MỞ ĐẦU .1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .6
1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh kinh tế, chính trị, xã hội triều
Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.6
1.2. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng trị nước của vị vua Gia Long,
Minh Mệnh, Thiệu Trị.16
1.3. Các công trình nghiên cứu về giá trị, hạn chế trong tư tưởng trị nước
của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị.23
1.4. Khái quát về các kết quả nghiên cứu triều Nguyễn với tư tưởng trị
nước của các vị vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và những vấn đề đặt
ra cần tiếp tục nghiên cứu, giải quyết trong luận án.27
Chương 2: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XIX VÀ
NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH Tư TưỞNG TRỊ
NưỚC CỦA CÁC VUA ĐẦU TRIỀU NGUYỄN.31
2.1. Bối cảnh lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ XIX.31
2.1.1. Tình hình chính trị .31
2.1.2. Tình hình kinh tế.42
2.1.3. Tình hình văn hóa, tư tưởng .47
2.1.4. Tình hình xã hội.49
2.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng trị nước của các vị
vua đầu triều Nguyễn.55
2.2.1. Lãnh thổ thống nhất.55
2.2.2. Học thuyết chính trị Nho giáo .57
2.2.3. Vai trò xã hội của tầng lớp nho sĩ thời kỳ đầu nhà Nguyễn .59
2.3. Đôi nét về tiểu sử của các vị vua đầu triều Nguyễn. .62
Chương 3: NHỮNG NỘI DUNG Tư TưỞNG TRỊ NưỚC CƠ BẢN CỦA
CÁC VỊ VUA GIA LONG, MINH MỆNH VÀ THIỆU TRỊ.66
161 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 638 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Tư tưởng trị nước của các vị vua Gia Long, minh mệnh, thiệu trị và ý nghĩa lịch sử của nó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gốc là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong quá trình quản lý đất nước của các
triều đại phong kiến Việt Nam trước kia, và đến lượt mình, vua Gia Long đã
kế thừa triệt để quan điểm đó. Có thể nói, vua Gia Long là người hiểu rõ vai
trò của việc lấy dân làm gốc trong việc trị nước của mình.
Trước khi vua Gia Long (Nguyễn Ánh) qua đời đã chọn Hoàng tử Đảm
là người kế vị ngôi báu của mình. Chính vì vậy, sau khi ông qua đời, Hoàng
tử Đảm đã trở thành ông vua thứ hai của triều Nguyễn với hiệu là Minh
Mệnh. Vốn là người được học hành, đào tạo có quy củ nơi Tập Thiện đường,
đặc biệt là từ vua cha, cho nên ông nắm vững kiến thức Nho học và trở thành
một vị vua thông minh, uyên thâm văn võ, hiểu biết sâu rộng các lĩnh vực
trong xã hội, được đánh giá là vị vua quyền lực nhất trong các vị vua của triều
đình nhà Nguyễn. Năm 1821 khi đề cập đến vai trò của Tập Thiện đường, ông
nói: “Ta từ khi hãy còn nhỏ tuổi, đã nhờ ơn Hoàng khảo dạy bảo cho nhiều
điều, nên mới có được như ngày nay. Nhớ lại những ơn sâu dạy bảo trông
nom, ta đau lòng khôn xiết, ứa nước mắt, nghẹn ngào nói chẳng ra lời, dường
như những lời dạy bảo của Hoàng khảo đang còn văng vẳng bên tai. Nhân thế
ta nghĩ, từ khi lên ngôi đến nay, vì ngôi báu của tôn miếu xã tắc, khiến ta
không dám coi nhẹ việc kén chọn” [43, tr.110 - 111]. Với lời tự bạch như vậy
71
đã cho chúng ta thấy tinh thần “vô cải” trong tư tưởng trị nước của ông, nghĩa
là ông nhất mực noi theo tư tưởng trị nước của vua cha, từ sự kết hợp đức trị
(Nho gia) với pháp trị (Pháp gia) cho đến các lĩnh vực đời sống xã hội khác vì
mục tiêu xây dựng nhà nước phong kiến mạnh, đồng thời giữ gìn được toàn
vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia.
Chính vì vậy, sau khi lên ngôi (1821), vua Minh Mệnh đã phát triển
đường lối trị nước của vua Gia Long thành một hệ thống tư tưởng chính trị -
xã hội hoàn chỉnh với những dấu ấn riêng có của mình. Đó là việc sử dụng
nhuần nhuyễn pháp trị kết hợp với đức trị trong chính sách cai trị của mình,
song hành với việc đề cao các giá trị đạo đức Nho giáo như tận trung, tận
hiếu, tận trinh là những hình phạt khắt khe nhất, tức là thưởng hậu phạt nặng
đối với những trường hợp vi phạm kỷ cương phép nước.
Do đó, vua Minh Mệnh nhấn mạnh: “Trẫm nghĩ thánh nhân trị nước,
hình phạt và đức hóa chưa từng lệch bỏ bên nào. Vì lòng dân có dục vọng,
việc đời không bến bờ, nếu không có hình pháp để ngăn ngừa, không thể
khiến người theo giáo hóa mà biết đạo đức được, cho nên nói hình pháp là khí
cụ giúp cho chính trị, có phải nói suông đâu! Luật lệnh là lệ để đoán định hình
phạt. Người xưa bàn việc mà chế trị, không dùng chém giết, có phải là việc
chém giết không thể dùng được đâu! Chỉ là dân thuần việc ít, còn có thể qua
loa được. Nhưng phong hội đã xuống, việc ngụy ngày thêm, hình phạt không
đủ để thắng kẻ gian, khoa điều không đủ để dùng vào việc, cho nên luật lệ
điều lệnh, dần có tăng lên. Có phải là bởi xưa nay khác nhau mà luật không
thể thiếu được đâu! Các triều nước ta tới nay đều có lệnh điển Trẫm nhờ uy
thiêng của liệt thánh, dẹp yên giặc loạn, thống nhất bờ cõi, ngang dọc sửa
sang, hằng lấy giáo hóa làm việc trước, mà việc hình ngục lại càng chú ý hơn.
Mở xét sách hình luật các đời trước, nước ta từ Lý, Trần, Lê dấy lên, mỗi đời
có một chế độ, mà đầy đủ nhất là đời Hồng Đức. Trung Quốc thì các nhà Hán,
Đường, Tống, Minh dấy lên, sách luật lệnh mỗi đời đều có sửa đổi mà đầy đủ
72
nhất là ở nhà Đại Thanh. Vậy sai đình thần chuẩn theo điển lệnh của các triều,
tham chước điều luật của đời Hồng Đức và của nhà Thanh, lấy bỏ cân nhắc,
cốt sao cho đúng, mà vựng tập thành biên. Trẫm thân tự sửa chữa, ban hành
cho thiên hạ khiến người ta biết được phép lớn cấm ngừa, rõ như mặt trời mặt
trăng không thể ẩn giấu. Điều cấm răn dạy nghiêm như sấm sét không thể
xâm phạm. Kẻ lại giữ việc quan được vâng làm phép sáng, người dân ngu dốt
dễ tránh sự sai lầm, do đó dời đến điều lành, lánh xa trừng phạt, thoát hình
ngục mà theo giáo hóa, không phạm đến quan, chẳng hại lẽ chính. Ngõ hầu
thi hành hình pháp được long trọng, chẳng phải là nhờ ở đấy sao?”[60, tr.842
- 843]. Vua Minh Mệnh là người đã có công lao rất lớn trong việc phát triển
và hoàn thiện các cơ sở nền tảng cho việc xây dựng thể chế chính trị đã có từ
thời Gia Long cho triều đình nhà Nguyễn. Ông đề cao tư tưởng Nho giáo về
tôn quân quyền nhằm mục đích thu phục thần dân, tập trung toàn bộ quyền
lực vào tay mình. Có thể nói, tư tưởng tôn quân quyền của Nho giáo đã được
các nhà nước phong kiến phương Đông đề cao trong việc thực hiện xây dựng
chế độ quân chủ chuyên chế, ngay từ thời Lý - Trần đã được các triều đại
quan tâm, song tư tưởng này được củng cố và phát huy cao độ vào thời kỳ Lê
sơ. Vua Minh Mệnh cũng là người hết lời ca ngợi tấm gương đạo đức cũng
như nghệ thuật cai trị của vua Lê Thánh Tông, một ông vua đã đưa nhà nước
Lê sơ lên đỉnh cao của sự thịnh trị. Chính vì vậy, ngoài vua cha của mình,
Minh Mệnh luôn xem vua Lê Thánh Tông là tấm gương sáng để ông học tập
và noi theo.
Như chúng ta đã biết, Nho giáo vốn coi trời là đấng tối cao quyết định
sự tồn tại và vận động của muôn vật, muôn loài trên thế giới. Đối với con
người, Trời ban tính và quyết định số phận của mỗi cá nhân trong đời sống
hiện thực của con người. Đối với xã hội, Trời tạo nên sự thịnh suy, xoay vần,
đắp đổi, thậm chí còn quyết định cả vận mệnh của một triều đại. Cho nên,
những người có đạo đức mới có thể lĩnh hội được những tư tưởng của mệnh
73
trời, có thể thay trời hành đạo, thay trời cai trị muôn dân. Còn những kẻ vô
đạo đức thì sẽ không thể có được mệnh trời, điều này sẽ dẫn đến triều đại suy
tàn, khi đó trời sẽ trao quyền cho những người xứng đáng, có đạo đức hơn để
trị vì thiên hạ. Vua Minh Mệnh cũng coi trời là đấng tối cao có nhân cách, thể
hiện sự hài lòng hay không hài lòng bằng nền chính sự với các điềm lành dữ,
như là thể hiện sự giận dữ trước nền chính trị bạo ngược, hại dân bằng các
điềm gở, tai ương, địch họa nhằm cảnh báo con người... Chính vì thế, vua
Minh Mệnh tuân thủ triệt để quan niệm về đạo đức nhân sinh của Nho giáo,
cho rằng trong trời đất không có gì ngoài đạo làm người, đó là những chuẩn
mực đạo đức bất di bất dịch gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Đây chính là năm
đức lớn và căn bản để con người dựa vào để ứng xử với nhau cho phù hợp,
triển khai ra phạm vi xã hội sẽ là các đức trung, trinh, hiếu, đễ, tín. Đề cập
đến vấn đề này, vua Minh Mệnh nhấn mạnh “ngũ luân”: “Đạo làm người
không có gì cốt yếu bằng làm cho luân lý được trong sáng: vua tôi có nghĩa,
cha con có tình thân, vợ chồng có riêng biệt, anh em có thứ bậc, bạn bè có tin
cậy; ấy là năm điều luân lý quan trọng của người ta”[18, tr.221 - 222].
Từ các chuẩn mực đạo đức được triển khai trong đời sống xã hội, Minh
Mệnh coi nội dung của “ngũ luân” hết sức cần thiết cho việc thiết lập trật tự
xã hội, nó được qui về ba mối quan hệ cơ bản là “tam cương”: vua - tôi, cha -
con, chồng - vợ. Vi phạm các chuẩn mực đạo đức trong “ngũ luân”, đặc biệt
là “tam cương” theo ông, là đồng nghĩa với vi phạm pháp luật, theo vua Minh
Mệnh, cần phải trừng trị nghiêm. Ông cho rằng: “Kẻ gian phu, đứa dâm phụ
làm bại hoại phong tục, nếu bắt tội nhẹ thì làm sao khích lệ liêm sỉ, chỉnh đốn
phong tục được”[74, tr.344]. Chính sách cổ vũ, động viên và khuyến khích
khen thưởng rộng rãi từ trong gia đình, đến dòng họ, từ làng xã đến triều đình,
những phụ nữ có những thành tích đặc biệt trong thực hiện đạo đức được vua
Minh Mệnh coi là cần thiết nhằm mục đích gây dựng và duy trì đạo đức Nho
giáo, biến nó thành thuần phong mỹ tục của đất nước.
74
Ngoài việc đề cao mối quan hệ vợ chồng, vua Minh Mệnh còn chú
trọng đến vai trò của đạo hiếu. Vì thế, ông chỉ rõ: “Ta muốn triệu dân các
ngươi chăm chỉ chính học, biết rõ luân lý; đạo Nghiêu, Thuấn chỉ có hiếu đễ
mà thôi”[18, tr.244]. Cho nên vua Minh Mệnh chủ trương ban thưởng cho
những tấm gương về người con hiếu thảo với cha mẹ của mình. Bên cạnh đó
ông còn chủ trương phạt rất nặng những kẻ bất hiếu, không làm tròn trách
nhiệm với cha mẹ của mình, chẳng hạn trong trường hợp đang chịu tang cha
mẹ mà cố ý tham gia các kỳ thi, hay cha mẹ chịu khổ cực mà không giúp đỡ,
thương yêu cha mẹ thì cũng phải chịu tội.
Minh Mệnh nhận thức rất rõ mối quan hệ trung - hiếu có vai trò rất
quan trọng, bởi theo ông, có thực hiện tốt chữ hiếu thì mới thực hiện tốt chữ
trung. Ông cho rằng, ngay cả cha mẹ của mình mà còn không thương yêu, giữ
tròn đạo hiếu thì làm sao có thể có lòng trung quân, kính trọng bề trên và yêu
thương người khác được. Vì vậy, việc đề cao đức hiếu, đức trinh trong quan
hệ gia đình chính là cơ sở để thực hiện đức trung. Ông ra lệnh dụ: “Lại truyền
cho bộ Hình truyền dụ cho các nha môn trong ngoài biết, từ nay về sau đều
phải một lòng trung vì việc công, vứt bỏ tình riêng. Bạn bè tuy là một trong
năm đạo thường, nhưng Thánh nhân đặt ra điều ấy là để cho những người
chưa ra làm quan. Chưa ra làm quan thì chưa vướng mắc việc công, nên bè
bạn được chơi với nhau bằng nghĩa, đối xử với nhau bằng tình. Còn nếu đã
làm quan thì phải vì nước quên nhà, vì công quên tư. Dẫu là vợ con, người
thân cho đến những việc nghĩa nên làm, người xưa cũng phàn nhiều không
chú ý đến. Huống hồ là bạn bè”[92, tr.107].
Tư tưởng trị nước của vua Minh Mệnh được thể hiện rất rõ việc coi
trọng đạo đức, nhấn mạnh việc làm gương cho thiên hạ và thể hiện sự thành
kính với trời, làm tròn nhiệm vụ của bậc thiên tử. Những chính sách trị nước
trọng yếu đã được ông thi hành trong suốt thời kỳ cai trị của mình, nó có ý
nghĩa rất lớn trong đường lối vương đạo. Những chính sách trị nước của vua
75
Minh Mệnh dựa trên nền tảng đạo đức Nho giáo được thể hiện rất rõ trong tác
phẩm “Minh Mệnh chính yếu” với nội dung của nó có thể tóm lược như sau:
Thứ nhất, là về đạo làm vua. Theo Minh Mệnh thì vua là gốc của phong
hóa, phải làm gương cho thiên hạ: “Ta là vua của cả một nước, vẫn nghĩ sâu
sắc rằng mình là gốc của phong hóa, phải làm gương cho thiên hạ”[69, tr.11].
Do đó, ông xác định người làm vua cần phải thường xuyên rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức của mình: “Trẫm từ khi lên ngôi đến giờ, tai họa thường
xuyên xảy ra, dân chúng ít thỏa, phàm trăm điều lo ấy trẫm vẫn để bụng
không quên, há chẳng phải số mệnh khiến cho như thế sao. Song đã là vua thì
không nên nói đến số mệnh, cũng bởi việc người có lầm lỗi thế nào đó
thôi”[69, tr.85].
Nho giáo coi việc lấy sự tu dưỡng bản thân làm tấm gương giáo hóa là
“thân giáo”, cho nên với tư cách người đứng đầu triều đại ông chú trọng đến
việc lấy phẩm chất của mình để giáo huấn đội ngũ quan lại. Ông nói: “Ai nấy
nên một mực giữ lòng công bình, trung chính, bỏ hết tình diện nể nang Một
khi đã dâng lễ tương kiến để làm tôi, thì vì nước quên mình, vì công quên tư.
Dẫu đến vợ con thân mình và nhà mình, khi gập việc nghĩa phải làm, người
xưa phần nhiều không nghĩ đến tình riêng”[69, tr.104].
Thứ hai, là về đào tạo và sử dụng nhân tài. Minh Mệnh đặc biệt coi
trọng và đề cao những người hiền tài, bởi vì nó ảnh hưởng rất lớn đến sự an
nguy của đất nước. Ông nói: “Rường điện tất phải có cái trụ gỗ đội lên, cũng
như trong nước có người tài giúp sức mới thường giữ được yên lành. Người
xưa nói: người hiền tài là rường cột của quốc gia là thế đó”[73, tr.183].
Trong suốt những năm tháng trị vì vua Minh Mệnh đã nhiều lần ra chiếu dụ
cầu người hiền tài, đề cao việc dùng người tài và chỉ ra những phương thức
để sử dụng họ. Ông cho rằng: “Kẻ hiền tài là đồ dùng của quốc gia, khi chưa
gặp thời, náu mình ẩn dấu tông tích, thì vua chúa làm sao mà biết được, cho
nên ngoài việc khoa cử ra còn cần có người đề cử, trẫm từ khi mới lên ngôi,
76
gắng sức mưu đồ cho nước thịnh trị, rất muốn trong triều có nhiều kẻ sĩ đức
hạnh tốt mà không bỏ sót người hiền tài nào ở nơi thôn dã, để tô điểm sự
nghiệp nhà vua dùng tiếng âm nhạc mà hóa dân trị quốc. Nay hạ lệnh ở kinh
đô, thì quan văn từ Tham tri, võ từ Phó đô thống chế trở lên, không kể nhà
nghèo, nhà thế gia, cần được người có thực tài để lượng xét sao lục ra
dùng”[73, tr.167].
Minh Mệnh đã sử dụng cả tiến cử và khoa cử trong việc chiêu hiền đãi
sĩ, thực hiện việc đó một cách công khai, minh bạch, thường ra chiếu dụ trong
cả nước để tìm những người tài tham gia các kỳ thi tuyển dụng của triều đình.
Các kỳ thi tuyển đã diễn ra khắp nơi để bổ sung những nhân tài phục vụ cho
đất nước. Có thể nói, Minh Mệnh là người có ý thức rất cao trong việc xây
dựng tư tưởng Nho giáo trở thành tư tưởng chính thống của nhà Nguyễn. Tuy
nhiên, là một người uyên thâm Nho học cho nên Minh Mệnh đã tiếp thu và
vận dụng nội dung của nó một cách linh hoạt phù hợp với thực tiễn của đất
nước chứ không theo lối kinh viện của tư tưởng Nho giáo. Đó là việc kết hợp
đức trị với pháp trị một cách tinh tế để giữ gìn kỷ cương phép nước và an dân.
Để thực hiện tư tưởng pháp trị thì ngay từ khi lên ngôi vua Minh Mệnh
đã chỉ rõ: “Sách hình thư, là đồ dùng để giúp việc trị nước”[74, tr.322]. Đến
thời trị vì của ông, như chúng ta đều biết, đã có các văn bản pháp luật ra đời,
đặc biệt là hai bộ Luật Hồng Đức và Luật Gia Long. Về đại thể, các bộ luật là
luật hóa các chuẩn mực, nguyên tắc đạo đức cá nhân và xã hội để triều đình
dựa vào đó mà định tội đối với các trường hợp vi phạm. Việc thực thi luật
pháp với mục đích cao nhất là để cho nhân dân tránh việc vi phạm, tức là “cốt
để răn người ác, trừ kẻ gian”[74, tr.343]. Việc xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, thống nhất từ trên xuống dưới thể hiện tính nghiêm minh của
luật pháp và ngoài ra còn có sự khoan dung của nhà nước.
Bộ Luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) được triều Nguyễn ban hành
vào năm 1813 gồm 398 điều, chia làm 22 quyển, được gọi là một bộ luật hình
77
bởi hầu hết các điều khoản được xây dựng dưới dạng các quy phạm 1830
pháp luật hình sự và áp dụng các biện pháp chế tài hình sự. Sau khi lên ngôi,
vua Minh Mệnh đã cho nghiên cứu lại và chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn
đời sống xã hội dưới thời của ông. Cụ thể “Vào năm 1830 nhà vua ra lệnh
nghiên cứu hiệu chỉnh lại Hoàng Việt luật lệ đối với những điều mà ông cho
là do Nguyễn Văn Thành (đình thần dưới thời vua Gia Long làm tổng tài -
NTN) soạn thảo “theo ý riêng”. Những điều chỉnh bổ sung của vua Minh
Mệnh đã được tập hợp lại trong Quốc triều tân luật. Các đạo dụ đó đã giải
thích, sửa đổi và bổ sung Luật Gia Long ở những điều khoản thuộc về phần
“Danh lệ” cũng như các phần khác” [3, tr.45].
Khi đề cập đến vai trò của luật pháp ông cho rằng, cần phải thực hiện
nghiêm minh, công bằng bởi vì nếu không làm được điều đó thì luật pháp
chẳng còn ý nghĩa gì nữa cả. Bởi lẽ, theo vua Minh Mệnh khi đem ra áp dụng
thì “Luật án như là sắt, không thể du di được” [74, tr.337]. Do đó việc ban
hành luật pháp phải chính xác và được áp dụng trong việc xét xử phải công
bằng với tất cả mọi người, không trừ một ai, việc không xử lý những người có
tội sẽ làm mất đi tính nghiêm minh của luật pháp. Để đảm bảo các yêu cầu đó
thì trong việc xét xử phải hết sức thận trọng, công tâm, bởi “mạng người rất
quí trọng, nên xét đi, xét lại kỹ càng mọi trường hợp để tình lý được dung hòa
và xác đáng” [74, tr.363]. Do đó, ông chủ trương cần phải xử lý đúng người,
đúng tội, hài hòa giữa công và tội thì mới thu phục được muôn dân.
Dưới thời trị vì của vua Minh Mệnh luôn thể hiện rõ tính nghiêm minh
của luật pháp, sử sách còn ghi rõ là có hơn 200 người đã bị xử tử trong vụ án
cường đạo ở Bắc Thành vào năm Minh Mệnh thứ IV. Hay vào tháng 7/1835,
trong trận đánh quyết định dẹp loạn Lê Văn Khôi, ông đã ra lệnh chém tại chỗ
554 người, bắt sống 1.278 người (tất cả những người này sau cũng đều bị xử
chém) [79, tr.349]. Điều này thể hiện rất rõ việc nghiêm trị trong việc xử lý
những người vi phạm các quy định của triều đình.
78
Ngoài ra, vua Minh Mệnh cũng thể hiện rất rõ quan điểm “quân pháp
bất vị thân” trong việc xét xử những quan quân phạm tội, ông chỉ rõ: “Dẫu
rằng tang vật chẳng qua 10 lạng mà thôi, nhưng pháp luật cốt để tru diệt lòng
dân, bằng nay tha một mạng nó, thời những kẻ coi thường pháp luật sau này,
giết sao xuể” [74, tr.341]. Đó là lúc ông sai chém đầu khi Trần Công Trung
phạm tội hối lộ. Ngay cả với người thân của hoàng tộc cũng bị ông xử tội rất
nghiêm, chẳng hạn việc phế truất hoàng tử Miên Phú do phạm tội đã chứng
minh cho điều đó. Ông nói: “Trẫm là chúa tể của thiên hạ, nếu vì con em mà
không áp dụng pháp luật, thời lấy gì làm gương cho mọi người”[74, tr.370].
Mặc dù chủ trương trị nước theo tinh thần kết hợp đức trị với pháp trị, coi bản
chất của “chính trị cần ở chỗ vừa khoan dung vừa nghiêm ngặt”[75, tr.253],
nhưng khi đánh giá về ông, người đời thường coi ông là người quá nghiêm
khắc, tới mức trở thành “bạo chúa”. Chẳng hạn nhà sử học cuối triều Nguyễn
là Trần Trọng Kim khi nói về Minh Mệnh đã viết rằng: “Trong đời vua
Thánh Tổ làm vua, pháp luật, chế độ điều gì cũng sửa sang lại cả, làm thành
một nước có cương kỷ. Nhưng chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực
theo cổ, không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung
cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, lại tuyệt giao với ngoại
quốc làm thành ra nước Nam ta ở lẻ loi một mình. Đã hay rằng những điều
lầm lỗi ấy là trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu nước ta lúc
bấy giờ, chứ không riêng chi một mình ngài, nhưng ngài là một ông vua
chuyên chế một nước, việc trong nước hay dở thế nào ngài cũng có một
phần trách nhiệm rất to, không sao chối từ được. Vậy cứ bình tĩnh mà xét thì
chính trị của ngài tuy có nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở; ngài
biết cương mà không biết nhu, ngài có uy quyền mà ít độ lượng, ngài biết có
dân có nước mà không biết thời thế tiến hóa. Bởi vậy cho nên nói ngài là
một anh quân thì khí quá, mà nói rằng ngài là bạo quân thì không công bằng.
Dẫu thế nào mặc lòng, ngài là một ông vua thông minh, có quả cảm, hết lòng
79
lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông vua nào làm được
nhiều công việc hơn ngài vậy”[32, tr.493, 494]. Đó cũng là nhận định chung
của giới học giả về vị vua thứ hai của triều Nguyễn đã có nhiều nỗ lực trong
việc xây dựng nhà nước phong kiến trung ương tập quyền lên đỉnh cao trên
cơ sở kế thừa, cải cách, phát triển các quan điểm và cách thức tổ chức bộ
máy nhà nước với các định chế ngày một hoàn thiện; các quan điểm về kinh
tế, văn hóa, giáo dục và đặc biệt là quan điểm tôn giáo, ngoại giao với các
nước láng giềng và phương Tây.
Đến thời kỳ trị vì của vua Thiệu Trị khi ông lên ngôi với bản chất là
người hiền lành, không thích sự thay đổi cho nên những phép tắc được đặt ra
từ thời kỳ trị vì của vua Minh Mệnh được ông giữ gìn, tuân thủ như thời kỳ
trước và luôn làm theo những điều vua cha trước khi qua đời dặn dò. Chính vì
vậy, khi lên ngôi vua Thiệu Trị vẫn giữ nguyên như cũ, những quan quân
được vua cha tín nhiệm từ trước vẫn được ông sử dụng. Nhà Nguyễn nói
chung và vua Thiệu Trị nói riêng cũng rất quan tâm đến đạo trị nước. Kế thừa
tư tưởng của Khổng Tử khi đề cập đến đạo trị nước ông cho rằng, nếu là
vương đạo thì lấy đức, lấy nhân, lấy giáo hóa, lấy người hiền mà trị, càng
dùng ít hình phạt càng hay, càng không nhiễu dân thì càng tốt, được dân vui
lòng thuận theo. Chính vì vậy, khi đề cập đến cách ăn mặc của dân Bắc Hà thì
Thiệu Trị đã nói: “Cách ăn mặc từ Hà Tĩnh ra Bắc Hà theo tập quán quê mùa
của các đời Đinh, Lý, Trần, Lê. Đức Hoàng Tổ ta thánh vũ sáng suốt, buổi
đầu đại định đất nước, khó gì mà không ra được một lệnh thay đổi. Nhưng,
thay đổi phong tục tất phải làm dần, phàm các chế độ, pháp lệnh, trước hết
cần phải đổi bỏ những điều phiền phức, còn về đồ mặc chưa rỗi để nghĩ đến”
[18,tr.311]. Do đó, vua Thiệu Trị cũng nêu ra những điều khuyên răn của việc
trị đạo gồm có: “kính thiên, pháp tổ, cần chính, ái dân”. Ông cho rằng: “Đó là
bốn đầu mối của đạo làm vua, trẫm ngày đêm chăm chỉ, sớm chiều lo sợ,
cũng chỉ là bốn việc ấy” [18, tr.290]. Thiệu Trị cũng như các vị vua đầu triều
80
Nguyễn đã tập hợp những điều khuyên răn đó để truyền bá trong dân chúng,
với hình thức trích lục những câu chuyện trong kinh, truyện, sử của Nho giáo
để phân loại rồi làm thành những nội dung cho mỗi lời khuyên răn để cho in
thành sách và phổ biến trong nhân dân.
Trong bốn điều khuyên răn thì ở “kính thiên” ông viết: “Trời sinh muôn
dân. Ý trời khó biết. Ưa đức tốt. Phải thành tâm. Thông minh trí tuệ, trị dân
được. Kinh sợ uy trời, vui lòng trị dân. Phải yêu phải kính mới hưởng. Chẳng
quý thước ngọc mà quý tấc bóng. Không dám vùi lấp cái gì mà kẻ dưới giãi
bày. Vâng chịu mệnh trời. Tiếng đức yên lặng; dân thì đổi lớn; vua thì rất
kính. Mở rộng đức dân. Luôn luôn chăm chỉ một lòng” [18, tr.290]. Điều đó
chứng tỏ quan điểm trị nước của Thiệu Trị ngoài “bát mục điều” của Khổng
Tử nêu, ông còn thể hiện sự tuân thủ “mệnh trời” và tôn trọng “kẻ dưới”.
Về nội dung “pháp tổ” ông cho rằng: “Gây nền vương giả, dựng
nghiệp gian nan. Tiếng đức êm êm, lòng văn thoai thoải. Văn giới vũ bang;
trời làm núi cao; phải rõ, phải theo, phải học đòi, phải trông xem. Đối với kẻ
dưới phải giản dị. Đối với dân chúng phải rộng rãi. Tiếp thu ban hành, kẻ hiền
tài được làm quan. Quy củ chẳng trái, khinh võ nhiều bề, noi theo phép thành.
Kinh nghiệm vui vầy, bốn phương một lòng, giữ gìn nghiệp vua. Noi bước tổ
tiên, đặt vững vương triều” [18,tr.290]. Đó chính là đường lối chính trị vương
đạo về việc đối đãi với những kẻ dưới quyền và chính sách chiêu hiền đãi sĩ
thuần túy của Nho giáo.
Trong Điều răn về “cần chính” ông chỉ rõ: “Trời chuyển mạnh mẽ,
quân tử gắng sức. Tối mờ, tảng rạng, ngủ ở minh đường. Muôn việc tự xét.
Bốn phương xếp đặt, phải tinh phải nhất, phải cơ mầu, phải vững mạnh.
Không chệch không trệch, không biếng, không hoang. Lo lo sợ sợ, ron rón ren
rén. Trước mặt muôn việc không hề dám trễ. Đong lường đức nghĩa. Nêu rõ
trung lương. Chính trợ đãi nhân. Trọng dụng người giỏi. Kính cẩn ở đức, đạo
ấy rạng tỏ”[18, tr.291]. Có thể nói, những điều răn này có ý nghĩa rất lớn đặc
81
biệt là phận sự của người cầm quyền (quân tử) phải luôn gắng sức, phải tỏ ra
mạnh mẽ nhưng không độc đoán, mà suy trước tính sau, phải biết lo sợ, đặc
biệt việc trọng dụng nhân tài phải đúng với thực chất, tạo mọi điều kiện tốt
nhất cho nhân tài cống hiến.
Trong “Ái dân” ông quan niệm rằng: “Gây dựng tính người, thiêng hơn
muôn vật. Muốn trị thiên hạ, phải theo chín phép. Tu thân bằng nhân nghĩa để
làm gương cho triều đình. Xem xét phong tục, đặt nền giáo hóa để cho trong
nước được yên ổn. Nhà nhà đầy đủ, bốn phương đến chầu. Chớ thờ ơ với
người góa vợ kẻ góa chồng. Phải nghe ngóng tìm kiếm. Lấy lễ mà dạy dân,
lấy hình phạt để ngăn ngừa. Giúp người đời, làm bậc anh cả của nhân dân.
Đức sáng rất thơm. Mây rủ mưa tuôn, muôn vật sinh sôi nảy nở. Dân là gốc
nước, gốc vững mới yên”[13, tr.291]. Điều đó đã thể hiện rất rõ trong chủ
trương giáo hóa của triều đình nhằm thu phục nhân tâm. Quan điểm trị nước
của ông thể hiện tinh thần “pháp tổ”, đó là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị,
lấy “lễ để dạy dân, lấy hình phạt để ngăn ngừa” theo tinh thần coi dân là gốc
của nước (dân vi bang bản).
Như vậy, có thể nói dù kết hợp tư tưởng đức trị và pháp trị trong việc
trị nước tuy có lúc cứng rắn, cũng có khi mềm dẻo nhưng các vị vua thời kỳ
đầu nhà Nguyễn với quyết tâm rất cao trong việc gây dựng lại cơ đồ mà cha
ông để lại. Nếu như vua Gia Long là người đặt nền móng cho việc xây dựng
vương triều thì vua Minh Mệnh là người kế thừa, phát triển còn vua Thiệu Trị
là người có công lao gìn giữ những thành tựu ấy. Các vị vua của triều đình
nhà Nguyễn với quyết tâm rất cao xây dựng tư tưởng trị nước theo quan điểm
của Nho gia.
3.2. Tƣ tƣởng về tổ chức và xây dựng bộ máy nhà nƣớc
Những tư tưởng trị nước của thế hệ đi trước cùng với việc những hình
thức và cách thức điều hành bộ máy quản lý nhà nước đã được vua Gia Long
82
kế thừa, tiếp thu và học tập trong việc điều hành đất nước. Năm 1802 sau khi
thống nhất đất nước trên toàn cõi, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu là
Gia Long, nhưng tới năm 1804 ông mới đặt quốc hiệu chính thức cho nước ta
là Việt Nam và lên ngôi hoàng đế vào năm 1806. Quan điểm của Nho gia về
mệnh trời đã được vua Gia Long thực hiện một cách rất nghiêm cẩn trong
việc lựa chọn thời điểm lên ngôi chính thức và sắp xếp tổ chức bộ máy nhà
nước. Đó là tiền đề tư tưởng quan trọng để vua Gia Long và các vua kế tiếp
trong thời Nguyễn sơ xây dựng bộ máy nhà nước phong kiến trung ương tập
quyền, ở đó vua tự cho mình là “thiên tử”, tức “con trời”, nhận mệnh lệnh của
Trời mà cai trị thiên hạ theo tinh thần giáo hóa muôn dân (thừa Thiên hưng
vận). Theo đó Hoàng đế nắm toàn bộ quyền hành về lập pháp, hành pháp,
giám sát, tư pháp, bang giao và quân sự.
Tuy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_tu_tuong_tri_nuoc_cua_cac_vi_vua_gia_long_minh_menh.pdf