnh Như Phương, Trần Đình Sử, Tô Hoài, Hoàng Như Mai, Hà Minh Đức, Trần Đăng Xuyền, Lê Thành Nghị, Trần 10 Cương, Ngọc Trai, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Vương Trí Nhàn, Thiếu Mai, Bích Thu,... Ở giai đoạn đầu, có nhiều ý kiến đánh giá trái chiều về trường hợp của Nguyễn Minh Châu. Mặc dù hầu hết các ý kiến đều thừa nhận những đóng góp của ông trên hành trình đổi mới, song trong số đó vẫn còn ý kiến tỏ ra nghi ngại. Bùi Hiển băn khoăn trong Trao đổi về truyện ngắn những năm gần đây của Nguyễn Minh Châu (Văn nghệ 1985, số 27 và 28) là: đẩy sự tìm tòi khám phá về nội tâm, tính cách về hình ảnh cuộc sống và ý nghĩa cuộc đời theo một hướng có vẻ phức tạp hơn nhưng chưa chắc đã là sâu sắc hơn. Hà Xuân Trường thì cho rằng Nguyễn Minh Châu chỉ thành công một nửa. Trường hợp của Dương Thu Hương, Lê Minh Khuê trong những truyện ngắn viết về những khía cạnh xấu của con người, tác giả Bích Thu cho rằng đã làm “xô lệch đi vẻ tự nhiên bình thường của con người, dẫu đó là những mẫu hình tiêu cực trong đời sống chúng ta”. Nhưng cũng có ý kiến ủng hộ cách viết này dù rằng “ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả thậm chí là có phần ác quá”. Tóm lại, các ý kiến đã chỉ ra được một số đóng góp ở phương diện thi pháp như phong cách, giọng điệu, ngôn ngữ, kết cấu và thủ pháp nghệ thuật của truyện ngắn 1975 - 1985. Các nghiên cứu này đã có nhiều tìm tòi, khám phá đưa ra được những ý kiến quý báu, đáng trân trọng. Trên cơ sở đó, chúng tôi có điều kiện để thừa hưởng và đi sâu hơn, phát hiện thêm những điều mới mẻ về truyện ngắn nói chung và truyện ngắn 1975 - 1985 nói riêng. Chương 2 TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985, BƯỚC CHUYỂN ĐỔI QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI 11 2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật sau năm 1975 2.1.1. Bối cảnh phức tạp của đất nước sau chiến tranh Chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thu về một mối, Bắc – Nam sum họp một nhà, khát khao cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam đã trở thành hiện thực, toàn dân hào hứng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, từ khi đất nước chuyển sang thời bình, cũng là lúc phải đối mặt với những khó khăn, phức tạp không kém, vấn đề quan liêu bao cấp, trì trệ lạc hậu trong quản lý kinh tế, xã hội Tình hình thất nghiệp tăng cao, nhu cầu tối thiểu, chính đáng về vật chất lẫn tinh thần của người dân chưa được đảm bảo. Vấn đề bình đẳng giai cấp bị vi phạm, hiện tượng lộng quyền, tham nhũng, tiêu cực trong xã hội ngày càng thêm nhức nhối. Thực trạng đó đã làm lay động dữ dội suy nghĩ, niềm tin của các tầng lớp nhân dân. 2.1.2. Tình hình phát triển văn xuôi Trong ngổn ngang hiện thực, nổi lên những vấn đề được nhiều cây bút quan tâm như: đạo đức xã hội, tiêu cực trong quản lí sản xuất, nhận thức lại một số vấn đề trong quá khứ... Với Hai người trở lại trung đoàn, Thái Bá Lợi là người mở đầu cho cuộc đấu tranh phức tạp chống lại sự xói mòn trong đạo đức con người. Những bông bần li, của Dương Thu Hương lại đặt ra vấn đề đạo đức và số phận con người trong một xã hội tiêu dùng. Ở cây bút đầy nữ tính này, ranh giới buồn - vui, được - mất, khát vọng hạnh phúc của con người trong cuộc sống là khôn cùng. Bên cạnh đó, một số truyện của Nguyễn Minh Châu, Vũ Tú Nam thường diễn ra hành trình tự ý thức, tự phán xét lương tâm của cá nhân xoay quanh tr c thời gian hai chiều quá khứ và hiện tại. Vì thế, ta không ngạc nhiên khi các nhà văn với các tác phẩm ngược thời gian viết về đời sống riêng tư của từng cá nhân như Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Người đàn bà trên 12 chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu, Thời gian của người, Gặp gỡ cuối năm, Một cõi nhân gian bé tý của Nguyễn Khải, Thời xa vắng của Lê Lựu. Trong các tác phẩm, tác giả đã tập trung thể hiện thế giới riêng tư, vấn đề tự nhận thức về bản thân mình và bi kịch của cá nhân con người. Đó là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, 2.1.3. Quá trình phát triển của truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 Từ cuối những năm 70, truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Góp phần cho những thành công đó, phải kể đến đội ngũ tác giả dày dặn kinh nghiệm, được coi là đã trưởng thành trong chiến tranh như: Nguyễn Kiên, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Tô Hoài, Đỗ Chu Các cây bút này đã có dấu ấn đậm nét trong văn học kháng chiến, nhưng sau 1975 họ đã có sự đổi mới trong sáng tác. Sau đó là sự xuất hiện của một loạt cây bút mới khởi nghiệp trong chiến tranh như: Thái Bá Lợi, Chu Lai, Xuân Đức, Khuất Quang Thuỵ, Nguyễn Trí Huân, Trung Trung Đỉnh, Nguyễn Thị Như Trang Thế hệ nhà văn này đã đem vào trong văn xuôi sự từng trải, kinh nghiệm của mình đã tích luỹ trong những năm chiến đấu. Những cuộc thi viết truyện ngắn cho Báo Văn nghệ (1978 - 1979, 1983 - 1984) và Tạp chí Văn nghệ quân đội (1982, 1983, 1984) tổ chức, xuất hiện một loạt cây bút mới: Lê Minh Khuê, Dương Thu Hương, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nhật Tuấn, Trần Văn Tuấn, Hồ Anh Thái, Phạm Thị Minh Thư, Trần Thuỳ Mai, Dạ Ngân, Nguyễn Quang Lập Truyện ngắn của họ tươi trẻ, dồi dào chất sống và có nhiều tìm tòi mới về nghệ thuật , viết nhiều 13 về lớp trẻ trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội, đã gây được sự chú ý của bạn đọc. 2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người 2.2.1. Con người và sự thay đổi trong quan niệm Nếu văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975, con người được nhìn nhận chủ yếu dưới góc độ sử thi, thì sau 1975, con người thường gắn với các quan hệ đời thường. Khi chiến tranh kết thúc, bao khó khăn, thử thách mới đặt ra trong đời sống con người. Sự phức tạp, bề bộn của cuộc sống thời hậu chiến đang diễn ra theo nhiều chiều, nhiều hướng; từ thực tế đó đòi hỏi nhà văn phải có những tiếng nói thể hiện nhu cầu phong phú, đa dạng, phức tạp trong đời sống tinh thần của con người. Sự tìm hiểu khám phá con người từ nhiều chiều, nhiều hướng đến thế giới nội tâm là xu thế nổi bật của văn xuôi sau 1975. Trong đó truyện ngắn đã phát huy được khả năng tiếp cận và phản ánh hiện thực con người một cách nhanh nhạy, sắc bén. Có thể nói con người trong truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985 được các nhà văn cảm nhận và thể hiện cũng theo tinh thần ấy. Con người ở đây hiện ra dưới nhiều dạng thái khác nhau. 2.2.2. Con người lý tưởng xã hội Sau năm 1975, các nhà văn vẫn tiếp t c viết về đề tài chiến tranh hoặc phản ánh các cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam. Trong hoàn cảnh khốc liệt đó các nhà văn trình bày những diễn biến và số phận không giản đơn của từng con người. Âm hưởng chung ở những truyện ngắn này dù vẫn thiên về ca ngợi cái cao cả, cái anh hùng của con người nhưng đằng sau đó là hình ảnh của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường. Đó là truyện ngắn Chuyến xe đêm của Ma Văn Kháng kể về hai vợ chồng người phóng viên phương Tây được một anh lính lái xe người Việt Nam 14 đưa qua biên giới Campuchia. Trong tập truyện Ngày đẹp trời, nhà văn đã khắc hoạ nhiều vẻ đẹp khác nhau của con người trong cuộc sống. Đó là vẻ đẹp của chú bé Kiểm (Kiểm - chú bé - con người), mặc dù bị thiếu thốn, bất hạnh nhưng vẫn tràn đầy lòng yêu thương người khác. Đó là giọt nước mắt muộn màng nhưng rất đáng trân trọng của ông Luyến (Mất điện). 2.2.3. Con người tự nhiên đời thường Quan niệm về con người cá nhân đã được điều chỉnh hợp lý và có chiều sâu, chưa bao giờ số phận, bi kịch cá nhân được đặt ra một cách bức xúc và mạnh mẽ như thế. Mọi sự lý tưởng hóa con người đều làm cho nó trở nên giả dối, không thật. Nhân vật của truyện ngắn sau 1975 rõ ràng ít tính lí tưởng, không hoàn hảo, sạch sẽ, không được bao bọc trong bầu không khí vô trùng như trước đó thường thấy. Trong văn học vẫn có nhân vật đẹp nhưng là cái đẹp trong bụi bặm của cuộc đời thường nhật. Thí d trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Nguyễn Minh Châu để cho nhân vật Qùy trả giá và tỉnh ngộ: “Em sẽ không đòi hỏi ở anh một con người tuyệt đối hoàn mĩ... Anh hãy sống tự nhiên”. Với Bức tranh con người không trùng khít với chính mình, mà luôn phức tạp, nhiều chiều và con người đối diện với chính mình, là tòa án lương tâm. 2.2.4. Con người với đời sống tâm linh Tâm linh trong con người thường là niềm tin vào một thế giới, một cõi nào đó mà họ cũng như khoa học chưa lí giải được. Đó chỉ là những niềm tin, tín ngưỡng, làm cho đời sống con người thêm phong phú hơn. Một số truyện ngắn sau 1975 đi sâu khám phá đời sống bên trong con người, xoáy sâu vào tiềm thức để hiểu thêm những ẩn khuất trong chính tâm hồn họ. Thế nên, đời sống tâm linh của con người được quan tâm một cách toàn diện hơn trong các sáng 15 tác của Nguyễn Minh Châu. Hình ảnh người nữ y sỹ Quỳ trong truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành là một ví d . Trong một lần đi kiểm tra hành trang của các sĩ tử trong hang đá, tình cờ chị gặp nhật ký của các anh chiến sĩ trẻ, trang nào cũng ghi tên mình, Quỳ đã xúc động áp những dòng nhật ký vào ngực mình và gọi tên những từ thiêng liêng như Tổ quốc, Đất Nước. Trong một số truyện ngắn khác phương diện đời sống tâm linh con người được khám phá có chiều sâu mà giai đoạn trước đó chưa đạt tới. Nó góp phần làm phong phú trong quan niệm nghệ thuật về con người và tạo ra những biến đổi quan trọng trong phương thức biểu hiện nhân vật. Chương 3 THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 - 1985 3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật 3.1.1. Thời gian nghệ thuật Thời gian là đối tượng, là chủ thể, là công c miêu tả, là sự ý thức và cảm giác về sự vận động và đổi thay của thế giới trong các hình thức đa dạng của thời gian xuyên suốt toàn bộ văn học. Thời gian nghệ thuật là một phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức của hình tượng nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật là một trong những phạm trù quan trọng của thi pháp học, qua nó thể hiện thực chất sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sĩ. Trong văn học, yếu tố nào cũng có thời gian của nó và đều có thể biểu hiện thời gian, đặc biệt chú ý đến hai lớp thời gian cơ bản là thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật. Truyện ngắn hậu chiến thể hiện một cách sinh động và phong phú các dạng thời gian khác nhau, các bình diện thời gian quá khứ, hiện tại và tương lai đan quyện với nhau xuyên suốt các tác phẩm tạo 16 nên một bức tranh thời gian nghệ thuật đặc sắc. Sống với thời gian hai chiều của Vũ Tú Nam như một bản kiểm điểm chân thành của nhân vật trước dòng chảy của thời cuộc. Nhà văn đặt nhân vật ở thời điểm hiện tại, ngoái nhìn lại quá khứ sau khi đã từng kinh qua hai cuộc kháng chiến. Ngoài ra, còn có các kiểu thời gian như: thời gian quanh co, gấp khúc, thời gian tâm lý và thời gian ảo. 3.1.2. Không gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật là phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật, nó trở thành phương tiện chiếm lĩnh đời sống, mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật. Sự miêu tả, trần thuật bên trong tác phẩm văn học bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn. Căn cứ vào điểm nhìn mà xác định được vị trí của chủ thể trong không gian, thể hiện ở hướng nhìn, khoảng cách nhìn, ở đặc điểm của khách thể được nhìn. Không gian được trần thuật, được kể, được tả trong truyện, nó bao gồm: không gian bối cảnh, không gian sự kiện và không gian tâm lí. Trong đó, không gian tâm lí dần chiếm ưu thế trong truyện ngắn giai đoạn này như: Cơn giông, Khách ở quê ra, Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, Trại bảy chú lùn của Bảo Ninh, Năm tháng đi qua của Nguyễn Thị Như Trang 3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ 3.2.1. Giọng điệu Giọng điệu là một yếu tố đặc trưng của phong cách nhà văn trong tác phẩm. Nó phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả, có vai trò rất lớn tạo nên phong cách nhà văn và tác d ng truyền cảm cho người đọc. Điều này được thể hiện qua nhiều truỵên ngắn của Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Vũ Tú Nam, Xuân Thiều, Dương Thu Hương Mỗi nhà văn đều bộc lộ cá tính sáng tạo của mình ở một giọng điệu riêng khó trộn lẫn. Họ 17 đã chú ý hơn trong việc miêu tả tâm lí con người, những nét tính cách, phẩm chất qua sự chiêm nghiệm, suy nghĩ trong chính bản thân mình. Giọng trang trọng, triết luận xuất hiện trong truyện ngắn Mai của nhà văn Thanh Quế. Giọng tố cáo, giễu nhại mỉa mai, châm biếm khi nhà văn bất bình trước thực tại cuộc sống như bức tranh (Nguyễn Minh Châu). Giọng điệu bất an, hoài nghi khi nhà văn sống trong một xã hội đầy phức tạp, lòng người thay đổi khôn lường, giọng điệu biến động, gấp gáp trong tác phẩm của mình là không tránh khỏi. Chân dung một người hàng xóm của Dương Thu Hương là một ví d . 3.2.2. Ngôn ngữ Ngôn ngữ là công c , là chất liệu cơ bản của văn học, vì vậy văn học được gọi là loại hình nghệ thuật ngôn từ. Với tư cách là công c , là cái vỏ của tư duy, sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan chặt chẽ đến sự biến đổi của tư duy văn học. Vì vậy, nhà văn bao giờ cũng là tấm gương lớn về sự hiểu biết ngôn ngữ, sự sâu sắc trong việc sử d ng ngôn từ. Tài năng, phong cách và cá tính sáng tạo của nhà văn được thể hiện thông qua quá trình sử d ng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học. Một số đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 là thưa dần lớp từ chính trị xã hội, tăng dần lớp từ thông t c, suồng sã của cuộc sống đời thường. Trong Con chim biết chọn hạt của Nhật Tuấn, nhân vật Hoa được ca ngợi là một mẫu người năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất và quyết đoán trong ứng xử, nhưng trong một tình huống bị liệt vào phần dôi ra về nhân sự, cô phản ứng bằng lời lẽ rất đời thường, nhưng rất phù hợp với tâm trạng. Bên cạnh đó, ngôn ngữ mang đậm cá tính nhân vật, phong cách nhà văn cũng được thể hiện từ cuối những năm 70, khi cả nước đã bước ra khỏi chiến tranh để trở về với cuộc sống bình thường. 18 Trong đó, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại là một phương diện thể hiện cá tính nhân vật và phong cách nhà văn rõ nhất. Chương 4 TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1975 – 1985 TRÊN MỘT SỐ BÌNH DIỆN THI PHÁP THỂ HIỆN 4.1. Thi pháp xây dựng cốt truyện và tình huống 4.1.1. Thi pháp xây dựng cốt truyện Cốt truyện là hệ thống sự kiện c thể, được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học. Tuy vậy, cốt truyện không phải là yếu tố tất yếu cho mọi loại tác phẩm mà chỉ tồn tại trong các sáng tác thuộc loại tự sự, kí và kịch. Truyện ngắn đặc biệt đòi hỏi nhà văn phải xây dựng cốt truyện, từ đó thiết kế những sự kiện, biến cố, hành động thành một hệ thống liên t c làm cơ sở cho việc triển khai tính cách nhân vật. Trong việc xây dựng cốt truyện, các khâu đó là chi tiết, đoạn kết, câu chuyện, sườn truyện và tình tiết cũng khá quan trọng, góp phần không nhỏ trong việc tạo dựng cốt truyện cho một truyện ngắn hay. Khảo sát truyện ngắn giai đoạn 1975 - 1985, có lẽ đây là giai đoạn mà truyện ngắn Việt Nam có dạng thức cốt truyện phong phú và biến chuyển phức tạp. Quán tính của văn học học sử thi vẫn còn, nhưng luồng gió đổi mới đã bắt đầu lay động, tạo ra không gian văn học đa chiều sôi nổi chưa từng có. Qua quan sát, người viết nhận thấy một số dạng thức cốt truyện tiêu biểu của truyện ngắn giai đoạn này đó là: cốt truyện luận đề, cốt truyện kịch tính, cốt truyện tâm lý. 4.1.2. Thi pháp xây dựng tình huống Tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và 19 ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Trong một truyện ngắn, việc tạo ra tình huống như thế nào cho độc đáo là một yếu tố rất quan trọng góp phần khẳng định tài năng và phong cách riêng của một nhà văn. Truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 chủ yếu xoay quanh các dạng tình huống như: tình huống kịch, tình huống tâm trạng. Tình huống kịch là những dạng bao hàm các xung đột đời sống mang tính kịch cao, trong đó sự va chạm giữa các nhân vật trở nên gay gắt và bị dồn nén trong một không gian, thời gian và hành động như: Bức tranh, Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh châu), Chuyến xe đêm (Ma Văn Kháng), Ngày không bình thường (Phạm Hoa), Người đi xa để lại (Đào Vũ), Câu chuyện tình màu trắng (Tô Nhuận Vĩ) Tình huống tâm trạng trong những truyện như: Bến quê, Mẹ con chị Hằng, Sắm vaicủa Nguyễn Minh Châu. 4.2. Thi pháp xây dựng kết cấu và trần thuật 4.2.1. Thi pháp xây dựng kết cấu Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm. Khác với bố c c thuật ngữ kết cấu thể hiện một nội dung rộng rãi, phức tạp hơn. Tổ chức tác phẩm không chỉ giới hạn ở sự tiếp nối bề mặt, ở những tương quan bên ngoài giữa các bộ phận, chương đoạn mà còn bao hàm sự liên kết bên trong, nghệ thuật kiến trúc nội dung c thể của tác phẩm. Ngoài bố c c, kết cấu còn bao gồm: tổ chức hệ thống tính cách; tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật; nghệ thuật tổ chức những liên kết c thể của các thành phần của cốt truyện; nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện... sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật. Trong đó, kết cấu thời gian tuyến tính là dạng truyền thống, mạch truyện phát triển theo trình tự thời gian: quá khứ - hiện tại - tương lai. Đây là một trong những hình thức kết cấu quen thuộc mà 20 truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nối tiếp các giai đoạn trước. Những cốt truyện chặt chẽ, có đầu cuối rõ ràng với một hệ thống sự kiện, độ căng tình huống thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Tương tự, Kết cấu truyện lồng trong truyện cũng thường thấy trong truyện ngắn các giai đoạn trước. Truyện gồm hai hay nhiều cốt truyện, các tuyến nhân vật song song hoặc lồng ghép vào nhau hay gọi là lắp ghép liên văn bản. 4.2.2. Thi pháp trần thuật Trần thuật là thành phần lời của tác giả hay của người kể chuyện trong tác phẩm tự sự. Ngôn ngữ trần thuật do vậy là nơi bộc lộ rõ ý thức sử d ng ngôn ngữ có chủ ý của nhà văn. Tính chất đa thanh, đa dạng điểm nhìn và hiện đại trong lời người trần thuật được thể hiện rõ. Điểm nhìn trần thuật

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftt_doanvuconghoai_0193_2013960.pdf
Tài liệu liên quan