MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾNĐỀ TÀI 8
1.1. Những công trình có ý nghĩa phương pháp luận 8
1.2. Những công trình về các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến đề tài luận án 10
1.3. Các công trình nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
pháp luật trên các lĩnh vực khác nhau của quản lý nhà nước 13
1.4. Những công trình nghiên cứu các vấn đề lý luận về nền hành chính, cải cách
hành chính, trong đó có những vấn đề lý luận về thủ tục hành chính, cải
cách thủ tục hành chính 14
1.5. Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài 18
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH 23
2.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính của cơ
quan nhà nước cấp tỉnh 23
2.2. Khái niệm, đặc điểm của thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành
chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh 34
2.3. Yêu cầu và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục
hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 44
2.4. Pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính và kinh nghiệm thực hiện ở một
số nước trong khu vực và trên thế giới 54
Chương 3: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIẢI QUYẾT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP
TỈNH Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY 64
3.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính giai đoạn 2001 - 2010 64
3.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan
nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay 72
3.3. Nhận xét, đánh giá chung 94
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CƠ QUAN
NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 104
4.1. Quan điểm thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan
nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 104
4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay 109
KẾT LUẬN 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
168 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 585 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a công chức làm công tác tại Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả. Thành phố Hải Phòng đã tổng hợp được 29 kiến nghị của
doanh nghiệp về TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của Trung ương, chuyển các
kiến nghị đó đến các Bộ, ngành Trung ương giải quyết; xem xét 32 kiến nghị của
doanh nghiệp về TTHC thuộc thẩm quyền quy định của UBND thành phố, trong đó
có 22 trường hợp đã được xử lý [102]. Tại Bà Rịa - Vũng Tàu, có 165 thông tin về
những khó khăn, kiến nghị của các doanh nghiệp đã được tổng hợp, phân loại và xử
lý, trong đó bước đầu đã xử lý xong 47 thông tin, chuyển các Bộ, ngành Trung
ương xử lý 12 kiến nghị, đề xuất. Tổ công tác liên ngành của thành phố Hồ Chí
Minh đã tổ chức 6 cuộc họp giữa đại diện lãnh đạo UBND thành phố với các doanh
nghiệp để trao đổi về việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc có liên quan đến TTHC,
đồng thời giao trách nhiệm cho các Sở, ngành giải quyết cụ thể.
Tuy nhiên, Báo cáo trên của Tổ công tác 23 đã đề cập và phân tích những mặt
hạn chế trong rà soát TTHC, như một số cơ quan nhà nước cấp tỉnh vẫn chưa đánh
giá đúng vai trò của rà soát TTHC, việc chỉ đạo và phân công rà soát TTHC còn
chậm và chưa tập trung; việc công bố TTHC đã được hủy bỏ, sửa đổi, bổ sung vẫn
còn nhiều hạn chế; vẫn còn tình trạng chậm xem xét, giải quyết những khó khăn,
vướng mắc và kiến nghị của doanh nghiệp hoặc né tránh, đùn đẩy trách nhiệm, nhất
là đối với những công việc phức tạp, nhạy cảm. Một số địa phương còn khoán trắng
cho Tổ công tác, thiếu kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở để rút kinh nghiệm. Thành phố Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh chấp hành không nghiêm báo cáo tình hình và kết
quả triển khai thực hiện Quyết định số 23 của Thủ tướng Chính phủ.
Thứ hai: Về thực hiện cơ chế “một cửa” theo Quyết định số 181/2003/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính phủ tại các cơ quan nhà nước cấp tỉnh:
Trong thực hiện cơ chế “một cửa” các cơ quan nhà nước cấp tỉnh đều xác
định bên cạnh việc thực hiện công khai, minh bạch, tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ
75
chức thì phải lấy tiêu chí thời gian giải quyết thủ tục là tiêu chí chủ yếu đánh giá
hiệu quả thực hiện cơ chế. Theo Báo cáo của một số UBND tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương, việc thực hiện cơ chế “một cửa” với quan điểm trên được thể
hiện qua các Bảng thống kê sau:
Bảng 3.1: Kết quả thời gian giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”
tại tỉnh Thái Bình
Kết quả giải quyết (thời gian là ngày làm việc)
Cơ quan
giải quyết Loại TTHC được giải quyết
Thời gian
giải quyết
theo quy định
Thời gian
giải quyết
thực tế
Thời gian
được rút
ngắn
Đăng ký kinh doanh 5-7 3-5 2-4
Đăng ký thay đổi nội dung kinh doanh 7 3-5 2-4
Thẩm định hồ sơ kế hoạch đấu thầu 10 3 7
Thẩm định hồ sơ mời thầu 20 5 15
Thẩm định hồ sơ kết quả mời thầu 10 7 3
Cơ quan
chuyên môn
thuộc
UBND cấp
tỉnh
Tiếp nhận, thuyên chuyển CBCC 3-5 Trong ngày 2-4
Nguồn: Báo cáo về công tác CCHC giai đoạn 2001 - 2010 [111].
Bảng 3.2: Kết quả thời gian giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”
tại tỉnh Bình Phước
Kết quả giải quyết (thời gian là ngày làm việc)
Cơ quan
giải quyết Loại TTHC được giải quyết
Thời gian
giải quyết
theo quy định
Thời gian
giải quyết
thực tế
Thời gian
được rút
ngắn
Thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư 15 10 5
Thẩm định kế hoạch đấu thầu, hồ sơ
mời thầu, kết quả mời thầu
40 30 10
Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh đối với doanh nghiệp đầu tư
trong nước
15 12-14 3
Cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh đối với doanh nghiệp nước
ngoài
30 15 15
Cơ quan
chuyên môn
thuộc
UBND cấp
tỉnh
Cấp Giấy phép xây dựng nhà ở 30 15 15
Nguồn: Báo cáo về công tác CCHC giai đoạn 2001 - 2010 [95].
76
Bảng 3.3: Kết quả thời gian giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”
tại tỉnh Ninh Bình
Kết quả giải quyết (thời gian là ngày làm việc)
Cơ quan
giải quyết Loại TTHC được giải quyết
Thời gian
giải quyết
theo quy định
Thời gian
giải quyết
thực tế
Thời gian
được rút
ngắn
Đăng ký kinh doanh 7 4 3
Chuyển nhượng nhà đất 21 14 7
Cấp Giấy phép xây dựng 30 15 15
Thẩm định hồ sơ thu hồi đất, giao đất,
cho thuê đất, chuyển mục đích sử
dụng đất đối với tổ chức
30 20 10
Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho tổ chức được giao đất
20 14 6
Thẩm định hồ sơ đánh giá tác động
môi trường
30 20 10
Cơ quan
chuyên môn
thuộc
UBND cấp
tỉnh
Cấp phiếu xác nhận đạt tiêu chuẩn
môi trường
20 8 12
Nguồn: Báo cáo về công tác CCHC giai đoạn 2001 - 2010 [108].
Bảng 3.4: Kết quả thời gian giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”
tại tỉnh Nghệ An
Kết quả giải quyết (thời gian là ngày làm việc)
Cơ quan
giải quyết Loại TTHC được giải quyết
Thời gian
giải quyết
theo quy định
Thời gian
giải quyết
thực tế
Thời gian
được rút
ngắn
Bổ sung đăng ký kinh doanh 7 3 4
Cấp Giấy phép lái xe 10 2 8
Cấp Giấy phép vận tải, Giấy phép lưu
hành
2 0,5 1,5
Cấp hộ chiếu 25 7-10 15-18
Cơ quan
chuyên môn
thuộc
UBND cấp
tỉnh
Cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch 15 3 12
Nguồn: Báo cáo về công tác CCHC giai đoạn 2001 - 2010 [107].
77
Bảng 3.5: Kết quả thời gian giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa”
tại tỉnh Bắc Giang
Kết quả giải quyết (thời gian là ngày làm việc)
Cơ quan
giải quyết Loại TTHC được giải quyết
Thời gian
giải quyết
theo quy định
Thời gian
giải quyết
thực tế
Thời gian
được rút
ngắn
Giao đất, cho thuê đất 45 15 30
Chuẩn bị đầu tư, lựa chọn giới thiệu
địa điểm
63 25 38
Thẩm định dự án xây dựng trong đầu tư 42 10 32
Cơ quan
chuyên môn
thuộc
UBND cấp
tỉnh Chuyển Giấy phép lái xe 4-5 2-3 2
Nguồn: Báo cáo về công tác CCHC giai đoạn 2001 - 2010 [93].
Từ kết quả giải quyết TTHC theo cơ chế “một cửa” ở một số tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương trên các vùng miền trong cả nước, được thể hiện trong các
Bảng thống kê trên, có thể rút ra một số nhận định sau về thực trạng thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC trong giai đoạn này là:
Một, tất cả các cơ quan nhà nước cấp tỉnh đều triển khai thực hiện Quyết
định số 181 áp dụng cơ chế “một cửa”, trong đó có 4 Sở bắt buộc phải áp dụng cơ
chế một cửa là: Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; Sở Tài nguyên và Môi
trường; Sở Kế hoạch và Đầu tư; Sở Xây dựng, tập trung vào 7 lĩnh vực có nhiều
bức xúc được Quyết định xác định.
Hai, việc thực hiện cơ chế “một cửa” được cơ quan nhà nước cấp tỉnh tiến
hành trên cơ sở rà soát TTHC, loại bỏ các thủ tục rườm rà, mâu thuẫn, quy định các
TTHC mới theo thẩm quyền đáp ứng các yêu cầu đối với TTHC trong bối cảnh cải
cách. Theo đó, việc quy định mới TTHC theo thẩm quyền đều theo hướng công
khai, minh bạch, đơn giản, tập trung vào việc đơn giản các loại giấy tờ, giảm bộ hồ
sơ, mẫu hóa các mẫu đơn, tờ khai, quy định rõ thời gian giải quyết, phí, lệ phí.
Ba, cùng với việc đơn giản hóa TTHC, cơ quan nhà nước cấp tỉnh đều chú
trọng cải tiến quy trình tiếp nhận, xem xét, xử lý hồ sơ theo hướng giảm các giai
đoạn của quy trình, bỏ khâu trung gian, đồng thời tăng cường trách nhiệm của
CBCC làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, tăng cường trách nhiệm của
các bộ phận chức năng và giữa các bộ phận chức năng trong xem xét, xử lý hồ sơ.
78
Bốn, chú trọng công tác tiếp nhận và xử lý kịp thời các phản ánh, kiến nghị
của tổ chức, cá nhân về TTHC, về việc giải quyết TTHC, thực hiện quy trình tiếp
nhận, xem xét, xử lý hồ sơ tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, tinh thần, thái độ
của CBCC được phân công làm việc tại Bộ phận này, chú trọng đối thoại với các
doanh nghiệp, nhà đầu tư về giải quyết TTHC.
Năm, việc thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC, trực tiếp là triển khai
thực hiện cơ chế “một cửa” ở các cơ quan nhà nước cấp tỉnh cũng bộc lộ nhiều hạn
chế, khuyết điểm, trong đó đáng chú ý là những hạn chế sau:
- Nhận thức về ý nghĩa và nội dung của cơ chế “một cửa” trong giải quyết
TTHC của một bộ phận CBCC còn yếu; một số cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu
các cơ quan áp dụng cơ chế còn chưa quan tâm đúng mức trong việc triển khai cơ
chế, có biểu hiện thực hiện còn hình thức, thiếu kiên quyết trong giải quyết những
vướng mắc nảy sinh.
- Việc phối hợp giữa các CQHC cấp tỉnh và giữa các cơ quan này với cơ
quan Trung ương đóng tại địa phương trong thực hiện pháp luật về giải quyết
TTHC đối với các lĩnh vực liên quan đến chức năng, thẩm quyền còn chưa đồng bộ,
nhất là trên các lĩnh vực ngân hàng, công an, thuế vụ, kho bạc, bảo hiểm xã hội,
điện lực, bưu điện Chính từ đây mà việc thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC
nhiều khi không nhất quán về thời gian, phát sinh những vướng mắc giữa các cơ
quan liên quan mà không được kịp thời giải quyết, từ đó tạo ra nhiều trở ngại cho cá
nhân và tổ chức có yêu cầu giải quyết công việc. Thực trạng này cũng làm bộc lộ
những hạn chế của cơ chế “một cửa”, đòi hỏi phải có một cơ chế mới phù hợp.
- Việc rà soát TTHC theo quy định phải được tiến hành thường xuyên, tuy
nhiên chưa được các cơ quan hành chính cấp tỉnh thực hiện nghiêm túc; thời gian
giải quyết TTHC tuy có giảm so với quy định nhưng trong tổ chức thực hiện chưa
theo đúng yêu cầu, nhiều cơ quan còn lẫn lộn giữa việc rà soát các TTHC với rà
soát các văn bản quy phạm pháp luật; một số lĩnh vực được thực hiện theo cơ chế
“một cửa” nhưng trong thực tế đã phải dẫn ra qua nhiều cửa. Hạn chế không nhỏ
trong công tác rà soát TTHC là ở khâu xử lý kết quả rà soát TTHC, cụ thể là ở khâu
công khai TTHC sau rà soát, bảo đảm cho các TTHC bị loại bỏ, sửa đổi được cập
nhật và được tiếp cận kịp thời từ phía người dân, tổ chức, doanh nghiệp.
79
- Một số cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh chưa thực sự quan tâm
bố trí CBCC có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng làm việc tại Bộ phận tiếp nhận
và trả kết quả để hướng dẫn tổ chức và cá nhân hoàn chỉnh hồ sơ ngay từ ban đầu
trước khi tiếp nhận. Đội ngũ CBCC vẫn còn một bộ phận ý thức trách nhiệm kém,
chưa thực sự tận tâm phục vụ nhân dân.
Chính từ những hạn chế trên đã là một trong những cơ sở để Đảng ta, tại Đại
hội X, khi đánh giá công cuộc CCHC trong nhiệm kỳ Đại hội IX (2001-2006) đã
khẳng định “CCHC chưa đạt yêu cầu” [29, tr.64].
3.2.1.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
của cơ quan nhà nước cấp tỉnh giai đoạn 2006-2010
Trong giai đoạn này, các CQHC cấp tỉnh trong thực hiện pháp luật về giải
quyết TTHC đã tập trung vào hai nhiệm vụ trọng tâm là: Thực hiện cơ chế một
cửa, cơ chế một cửa liên thông tại CQHC nhà nước ở địa phương theo Quyết định
số 93 của Thủ tướng Chính phủ và thực hiện cải cách TTHC theo Đề án 30 về rà
soát và đơn giản hóa TTHC trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-
2010, cụ thể là:
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, cơ
chế một cửa liên thông.
- Sau khi Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 93 các CQHC nhà nước ở
địa phương đã triển khai công tác tuyên truyền, học tập, chuẩn bị xây dựng cơ sở
vật chất, bố trí nhân lực, rà soát, lựa chọn và ban hành danh mục các công việc, lĩnh
vực TTHC được giải quyết theo cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông, niêm
yết công khai các loại TTHC, mức thu phí và lệ phí để cho cá nhân, tổ chức biết và
thực hiện. Trong triển khai thực hiện cơ chế một cửa liên thông, cơ quan nhà nước
cấp tỉnh đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định quy chế tổ chức và hoạt
động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, quy trình xem xét, xử lý hồ sơ, xác định
mối quan hệ của Bộ phận này với các CQHC có thẩm quyền giải quyết TTHC.
Nhiều cơ quan nhà nước cấp tỉnh đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật phê
duyệt đề án thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông của từng cấp hành
chính, theo đó đã quy định rõ trách nhiệm phối hợp, nêu rõ cơ quan chủ trì, cơ quan
phối hợp, nơi tiếp nhận và trả kết quả. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện pháp
80
luật về giải quyết TTHC ở đa số các CQHC cấp tỉnh được coi trọng, tiến hành
thường xuyên, đồng thời tiến hành khảo sát, lấy ý kiến người dân và tổ chức về hoạt
động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả bằng nhiều hình thức khác nhau. Các tỉnh
Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Thuận, Lào Cai, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Cần Thơ, thành phố
Hồ Chí Minh là những tỉnh làm tốt công tác này (Báo cáo về công tác CCHC giai
đoạn 2001-2010 của UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
- Về đội ngũ CBCC: Nhiều địa phương đã bố trí đủ CBCC chuyên trách tại
Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, trong đó cấp tỉnh có từ 1 đến 3 công chức chuyên
trách, do đó đã góp phần nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong thực hiện
công việc. Nhìn chung, CBCC làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đều có
ý thức trách nhiệm, tính chuyên nghiệp, đề cao tinh thần phục vụ nhân dân, được cá
nhân, tổ chức đến thực hiện giao dịch công việc đánh giá tốt. Công tác tập huấn
nghiệp vụ cho đội ngũ CBCC làm việc tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả cũng
được chú trọng, do đó đã góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả thực hiện cơ
chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông. Các địa phương làm tốt công tác này là Hà
Nội, Đà Nẵng, Thái Bình, Bạc Liêu, Quảng Trị, Thanh Hóa, Phú Thọ, Bà Rịa Vũng
Tàu, Đồng Tháp
- Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Văn phòng UBND và các cơ quan
chuyên môn khác thuộc UBND cấp tỉnh đã tiếp nhận, xem xét hồ sơ, vụ việc được
giải quyết theo cơ chế một cửa trên hầu hết các lĩnh vực của quản lý nhà nước, như:
lĩnh vực đất đai, khoáng sản, môi trường, xây dựng, công nghiệp, thương mại;
CBCC, viên chức nhà nước; tôn giáo, giao thông vận tải; lao động, thương binh và
xã hội, tài chính, thuế, bảo hiểm xã hội Việc áp dụng cơ chế một cửa liên thông
đã được tiến hành tại 63/63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Về lĩnh vực áp dụng cơ
chế một cửa liên thông hiện vẫn chưa đồng đều, có cơ quan nhà nước ở cấp tỉnh chỉ
áp dụng cơ chế trên một lĩnh vực (đăng ký kinh doanh); có tỉnh thực hiện trên nhiều
lĩnh vực trọng điểm, như đất đai, xây dựng; lao động, thương binh và xã hội. Ở một
số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thực hiện liên thông giữa CQHC nhà
nước cấp tỉnh, cấp huyện với cơ quan ngành dọc cùng cấp, như liên thông giữa các
cơ quan thuế, kho bạc, công an trong việc giải quyết công việc cho tổ chức, cá nhân
đối với lĩnh vực đăng ký kinh doanh, đất đai, hộ tịch.
81
Việc thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, cơ chế
một cửa liên thông trong giai đoạn này đã đem lại những kết quả tích cực sau:
- Đã góp phần quan trọng trong xây dựng và củng cố mối quan hệ giữa
người dân với chính quyền trên cơ sở tăng cường chức năng phục vụ của nền hành
chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi đến giao dịch với CQHC, giảm
được tình trạng cá nhân, tổ chức phải đi lại nhiều lần, gặp nhiều cơ quan, nhiều cấp
hành chính để giải quyết công việc. Việc thực hiện đó cũng đã tạo điều kiện để
chính quyền gần dân hơn, chống tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong đội ngũ
CBCC. Kết quả thực hiện dự án Papi về Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính
công cấp tỉnh ở Việt Nam của MTTQ tỉnh Bắc Giang cho thấy việc thực hiện cơ
chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông đã có 73% số lãnh đạo và CBCC cấp huyện,
cấp xã đánh giá chính quyền gần dân hơn; 7% số người dân cho rằng quy định về
thời gian giải quyết công việc hiện nay trong thực hiện pháp luật về giải quyết
TTHC là hợp lý [52].
- Thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế
một cửa, cơ chế một cửa liên thông đã góp phần sắp xếp hợp lý tổ chức, tạo cơ chế
phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của các CQHC nhà nước, tổ chức bộ máy hành
chính ở địa phương được kiện toàn theo hướng chuyên môn hóa, làm cho hoạt động
của từng bộ phận mang tính chuyên nghiệp hơn, lãnh đạo CQHC nhà nước có điều
kiện tăng cường kiểm tra, quản lý hoạt động của các bộ phận trong cơ quan, tăng
cường cơ sở vật chất cho quản lý nhà nước.
- Thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông đã góp phần tăng cường cơ chế giám sát hoạt động của CQHC, hạn
chế tiêu cực trong đội ngũ CBCC. Nó cũng góp phần tạo ra những điều kiện thuận
lợi để phát huy quyền dân chủ của người dân, tăng cường sự giám sát của nhân dân
đối với hoạt động của CQHC nhà nước và đội ngũ CBCC. Điều đó thể hiện ở việc
người dân quan tâm góp ý những quy định TTHC, về tinh thần, thái độ phục vụ của
CBCC. Mặt khác, thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, cơ
chế một cửa liên thông còn tạo ra cơ chế giám sát lẫn nhau trong thực hiện nhiệm
vụ của CBCC, của lãnh đạo các CQHC nhà nước với CBCC, mà kết quả là đã giúp
tăng cường trách nhiệm, kỹ năng nghiệp vụ hành chính, nâng cao tinh thần, thái độ
82
phục vụ nhân dân của đội ngũ CBCC, góp phần phòng chống tiêu cực, tham nhũng,
làm trong sạch, minh bạch hóa hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp.
- Thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin, hiện đại hóa nền hành chính. Theo thống kê của Bộ Nội vụ đã có 145
CQHC cấp huyện tại 37 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã tổ chức triển khai
ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả, từ đó
rút ngắn thời gian và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết công việc theo cơ
chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông [10]. Một số địa phương đi đầu triển khai cơ
chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông áp dụng công nghệ thông tin hiện đại là Hải
Phòng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt, quận Tân Bình, thành phố Hồ
Chí Minh đã thực hiện cơ chế một cửa điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin phần
mềm xử lý hồ sơ, trả kết quả đến cấp xã [103]. Thành phố Bắc Giang đã thực hiện
cơ chế một cửa điện tử đến tất cả các xã, phường, thị trấn [93]. Sở Giao thông vận
tải ở một số địa phương khác đã thực hiện việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3 cho người dân và doanh nghiệp. Nhiều thành phố, thị xã của nhiều tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương như Cao Lãnh (tỉnh Đồng Tháp), thành phố Long
Xuyên (tỉnh An Giang), thành phố Quảng Ngãi (tỉnh Quảng Ngãi) đã ứng dụng
công nghệ thông tin tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đạt hiệu quả cao, được
nhân dân ủng hộ.
- Thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, cơ chế một
cửa liên thông đã góp phần quan trọng thúc đẩy KT-XH địa phương phát triển; việc
giải quyết các công việc của người dân và doanh nghiệp được thông thoáng, thuận
lợi, nhất là trong các việc thành lập doanh nghiệp, cấp giấy phép đầu tư, cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, về thuế,
hải quan, xuất nhập khẩu, chính sách xã hội và các lĩnh vực khác. Điều có ý nghĩa
quan trọng là việc thực hiện đó đã góp phần cải thiện đáng kể môi trường đầu tư,
làm cho các nhà đầu tư hài lòng, doanh nhân trong và ngoài nước tin tưởng vào
chính sách phát triển của Nhà nước, của chính quyền địa phương, yên tâm đầu tư,
phát triển sản xuất, kinh doanh, đóng góp chung vào sự tăng trưởng kinh tế và phát
triển đất nước. Chính từ kết quả này, Việt Nam được đánh giá như một điểm sáng
83
về nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh, là một trong nhóm 10 quốc gia có tốc độ
CCHC trong đó có cải cách TTHC nhanh nhất. Những tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương đã có sự phát triển KT-XH mạnh mẽ qua thực hiện cơ chế một cửa, cơ
chế một cửa liên thông là An Giang, Đồng Tháp, Bình Dương, Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, thành phố Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh.
Bên cạnh kết quả đạt được, thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC, trong đó
có việc thực hiện các quy định về kiểm soát TTHC vẫn còn những hạn chế sau:
- Một số địa phương còn chậm trong việc sửa đổi, bổ sung, ban hành các
văn bản triển khai hoạt động cải cách TTHC. Trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương cho đến cuối năm 2011 chỉ có 10 tỉnh, thành phố đã rà soát 276 văn
bản quy phạm pháp luật quy định TTHC [5]. Hầu hết các địa phương chưa thực
hiện nghiêm túc việc đánh giá tác động của quy định TTHC. Việc lấy ý kiến cơ
quan, đơn vị đối với các quy định mới về TTHC, việc công bố quy định mới về
TTHC, cập nhật TTHC, cập nhật văn bản trên cơ sở dữ liệu còn hạn chế, chưa kịp
thời, dẫn đến tình trạng TTHC đã hết hiệu lực thi hành nhưng vẫn được niêm yết
và thực hiện. Mặt khác, việc chưa niêm yết công khai, đầy đủ các quy định TTHC
tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hoặc yêu cầu thêm các loại giấy tờ ngoài
thành phần hồ sơ theo quy định vẫn còn diễn ra phổ biến. TTHC trên nhiều lĩnh
vực vẫn là rào cản hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến sinh hoạt và
đời sống của người dân. Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lãnh đạo
chưa thực sự coi cải cách TTHC là nhiệm vụ chính trị, là nhiệm vụ trọng tâm,
thường xuyên. Hạn chế này đã dẫn đến nhiều cơ quan nhà nước ở địa phương
không quan tâm cải cách TTHC hoặc thực hiện một cách hình thức, kỷ luật, kỷ
cương hành chính còn hạn chế.
- Việc tiếp nhận, xử lý ý kiến phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về
quy định hành chính, trong đó có quy định TTHC theo Nghị định số 20 của Chính
phủ chưa thực hiện tốt nên chưa nhận được sự quan tâm của cá nhân, tổ chức; mặt
khác, kết quả xử lý, phản ảnh, kiến nghị chưa đáp ứng được nguyện vọng chính
đáng của nhân dân nên người dân, doanh nghiệp chưa thực sự tin tưởng để tiếp tục
phản ánh, gửi kiến nghị cũng như đóng góp ý kiến về quy định TTHC.
84
Thứ hai: Thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC theo Đề án 30 về đơn giản
hóa TTHC trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010.
Đề án 30 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và triển khai nhằm đảm bảo
sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của hệ thống TTHC, bảo
đảm hiệu quả quản lý nhà nước, thúc đẩy KT - XH phát triển. Việc thực hiện Đề án
được chia làm 3 giai đoạn: Giai đoạn 1 là giai đoạn thống kê TTHC, được tiến hành
từ tháng 8/2008 đến tháng 9/2009; giai đoạn 2 là giai đoạn rà soát TTHC, được tiến
hành từ tháng 9/2009 đến tháng 5/2010; giai đoạn 3 là thực hiện phương án đơn
giản hóa TTHC trong năm 2010. Với những nội dung trên, việc thực hiện Đề án 30
đã tạo tiền đề căn bản cho việc thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC, trực tiếp là
cho việc hoàn thiện cơ chế giải quyết TTHC. Kết quả thực hiện Đề án ở các tỉnh
cho thấy rõ điều đó, cụ thể là:
- Giai đoạn thống kê TTHC: Ở giai đoạn này đã có 63/63 tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương thực hiện thành công việc thống kê TTHC, nhằm công khai,
minh bạch hệ thống TTHC trước nhân dân. Theo Báo cáo số 5535/BC-VPCP ngày
09/8/2010 của Văn phòng Chính phủ, đến tháng 10/2009 Thủ tướng Chính phủ đã
công bố Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC tại 4 cấp chính quyền và công khai trên
mạng Internet trên 5.700 TTHC, trên 9.000 văn bản quy định TTHC và trên
100.000 biểu mẫu thống kê TTHC [117]. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đã thiết lập
và công bố công khai Bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC trên các lĩnh vực quản lý
nhà nước liên quan đến người dân và doanh nghiệp.
Kết quả quan trọng của giai đoạn này là ở tất cả các tỉnh, thành phố trong cả
nước đã chuẩn hóa và thống nhất được bộ TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của
chính quyền cấp huyện, cấp xã. Việc chuẩn hóa đã thu gọn từ hơn 10.000 bộ thủ tục
cấp xã, 700 bộ thủ tục cấp huyện xuống còn 63 bộ TTHC cấp xã và 63 bộ TTHC
cấp huyện [117]. Đây là kết quả có ý nghĩa về nhiều phương diện. Trước hết, nó tạo
điều kiện để người đứng đầu CQHC các cấp nắm vững và kiểm soát được số lượng
TTHC hiện có, đang áp dụng trên địa bàn, khắc phục tình trạng tùy tiện, thiếu thống
nhất về nội dung và số lượng thủ tục tại các xã, các huyện trong cùng một tỉnh. Mặt
khác, điều đó cũng đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động của các CQHC nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi để người dân và doanh nghiệp giám sát quá trình thực
85
hiện công việc của CBCC trong quá trình giải quyết TTHC, góp phần phòng, chống
tham nhũng, tiêu cực.
- Giai đoạn rà soát và đơn giản hóa TTHC: Đây là giai đoạn tiếp theo giai
đoạn thống kê TTHC, mục tiêu là nhằm cắt giảm gánh nặng hành chính, tạo thuận
lợi cho người dân và doanh nghiệp, đồng thời vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý nhà
nước của các Bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp. Theo Báo cáo trên của
Văn phòng Chính phủ, toàn bộ 258 ưu tiên TTHC đã được đơn giản hóa, theo đó
nhiều TTHC đã được bãi bỏ, thay thế; nhiều mẫu đơn, tờ khai đã được đơn giản
hoặc mẫu hóa thống nhất trong cả nước; nhiều yêu cầu, điều kiện thực hiện TTHC
đã bị bãi bỏ vì không cần thiết; nhiều trình tự, cách thức giải quyết, hồ sơ phải nộp
đã được đơn giản hóa theo hướng tối thiểu, nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho
người dân và doanh nghiệp [117]. Theo tính toán, các phương án đơn giản hóa 258
TTHC sẽ tiết kiệm cho người dân và doanh nghiệp số tiền khoảng 5.700 tỷ
đồng/năm (tương đương 300 triệu USD/năm). Báo cáo cũng cho thấy các tỉnh,
thành phố trực thuộc
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_thuc_hien_phap_luat_ve_giai_quyet_thu_tuc_hanh_chinh_cua_co_quan_nha_nuoc_cap_tinh_o_viet_nam_hie.pdf