Luận án Trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU. 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU. 10

1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 10

1.2. Kế thừa kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra. 30

CHƯƠNG 2: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ

TRONG HOẠCH ĐỊNH VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG. 34

2.1. Khái niệm hoạch định, thực thi chính sách công và trách nhiệm giải trình

của chính phủ. 34

2.2. Cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính phủ trong

hoạch định, thực thi chính sách công. 40

2.3. Sự cần thiết thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch

định, thực thi chính sách công. 47

2.4. Chủ thể, đối tượng, nội dung, hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình

của chính phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công. 52

2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến trách nhiệm giải trình của chính phủ trong

hoạch định, thực thi chính sách công. 59

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ

TRONG HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở

VIỆT NAM. 68

3.1. Thực trạng cơ sở chính trị - pháp lý của trách nhiệm giải trình của chính

phủ trong hoạch định, thực thi chính sách công . 68

3.2. Thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch

định, thực thi chính sách công . 81

3.3. Đánh giá khái quát thực trạng và nguyên nhân . 96

CHƯƠNG 4: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO

TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH CỦA CHÍNH PHỦ TRONG

HOẠCH ĐỊNH, THỰC THI CHÍNH SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM . 111

4.1. Quan điểm định hướng. 111

4.2. Giải pháp. 120

KẾT LUẬN. 149

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

pdf228 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 03/03/2022 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Trách nhiệm giải trình của chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
[Xem Phụ lục B, Hộp 3.10]. Ngoài việc chủ động giải thích, cung cấp thông tin, công khai chịu trách nhiệm trước người dân, Chính phủ có TNGT theo yêu cầu của các cử tri gửi đến trong các kỳ họp Quốc hội và Chính phủ còn phải có TNGT theo yêu cầu của người dân nói 94 chung. Các bộ ngành còn tiến hành tiếp công dân theo định kỳ và đột xuất, lắng nghe các ý kiến, bức xúc, khúc mắc, phản ánh, kiến nghị của người dân, cung cấp thông tin, giải thích rõ ràng đến người dân. Một số kênh tương tác khác được thiết lập để Chính phủ thực hiện việc giải thích, cung cấp thông tin đến cho người dân, doanh nghiệp như thông qua một số chuyên trang, diễn đàn, chương trình đối thoại của Chính phủ như: Đối thoại chính sách trên truyền hình, chuyên trang Công khai, minh bạch điện, xăng dầu trên Cổng thông tin điện tử Bộ Công Thương tại địa chỉ: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quy chế tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tháng 4/2017 [Xem Phụ lục B, Hình 3.1]. Người dân phản ánh, kiến nghị bằng cách truy cập vào địa chỉ doanh nghiệp thì truy cập vào địa chỉ Quy chế này quy định việc tiếp nhận, xử lý và trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về các vướng mắc, khó khăn trong thực hiện cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân thông qua Hệ thống thông tin tiếp nhận, trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ (Hệ thống thông tin). Các bộ, ngành, địa phương thực hiện tiếp nhận, phân loại phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp gửi đến Hệ thống thông tin; cập nhật đầy đủ các phản ánh, kiến nghị được gửi bằng văn bản, điện thoại, fax, thư điện tử vào Hệ thống thông tin để xử lý theo quy định của pháp luật. Trên cơ sở các phản ánh, kiến nghị được Văn phòng Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương chuyển thông qua Hệ thống thông tin, cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu, xử lý hoặc phối hợp xử lý phản ánh, kiến nghị theo quy trình được quy định tại Điều 14 Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14/2/2008 của Chính phủ về tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính. Tuy nhiên, theo quy chế thì nội dung phản ánh kiến nghị tương đối hạn hẹp và chỉ tập trung vào hành vi của cán bộ công chức trong giải quyết thủ tục hành chính mà chưa có một phần riêng về ý kiến của nhân dân 95 đối với hoạt động của Chính phủ một cách cụ thể và trách nhiệm của Chính phủ đối với các vấn đề mà các bộ, ngành trả lời như thế nào. Theo quy chế, thời hạn xử lý, trả lời phản ánh, kiến nghị là 20 ngày kể từ ngày nhận được phản ánh, kiến nghị, trường hợp hết thời hạn này mà chưa xử lý xong, định kỳ cứ sau 7 ngày các bộ, ngành, địa phương cập nhật tình hình xử lý vào Hệ thống thông tin để thông tin cho người dân, doanh nghiệp, tuy nhiên, quy chế cũng không quy định rõ về xử lý như thế nào nếu các phản ánh, kiến nghị bị kéo dài, tồn đọng không giải quyết được hoặc né tránh, lãng quên, không được trả lời. Điều này được phản ánh qua [Xem Phụ lục B, Hộp 3.11]. Ngoài ra, việc giải trình thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, họp báo nhiều khi còn hình thức, các câu trả lời đưa ra chung chung, né tránh, không đi thẳng vào vấn đề được hỏi, các thông tin trả lời còn sơ sài, có nhiều câu hỏi thậm chí còn ko được trả lời, chưa nêu rõ được trách nhiệm thuộc về ai, chưa thỏa mãn mong muốn của người dân như: Họp báo cây xanh: 21 câu hỏi chưa được trả lời; Cuộc họp báo về vụ sập giàn giáo tại Formosa diễn ra chóng vánh, nhà thầu đến muộn nên nhiều vấn đề quan trọng chưa được làm rõ [199]. Bên cạnh đó, mức độ tương tác giữa chính quyền với người dân, sự chủ động của Chính phủ và các bộ, ngành trong việc giải quyết các băn khoăn, bức xúc của người dân chưa cao, các phản ánh, kiến nghị của người dân chưa được giải thích, giải quyết thoả đáng dẫn tới phát sinh nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài. Trong chương trình “Dân hỏi Bộ trưởng trả lời” ngày 31/3, Tổng Thanh tra Chính phủ Huỳnh Phong Tranh cho biết trong năm 2012, tuy số lượt người, số vụ khiếu nại, tố cáo có giảm nhưng tính chất phức tạp, gay gắt tăng hơn so năm 2011. Tới cuối năm 2012, đã có trên 380.000 lượt người khiếu nại, tố cáo, gửi trên 124.000 lượt đơn đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Như vậy, nhìn chung việc thực hiện TNGT của Chính phủ trước xã hội gần như mới dừng lại ở phương diện cung cấp thông tin và giải thích còn vấn đề chịu trách nhiệm hay qua đó để có khả năng quy kết trách nhiệm của ai trong quá trình HĐCS và TTCS là chưa rõ ràng và chưa gắn với chế tài, hậu quả chính trị - pháp lý của chủ thể giải trình. 96 3.3. ĐÁNH GIÁ KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.3.1. Những thành tựu và nguyên nhân 3.3.1.1. Những thành tựu Có thể nói, vấn đề trách nhiệm giải trình của Chính phủ nói chung, TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam nói riêng là một trong những nhân tố thiết yếu để đánh giá một Nhà nước, một Chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động; một Chính phủ thực sự hoạt động hiệu quả vì lợi ích chung của nhân dân và tiến bộ chung của xã hội... Nhất là trước yêu cầu của sự phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, việc thực hiện TNGT của Chính phủ ngày càng được quan tâm, chú trọng và đòi hỏi tính thực chất, tính hiệu quả ngày càng cao hơn. Qua nghiên cứu thực trạng TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam, có thể khái quát những mặt đạt được trên một số khía cạnh sau đây: Thứ nhất, Việt Nam đã thiết lập được cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ cho việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC. Những quy định về trách nhiệm giải trình của Chính phủ được thể hiện trong Hiến pháp, các Luật đã đặt nền tảng cơ sở pháp lý để Chính phủ thực hiện công khai hóa, minh bạch hóa quá trình HĐCS, TTCS cũng như báo cáo, giải thích và chịu trách nhiệm về quá trình thực thi nhiệm vụ trong HĐCS, TTCS. Đồng thời, các quy định đã đặt cơ sở để Đảng lãnh đạo, Quốc hội giám sát, kiểm soát quyền lực; cử tri, người dân nói chung và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện quyền làm chủ đối với hoạt động của Chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam. Bước đầu, Việt Nam đã hình thành được Nghị định 90/2013/NĐ-CP quy định TNGT của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao, TNGT của cơ quan hành chính nhà nước theo yêu cầu của người dân. Cụ thể bao gồm quy định về trách nhiệm cung cấp, giải thích thông tin, chịu trách nhiệm về việc thực thi công vụ. Nghị định 90/2013/NĐ-CP đã quy định chủ thể, nội dung, hình thức, trình tự, thủ tục thực hiện yêu cầu giải trình của người dân. Đặc biệt, Hiến pháp 2013 đã chính thức quy định TNGT của các cơ quan hiến định, trong đó có Chính phủ (Điều 77, 94, 98, 99) đã ghi nhận TNGT là một trong những nội dung quan trọng của cơ chế hiến định về tổ chức, thực hiện quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, khẳng định Nhà nước và các 97 chủ thể quyền lực ở tầm Hiến pháp phải chịu trách nhiệm trước nhân dân bằng cách cung cấp thông tin, giải thích cụ thể, rõ ràng, công khai những chính sách, quyết định của mình trước các chủ thể có thẩm quyền giám sát theo quy định của Hiến pháp. Các quy định về việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC ở Việt Nam đã từng bước được quy định tương đối đầy đủ về chủ thể, nội dung, hình thức, phương pháp, hệ quả giải trình. Những quy định đó được thể hiện tương đối cụ thể trong Luật tổ chức Quốc hội (2014), Luật tổ chức Chính phủ (2015), Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (2015), Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân (2015), Luật tiếp cận thông tin (2016)... Trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC được quy định đối với tập thể Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ. TNGT của Chính phủ trước Đảng, trước Quốc hội, trước nhân dân và xã hội nói chung dưới cả hai hình thức là chủ động và theo yêu cầu. Chủ động công khai, minh bạch trong hoạt động, chủ động giải thích với người dân khi xảy ra những sự việc gây bức xúc trong dư luận, giải thích, cung cấp thông tin theo yêu cầu của người dân về quá trình HĐCS, TTCS. Một số cơ chế, hệ quả chính trị - pháp lý của TNGT của Chính phủ cũng đã được quy định với các mức độ khác nhau tạo cơ sở để tăng cường việc thực hiện TNGT của Chính phủ. Thứ hai, việc thực hiện TNGT của Chính phủ đã thu được những kết quả đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào việc phòng, chống tham nhũng chính sách, nâng cao hiệu quả chính sách. Trách nhiệm giải trình của Chính phủ trước Đảng, trước Quốc hội, nhân dân và xã hội đã được thực hiện tương đối nghiêm túc. Các kết quả quan trọng của việc thực hiện TNGT của Chính phủ được thể hiện như: Hoạt động báo cáo, chất vấn trước Quốc hội, chất vấn trên các phương tiện truyền thông, họp báo ngày càng đi vào thực chất, nhận được sự quan tâm của dư luận, các kiến nghị của cử tri gửi đến các kỳ họp Quốc hội được các cơ quan hành chính tiếp nhận, giải quyết và giải trình cho người dân, báo cáo kết quả cho Quốc hội. Việc công khai các thông tin liên quan HĐCS và TTCS được thực hiện ngày càng nhiều hơn và đem lại hiệu quả tích cực, người dân chủ động nắm bắt thông tin HĐCS và TTCS của Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ thời gian qua đã thực hiện nghiêm chế độ báo 98 cáo trước nhân dân về những vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, chủ động cung cấp thông tin về triển khai thực hiện các chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, tình hình kinh tế - xã hội, hoạt động lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và kết quả giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân thông qua báo cáo tại các kỳ họp Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các cuộc họp báo và qua Cổng Thông tin Điện tử Chính phủ, các phương tiện thông tin đại chúng. Việc chủ động giải trình thông qua phương tiện truyền thông, họp báo ngày càng được chú trọng và dư luận quan tâm. Hầu hết các câu hỏi đưa ra phỏng vấn đều được Chính phủ giải trình khá thẳng thắn. Thông qua các cuộc họp báo định kỳ, đột xuất các thông tin về các nội dung liên quan đến trách nhiệm HĐCS và TTCS của mình đã được các bộ, ngành chủ động đưa ra hoặc giải thích công khai, và thông qua các phương tiện truyền thông, các nội dung thông tin này đã được truyền tải đến người dân, để người dân hiểu biết, nắm được các thông tin một cách chính xác, kịp thời. Việc công khai, minh bạch trong hoạt động của Chính phủ về hoạch định và thực thi chính sách bước đầu đã thúc đẩy sự thực hiện công khai, minh bạch ở tất cả các cơ quan hành chính nhà nước theo từng nội dung tương ứng. Đây cũng chính là một trong những biện pháp phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả trong giai đoạn vừa qua, nhất là vấn đề tham nhũng chính sách. Bên cạnh đó, qua tiếp nhận, nghiên cứu, xử lý các phản ánh kiến nghị của người dân, Chính phủ, Thủ tướng và các bộ trưởng đã giải đáp được các băn khoăn, thắc mắc của người dân liên quan đến quá trình hoạch định và thực thi chính sách. Đồng thời còn giúp các bộ, ngành có thêm thông tin về những vướng mắc khó khăn của các cá nhân, tổ chức; bảo đảm kiểm soát việc thực thi các chính sách này trên thực tế; kịp thời đôn đốc các đơn vị rà soát, đánh giá các vấn đề trong chính sách không còn phù hợp và chấn chỉnh hành vi của cán bộ, công chức, cơ quan hành chính nhà nước trong tổ chức, thực thi công vụ phục vụ nhân dân. Như vậy, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Những kết quả đó đã góp phần dân chủ hóa quá trình hoạch định và thực thi chính sách, giảm thiểu được một phần những bất cập, sai sót trong chính sách; góp phần làm cho chính sách được ban hành đúng đắn hơn, khoa 99 học và hiệu quả hơn trong thực thi; góp phần nâng cao năng lực của Chính phủ trong hoạt động của mình thông qua sự giám sát, xem xét, phản biện, đánh giá của Quốc hội, người dân và xã hội; góp phần hạn chế được sự chuyên quyền, cục bộ, tham nhũng trong quá trình chính sách trước những chế tài, hệ quả chính trị - pháp lý của việc thực hiện TNGT trong HĐCS, TTCS và áp lực dư luận xã hội. 3.3.1.2. Nguyên nhân của những thành tựu Thứ nhất, nguyên nhân trước hết có thể nói đến là do có những chuyển biến tích cực trong nhận thức của Đảng, Nhà nước và nhân dân về vai trò của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC cũng như về vai trò, ý nghĩa của việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong quá trình CSC. Điều đó được thể hiện trong Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp và các bộ luật được ban hành thời gian qua đã quy định ngày càng tương đối rõ về TNGT của Chính phủ cũng như những phản ánh của nhân dân về hoạt động của Chính phủ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các kiến nghị của nhân dân gửi đến các kỳ họp của Quốc hội. Thứ hai, với việc phát triển nhanh của Internet ở Việt Nam trong thời gian qua, hoạt động truyền thông qua phương tiện này như mạng xã hội, blog,... đã ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện TNGT của Chính phủ. Người dân có thêm những nguồn thông tin phong phú, đa dạng và có điều kiện hơn để tìm hiểu, kiểm chứng thông tin. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông qua Internet cũng đã được Chính phủ quan tâm thời gian gần đây. Chính điều đó đã giúp cho người dân kết nối với nhau và kết nối với Chính phủ một cách thuận tiện hơn. Qua đó, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội, nhóm phi chính thức cũng có sự phát triển tạo nên những kênh trao đổi, tuyên truyền thông tin giúp người dân gia tăng tiếng nói và khả năng tham gia vào quá trình CSC cũng như có những phản biện, đánh giá quá trình CSC và yêu cầu TNGT của Chính phủ. Thứ ba, các nhân tố khác ảnh hưởng đến việc thực hiện TNGT như sự phát triển kinh tế, mức độ dân chủ, văn hóa chính trị, tự do dân sự ở Việt Nam trong thời gian gần đây đã có những cải thiện đáng kể tác động mạnh đến việc thực hiện TNGT của Chính phủ. Điều đó thể hiện được mối quan hệ hai chiều giữa nhà nước và xã hội: Chính quyền mở rộng không gian để người dân tham gia nhiều hơn vào các vấn đề chính trị, thì người dân cũng bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề thể chế, chính sách từ đó có những yêu cầu ngày càng nhiều hơn về TNGT của Chính phủ trong quá trình chính sách. 100 Thứ tư, những tác động từ xu thế phát triển trên thế giới đặt ra những yêu cầu đòi hỏi về TNGT của Chính phủ và sự tham gia của người dân trong quá trình CSC. Việt Nam muốn hội nhập với thế giới không thể không tôn trọng và thực hiện những nguyên tắc hội nhập của quốc tế, trong đó có những yêu cầu về TNGT. Đánh giá của cộng đồng quốc tế là một yếu tố khách quan gia tăng áp lực lên việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong quá trình CSC. Nhất là, khi có sự chuyển dịch các chức năng nhà nước từ cai trị, điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính và hành động. Vì vậy, thời gian qua việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi CSC đã có những bước khởi sắc, đáng ghi nhận. 3.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân 3.3.2.1. Những hạn chế Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, quy định và việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định và thực thi CSC vẫn còn những hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả của quá trình HĐCS, TTCS nói riêng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ nói chung. Cụ thể như sau: * Hạn chế từ các quy định pháp lý về trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách công Thứ nhất, ở Việt Nam chưa xây dựng quy định riêng, có tính chất hệ thống về TNGT của Chính Phủ trong hoạch định và thực thi CSC từ khái niệm, nội dung, hình thức, cơ chế thực hiện TNGT. Các quy định hiện hành chỉ mới đề cập, tiếp cận TNGT ở góc độ cung cấp thông tin, giải thích cho cách thực hiện và kết quả công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quan điểm về TNGT của Chính phủ được quy định trong pháp luật Việt Nam còn hẹp, chưa nhấn mạnh đến vấn đề chịu trách nhiệm như thế nào; giải trình của Chính phủ trong quá trình hoạch định, thực thi CSC hay sau khi ban hành chính sách, thực thi chính sách; các quy định để ràng buộc thực hiện TNGT của Chính phủ trong HĐCS, TTCS còn thiếu và chưa cụ thể... Do đó, sẽ rất khó để nâng cao hiệu quả việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong thực tế. Thứ hai, những quy định về nội dung giải trình của Chính phủ trong hoạch định và TTCS còn chung chung. Điều này sẽ dẫn đến việc chung chung trong báo cáo, trong giải trình và khó khăn trong xác định, xem xét và quy kết trách nhiệm. Từ 101 đó, có thể dễ dẫn đến hiện tượng né tránh trách nhiệm, đổ lỗi trách nhiệm sang chủ thể khác trong thực tế mà cuối cùng cũng không xác định được trách nhiệm thuộc về ai. Điều quan trọng là cần phải quy định các nội dung giải trình căn bản trong HĐCS và TTCS một cách cụ thể. Ví dụ, về cơ sở của mục tiêu chính sách và các biện pháp tổ chức thực hiện chính sách như thế nào; giải trình về kết quả của quá trình HĐCS, TTCS cũng như sự chịu trách nhiệm cụ thể của ai; giải trình và chịu trách nhiệm ở khâu nào trong quá trình chính sách. Thứ ba, các quy định về hình thức, phương pháp, thời gian thực hiện TNGT của Chính phủ cũng còn những hạn chế, mà nếu không giải quyết được những hạn chế này sẽ dẫn đến nhiều vấn đề nan giải vô cùng phức tạp trong thực hiện TNGT. Đó là sự chưa tương xứng giữa những quy định về hình thức, phương pháp với thời gian thực hiện TNGT; hình thức, phương pháp và thời gian thực hiện TNGT với khối lượng thông tin cần cung cấp, nội dung cần giải trình. Ví dụ, khi báo cáo của Chính phủ trước Quốc hội để Quốc hội xem xét nhưng khối lượng và chất lượng thông tin về HĐCS, TTCS cần cung cấp là tương đối lớn, phức tạp đòi hỏi có nhiều thời gian mới có thể đánh giá thấu đáo trong khi thời gian báo cáo giải trình, thời gian để Quốc hội xem xét nhìn chung rất ít. Mặt khác, vấn đề luôn tiềm ẩn trong quyền lực ủy quyền - đại diện, người được ủy quyền - đại diện có xu hướng “che dấu thông tin” “che dấu hành động” sẽ tận dụng sự bất đối xứng thông tin, bất đối xứng giữa hình thức với nội dung và thời gian để không cung cấp những thông tin quan trọng, bản chất của vấn đề giải trình... Vậy, cần có những quy định nào để khắc phục những vấn đề nan giải đó thì chưa được quy định cụ thể. Các hình thức thực hiện TNGT trước nhân dân và xã hội còn nhiều hạn chế. Cụ thể như chưa nêu rõ phương thức hay kênh trực tiếp chính thống thường xuyên để người dân - người chủ quyền lực có quyền giám sát, kiểm soát TNGT của Chính Phủ trong hoạch định và thực thi CSC từ các khâu nhận diện, lựa chọn vấn đề chính sách đến xây dựng và ban hành chính sách mà chỉ thông qua đại biểu Quốc hội hoặc đại diện Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội... Tuy nhiên, các tổ chức này ở Việt Nam gần như không có tính độc lập với các cơ quan nhà nước. Vì vậy, vai trò giám sát, phản biện chính sách của các tổ chức này là rất mờ nhạt. Một số 102 quy định pháp luật về hình thức giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội (Điều 27, Điều 34 của Luật Việt Nam về hình thức giám sát và phản biện xã hội...) mang lại hiệu quả không cao. Theo các nhà nghiên cứu nhấn mạnh giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực ra là giám sát không chế tài. Đây là “một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thời gian qua chưa như mong đợi; kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhiều khi là một chiều; sự phản hồi chưa có chuyển biến tích cực, rất khó xác định trách nhiệm bảo đảm thực hiện được các hình thức giám sát, phản biện xã hội” [194]. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua việc tham dự, đóng góp ý kiến, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước... Tuy nhiên, trong thực tế, nhân dân tham gia đóng góp ý kiến vào quá trình hoạch định, thực thi CSC như thế nào thì lại chưa được quy định cụ thể. Việc tham gia vào quá trình chính sách của người dân mới chỉ dừng lại ở quá trình lấy ý kiến nhân dân vào các dự án pháp luật được đăng ở website của Chính phủ, Quốc hội, các cơ quan nhà nước ở địa phương; hoặc thông qua việc tiếp xúc cử tri của cơ quan dân cử. Xét một cách khách quan, phần lớn các hoạt động này chỉ mang tính hình thức, diễn ra một cách đối phó và hiển nhiên điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự tham gia của người dân trong việc yêu cầu và giám sát TNGT của Chính phủ. Thứ tư, các quy định về hệ quả chính trị - pháp lý của việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong hoạch định và thực thi chính sách. Vấn đề quan trọng là thông qua việc thực hiện TNGT có thể quy kết được trách nhiệm nếu trong quá trình HĐCS, TTCS để xảy ra những hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, những quy định về trách nhiệm đối với quá trình và kết quả thực hiện nhiệm vụ trong HĐCS, TTCS của Chính phủ hiện rất mờ nhạt, không rõ ràng. Các hình thức xử lý khi có vi phạm quy định về TNGT trong Nghị định 90 cũng được quy định theo hướng xử lý theo các quy định của pháp luật mà không có chế tài nào cụ thể được đưa ra. Mặc dù đã có những quy định về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm nhưng việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm không phải là chỉ dựa vào việc thực hiện TNGT. Tương tự các quy định vấn đề từ chức, cách chức cũng như thế. 103 Vậy, những quy định nào cụ thể về cơ chế thưởng, phạt nhằm thúc đẩy TNGT nói chung, TNGT của Chính Phủ trong hoạch định và thực thi CSC nói riêng là vấn đề đáng quan tâm. Theo quy định, sau các phiên giải trình, chất vấn thì Quốc hội sẽ ban hành nghị quyết về chất vấn, kết luận về phiên giải trình nhưng những quy định ràng buộc trách nhiệm hay điều kiện bảo đảm chủ thể giải trình sẽ thực hiện đầy đủ, đúng yêu cầu Nghị quyết, kết luận đó là chưa chặt chẽ. Mặt khác, chưa nói đến là trên thực tế kết luận lại rơi vào chung chung, không xác định trách nhiệm thuộc về ai... Vậy, nếu không giải trình được hoặc giải trình không thỏa đáng thì phải chịu hậu quả chính trị - pháp lý như thế nào? Chế tài nào gắn liền với các mức độ? Nếu giải trình thuyết phục, có cơ sở được đa số nhân dân đồng tình thì cũng cần có cơ chế khích lệ mạnh mẽ để thúc đẩy TNGT cao hơn. Qua đó, sẽ góp phần hình thành TNGT của Chính phủ như một phương tiện thực chất để nhân dân có thể kiểm soát, giám sát quyền lực của mình, có thể quy kết được trách nhiệm của Chính phủ khi cần thiết. * Hạn chế từ việc thực hiện trách nhiệm giải trình của Chính phủ trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách công Thứ nhất, việc thực hiện TNGT của Chính phủ trong hoạch định, thực thi CSC chưa bảo đảm cung cấp, công khai, minh bạch thông tin; chưa bảo đảm tính toàn diện, đầy đủ của thông tin cần được Chính phủ báo cáo, giải thích;... Đây chính là vấn đề nan giải về thông tin. Thông tin chính là điều kiện tiên quyết, là cơ sở để có thể yêu cầu, xem xét hay đánh giá về quá trình HĐCS, TTCS. Có thông tin mới có thể yêu cầu Chính phủ giải trình cái gì, tại sao cần phải giải trình... và dựa vào thông tin đầy đủ, toàn diện, đúng đắn mới có thể quy kết được trách nhiệm của Chính phủ. Nếu thông tin bị cắt xén, hay tô hồng sẽ dẫn đến những sai lệnh trong đánh giá và hậu quả là sự lạm dụng quyền lực, tham nhũng chính sách sẽ tiếp diễn trong sự “bưng bít thông tin”. Bản thân sự ủy quyền luôn có nguy cơ người được ủy quyền có thể tìm cách tối đa hóa lợi ích của mình bằng cách “che giấu thông tin”, “che giấu hành động” đối với người chủ. Đây là vấn đề nan giải mang tính căn cơ, mẫu chốt nhất cần giải quyết để tạo tiền đề tháo gỡ các vấn đề nan giải khác trong việc thực hiện TNGT của Chính phủ. Trong quá trình thực hiện TNGT, những hạn chế, bất cập về nội dung giải trình của Chính phủ là tương đối lớn. Nội dung giải trình về hoạch định, thực thi CSC 104 liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ thì chưa được giải trình đầy đủ. Đặc biệt, những nội dung liên quan đến lợi ích nhóm, sự tham gia của người dân trong hoạch định, thực thi CSC đến nội dung về vấn đề chính sách được lựa chọn, các giải pháp tổ chức TTCS; về những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến lợi ích của các đối tượng chính sách... chưa được giải trình thuyết phục, thỏa đáng. Việc trả lời chất vấn của các bộ trưởng, thành viên Chính phủ trước cơ quan dân cử, đại biểu Quốc hội, trước các bên liên quan và trước cơ quan báo chí nhiều khi còn chung chung, không đi trực tiếp vào vấn đề được hỏi, né tránh trách nhiệm, thông tin giải trình trong các buổi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_trach_nhiem_giai_trinh_cua_chinh_phu_trong_hoach_din.pdf
Tài liệu liên quan